Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - Hồi 8 - Chương 30 - Phần 1

Chương XXX: CUỘC QUYẾT CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA THỤC HÁN

Chung Hội tự biết không được
triều đình Tào Ngụy tín nhiệm, bèn bàn bạc với Khương Duy, muốn lợi dụng quân
Thục và quân trực thuộc của mình làm phản, kiên trì cố thủ Thục Trung, chiếm
đất xưng vương.

Khương Duy ra sức khuyên Chung
Hội, nhân thời cơ giết chết các tướng phương bắc để tự bảo toàn. Lại phái người
ám sát Chung Hội, để mưu toan khôi phục nhà Hán.

l. Hình thái ba nước thời kỳ sau Gia Cát Lượng

Sau khi Gia Cát Lượng mất, nhân
dân Thục Trung nhớ ân đức, râm ran yêu cầu lập miếu thờ Gia Cát Lượng, song Lưu
Thiện cho rằng Gia Cát Lượng không phải hoàng tộc, lập miếu thờ không hợp với
phép tắc, không nghe theo. Song trăm họ vẫn nhớ ngày mất, tế cúng riêng cho Gia
Cát Lượng ở bên đường, quan lại cũng không quản lý được, chỉ mắt nhắm mắt mở mà
thôi. Thế rồi phong trào tế riêng ngày càng thịnh, lại vượt quá tế tự đối với
Lưu Bị.

Bộ binh hiệu uý Tập Long dâng
thư xin lập một ngôi miếu ở gần mộ Gia Cát Lượng tại Miện Dương để chặn phong
trào tế riêng, tránh được ảnh hưởng phạm đến lễ phép quốc gia, Lưu Thiện đành
phải nghe theo.

Lưu Thiện lệnh cho Tả tướng
quân Ngô Ý thay Nguỵ Diên chỉ huy phòng vệ Hán Trung, lại lệnh cho Vương Bình
mang quân bảo hộ giúp đỡ. Lại lấy Trưởng sử Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh,
tổng quản việc quốc sự, kiêm Thứ sử Ích Châu.

Năm sau Dương Nghi bởi tội phỉ
báng nên bị giam giữ, tự sát mà chết. Tưởng Uyển được thăng làm Đại tướng quân,
Lục thượng thư, Phí Vỹ thay Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh, chính thức thành
lập lại chính quyền Thục Hán sau thời kỳ Gia Cát Lượng.

Lúc đấy là năm Thanh Long thứ 3
đời Ngụy Minh đế, tức là năm 235 sau Công Nguyên.

Viễn chinh nhiều năm, lại thêm
chủ tướng từ trần, tình hình trong nước không ổn định, Tưởng Uyển nghĩ muốn
chinh phạt bên ngoài ắt phải sớm yên được bên trong, ngoài việc phái Khương Duy
tăng cường phía bắc và phòng vệ tây bắc, vào giai đoạn này, Thục Hán không có
hành động quy mô lớn nào về chinh phạt.

Cho đến ba năm sau, vào năm 238
sau Công Nguyên, Tưởng Uyển được thăng làm Đại Tư mã, lấy Khương Duy là Tư mã,
đến đóng ở Hán Trung, tích cực trù bị khôi phục việc bắc phạt.

Năm sau Ngụy Minh đế Tào Tuấn
từ trần, dặn lại lấy con nuôi là Tào Phương kế thừa đại quyền, và lệnh cho con
Tào Chân là Tào Sảng cùng với Tư Mã Ý làm đại thần phụ tá.

Bởi Tào Phương mới tám tuổi,
Đông Ngô và Thục Hán đều cho rằng đây là cơ hội tốt, Đông Ngô phái chủ tướng
đông chiến tướng Toàn Tông đánh Hoài Nam, còn Khương Duy của Thục Hán thì từ Kỳ
Sơn quấy nhiễu biên giới, song không được gì mà đều phải rút quân.

Năm 241 sau Công Nguyên, năm
thứ 3, Tưởng Uyển đóng ở Hán Trung, ông ta đánh giá kĩ lưỡng đến cuộc bắc phạt
của Gia Cát Lượng từ năm Kiến Hưng thứ 6 về sau, đưa lên hậu chủ Lưu Thiện
chiến thuật mới của mình.

Ông ta cho rằng Gia Cát Lượng
phần lớn lấy Tần Lĩnh ở phía bắc và Kỳ Sơn ở tây bắc làm đường tiến công, đường
xá hiểm trở, vận chuyển bổ sung rất khó khăn. Chẳng bằng làm nhiều chiến
thuyền, từ sông Hán Thủy và Miện Thủy đánh sang phía đông, trực tiếp theo đường
thủy tập kích các vùng Ngụy Hưng, Thượng Dong, nếu lại phối hợp hành động với
chiến tuyến ở phía đông của Đông Ngô, ắt sẽ tạo ra áp lực rất lớn với Tào Ngụy.
Tưởng Uyển có ý giao phó mọi hành động, bèn phái Khương Duy về Thành Đô báo cáo
với Lưu Thiện cùng đánh giá tính khả thi của chiến lược này, gặp phải bệnh cũ
tái phát, hành động khó khăn, Tưởng Uyển phải tạm thời cho dừng kế hoạch lại.

Khương Duy ở Thành Đô cùng với
Phí Vỹ nghiên cứu tỉ mỉ, đều cho rằng theo đường thủy tiến sang phía đông, nếu
rút lui không dễ, hoặc không thuận lợi một chút, quân viễn chinh dễ bị đánh
bại. Được Lưu Thiện đồng ý, Thượng thư lệnh Phí Vỹ đi cùng với Khương Duy trở
về Hán Trung, để cùng Tưởng Uyển xem xét lại toàn diện kế hoạch trên.

Lúc này tình hình sức khoẻ của
Tưởng Uyển đã xấu đi, lại thêm khó khăn về phối hợp với Đông Ngô, cũng phải hủy
bỏ kế hoạch tiến sang phía đông bằng đường thủy, bèn lấy Khương Duy làm Thứ sử
Lương Châu, đến đóng ở Phù Thành, tăng cường việc sửa sang chiến tuyến phía
bắc.

Tháng 10 đã vào mùa đông, Tưởng
Uyển đến Phù Thành để thị sát, bệnh tình càng xấu đi, bèn hạ lệnh cho Thái thú
Hán Trung là Vương Bình làm Tiền giám quân, lại phong Trấn bắc Đại tướng quân
thay ông ta đôn đốc các đạo quân tiền tuyến.

Người cháu của Gia Cát Lượng,
con của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Khác thống lĩnh quân đoàn chiến tuyến phía đông
của Đông Ngô, bắt đầu tiến hành công việc bắc phạt Tào Ngụy.

Tư Mã Ý rất chú ý đến sự uy
hiếp của Đông Ngô, tự dẫn đại quân đến quận Thư vùng Lư Giang, Tôn Quyền lệnh
cho Gia Cát Khác rút về Sài Tang, đề phòng đại quân Tào Ngụy tiến về phía nam.

Bởi Tưởng Uyển bệnh nặng, Lưu
Thiện lệnh cho Phí Vỹ làm Đại tướng quân, Lục thượng thư, tiếp quản đại quyền
quân chinh Thục Hán.

Năm 244 sau Công Nguyên, Tôn
Quyền lấy Đại tướng quân Lục Tốn làm tể tướng, vẫn giữ chức Kinh Châu mục, đôn
đốc việc phòng vệ ở chiến tuyến phía tây.

Đại tướng quân Tào Ngụy là Tào
Sảng, muốn lập uy danh với thiên hạ, đưa ra kế hoạch quân sự với qui mô lớn nam
chinh thảo phạt Thục Hán, Thái phó Tư Mã Ý khuyên mãi không nghe, khoảng tháng
3, Tào Sảng đến Tràng An, hợp quân với đô đôc Hạ Hầu Huyền, dẫn mười vạn binh
mã, từ Lạc Côc tiến vào Hán Trung.

Lúc này, Tưởng Uyển và Khương
Duy đều ở Phù Thành, quân giữ Hán Trung không đến ba vạn người, các tướng lĩnh
quân đoàn thảy đều kinh hãi, đã chủ trương đóng cửa thành để đợi viện quân đến
từ Phù Thành đến.

Vương Bình một mình một ý, ông
ta nói: “Hán Trung cách Phù Thành nghìn dặm đường xa, nếu như để đợi quân Tào
Ngụy vào cửa ải, sẽ tạo ra uy hiếp rất lớn. Chẳng bằng chủ động, xuất kích, hậu
quân Lưu Mẫn cậy hiểm cố thủ ở Hưng Thế Sơn, tôi tự mình bố phòng ở sau cửa ải,
để biểu thị quyết tâm chiến đấu của chúng ta trước kẻ địch, tuy binh lực rất
ít, song ta có địa lợi, trong thời gian ngắn khó đánh bại được chúng ta, như
vậy, quân tiếp viện của Phù Thành mới đến kịp được”.

Triều đình Thục Hán ở Thành Đô,
cũng được tin khẩn cấp từ tiển tuyến, Đại tướng quân Phí Vỹ tự mình dẫn quân
đến chi viện.

Đại quân của Tào Sảng bị chặn
ngoài cửa ải Hưng Thế Sơn, lại thêm khó khăn về vận chuyển bổ sung, quân nam
chinh lại rơi vào nguy cơ. Tham mưu Dương Tuấn đề nghị lập tức rút quân, song
các tướng lĩnh quân đoàn như Đặng Dương, Lý Thắng đều cương quyết phản đối.
Dương Tuấn nói lớn: “Dương, Thắng làm hỏng việc quốc gia, khá chém đi!”. Tào
Sảng ngần ngừ không quyết.

Tư Mã Ý vội gửi thư cho Hạ Hầu
Huyền, phân tích tự mình đã từng tham dự chiến dịch Hán Trung cùng với Tào
Tháo. Rất biết rõ thời cơ chưa chín, nếu từ Quan Trung tiến vào Hán Trung rất
bất lợi, huống chi nay Thục Hán đã nắm được Hưng Thế Sơn hiểm trở, tùy lúc có
thể chặt đứt đường về của quân ta, không mau chóng hạ quyết tâm là rất nguy
hiểm.

Hạ Hầu Huyền cả kinh lập tức
báo cáo với Tào Sảng, Tào Sảng mới lập tức rút quân, song Phí Vỹ đã đánh vào
vùng Tam Lĩnh (Trầm Lĩnh, Nha Lĩnh, và Phân Thủy Lĩnh), chặn đứt đường rút của
Tào Sảng, nhìn chung quân nam chinh bị tổn thất nghiêm trọng, tình hình Quan
Trung bị ảnh hưởng rất lớn, địa vị của Tào Sảng cũng xuống thấp.

Tưởng Uyển bị bệnh nặng, nhường
chức quyền cho đại tướng Phí Vỹ, Lưu Thiện lấy Phí Vỹ làm Thứ sử Ích Châu, cũng
lấy Đổng Doãn làm Thượng thư lệnh để giúp đỡ.

Tháng 11 Tưởng Uyển từ trần,
Phí Vỹ đến Hán Trung xem xét kĩ hệ thống phòng vệ.

Tháng 12, Đổng Doãn đang giữ
Thành Đô ngã bệnh từ trần, trong lúc khẩn cấp Lưu Thiện đề bạt Thượng thư Lã
Nghệ làm Thượng thư lệnh.

Đổng Doãn cá tính nghiêm nghị,
hết lòng vì việc công, đến như Lưu Thiện cũng phải nể sợ. Lưu Thiện rất ái mộ
hoạn quan Hoàng Hạo, song Đổng Doãn đang ở triều đình thì Hoàng Hạo không dám
làm bừa, trong thời gian Đổng Doãn còn sống, Hoàng Hạo về quan chức không vượt
qua chức Hoàng môn thừa.

Phí Vỹ cá tính ôn hòa , thiếu
sự kiên quyết như Tưởng Uyển và Đổng Doãn, cứ theo yêu cầu của Lưu Thiện lấy
Trần Chi thay Đổng Doãn làm Thị trung. Trần Chi bên ngoài có vẻ uy nghi, nhiều
tài nghệ, có mưu trí nên Phí Vỹ ngộ nhận là Trần Chi có tài như Đổng Doãn. Song
Trần Chi chỉ tốt mã mà thôi, ông ta với Hoàng Hạo đắp đổi trong ngoài, khiến Hoàng
Hạo có cơ hội can thiệp vào triều chính, làm đến Trung thường thị.

Kể từ Gia Cát Lượng mất đến khi
Tưởng Uyển mất là mười một năm (năm 234 đến năm 245) tình hình ba chân đỉnh Tam
quốc không có biến động lớn, Thục Hán thực lực tuy yếu, song dựa vào địa lợi
Tần Xuyên, lại thêm Gia Cát Lượng bồi dưỡng không ít nhân tài, về chính trị,
quân sự, kinh tế đều có thực lực, nếu Tào Ngụy và Đông Ngô đều nhân cơ hội Gia
Cát Lượng mất và muốn giành thắng lợi là không dễ dàng.

Tôn Quyền có danh tướng Lục Tốn
phụ tá, thực lực lại càng mạnh. Người con của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Thuộc sau
khi nắm quyền ở đông chiến tuyến, tích cực sửa sang việc bắc phạt, khiến quan
hệ hai bên mười mấy năm bình lặng trở nên đối đầu, ngày mỗi căng thẳng, Trái
lại giữa Tương Dương - Giang Lăng do danh tướng Lục Tốn chỉ huy, lại chẳng hề
có chiến sự gì.

Thực ra, biến đối lớn nhất là
chính quyền Tào Ngụy có diện tích rất lớn, thực lực lại mạnh. Ngụy Minh đế Tào
Tuấn mất lúc ba mươi lăm tuổi, do không có con lấy con nuôi là Tào Phương kế
thừa. Tuy có người con của Tào Chân là Tào Sảng phụ tá, song tính hợp pháp của
việc Tào Phương kế thừa rất yếu, Tào Sảng lại quá trẻ thiếu kinh nghiệm, đại
quyền quân chính dần dần rơi vào tay Tư Mã Ý cả.

Thế lực họ Tào bất mãn với sự
khuếch đại lực lượng của họ Tư Mã, đấu tranh giữa hai bên càng thêm ác liệt,
cũng ảnh hương đến sự thống nhất của Tào Ngụy không ít.

2. Chính quyền ba nước phát sinh biến hóa

Chính quyền Thục Hán sau năm
246 bắt đầu có cải biến lớn.

Phí Vỹ có tài năng học thức,
tuy được lựa chọn đột xuất, song hiệu suất công tác còn vượt cả Gia Cát Lượng
và Tưởng Uyển. Là người có cá tính ôn hòa , ông ta có nhiều nhân nhượng trước
việc quá cương kỉ, sự nghiêm minh pháp trị và phong cách thanh liêm mà Gia Cát
Lượng và Tưởng Uyển xây dựng và duy trì đã dần dần bị phá hoại, vấn đề trong
chính quyền Thục Hán tàng thêm nhiều, sự thống nhất lực lượng yếu dần đi.

Ở triều đình Thục Hán, các đại
phu lấy Đại ti nông Mạnh Quang làm chính, đương nhiên cùng thấy rằng đây là
nguy cơ, họ đề nghị lấy Khương Duy làm Vệ tướng quân, cùng với Phí Vỹ làm Lục
thượng thư, song đê cũ lắm lỗ hổng đã thấy phá ra, muốn khôi phục phong thái
chính trị ngày xưa cũng không thể được.

Đại học giả hàng đầu của Thục
Hán là Tiêu Chu ra sức khuyên hậu chủ Lưu Thiện thi hành tiết kiệm, bỏ không
khí hội hè ca hát, lại bị Lưu Thiện cự tuyệt ngay ở triều đình.

Ở Đông Ngô, Lục Tốn bị bệnh từ
trần, Bộ Chất kế nhiệm làm Thừa tướng, Uy bắc tướng quân Gia Cát Khác làm Đại
tướng quân thay thế Lục Tốn trấn giữ Vũ Xương, phụ trách phòng vệ tây chiến
tuyến của Đông Ngô. Gia Cát Khác nóng vội muốn bắc phạt, song Tôn Quyên tuổi
cao có xu hướng bảo thủ, Đông Ngô ở giai đoạn này, chẳng có việc gì nổi trội.

Hai năm sau vào năm 248 sau
Công Nguyên, sau khi Phí Vỹ kế tục Tưởng Uyển, lại ra đóng đồn ở Hán Trung, trù
bị việc bắc phạt. Duy có một điểm khác trước là Phí Vỹ không giữ binh mã của
phe mình ở Thành Đô. chỉ lấy phương thức chỉ huy đại cục từ xa mà khống chế.
Phí Vỹ vắng mặt, không khí của triều đình Thục Hán lại càng xấu đi.

Đại tướng quân Tào Sảng của Tào
Ngụy sau khi mất chủ quyền khống chế ngày càng kiêu sa vô độ, về y phục, ăn
uống đều có chỗ vượt quyền, lại thêm tửu sắc quá mức, cuối cùng bị lão thần Tư Mã
Ý cùng các con là Hộ quân Tư Mã Sư, Tấm kỵ thường thị Tư Mã Chiêu lập kế giết
đi, thực lực của họ Tào trong chiến quyền mau chóng giảm sút.

Một phái quan trọng khác là họ
Hạ Hầu cũng bị họ Tư Mã gạt bỏ nghiêm trọng, những người con của Hạ Hầu Uyên
như Chinh tây tướng quân Hạ Hầu Huyền, Tả tướng quân Hạ Hầu Bá đều rơi vào nguy
cơ lớn.

Bè phái Tư Mã Ý bao gồm cả
Chinh tây tướng quân Quách Hoài, Thứ sử Ung Châu Trần Thái, dần dần giành địa
vị chính. Hơn nữa các tướng lĩnh của phái Thiếu Tráng được Tư Mã Ý đặc biệt đề
bạt, trong đó Thái thú Nam An là Đặng Ngải có biểu hiện đột xuất nhất, đã dần
dần nắm được lực lượng chính ở Quan Trung.

3. Khương Duy bắc phạt

Năm 249 sau Công Nguyên tức là
mười lăm năm sau khi Gia Cát Lượng từ trần, Vệ tướng quân Khương Duy xứng đáng
là đệ tử của Gia Cát Lượng, sau ba năm sửa sang ở Hán Trung, bắt đầu chuẩn bị
tích cực việc bắc phạt.

Tuy phụ trách ngăn cản Khương
Duy là Lão tướng Quách Hoài, song Đặng Ngải cũng mang quân Quan Trung tham gia
vào chiến trường này, triển khai cuộc đối trận ác liệt kéo dài suốt mười mấy
năm giữa Khương Duy và Đặng Ngải.

Mùa thu năm đó, Khương Duy dẫn
quân tiến vào vùng Ung Châu, ở vùng Khúc Sơn trước đó đã cho dựng hai thành
lũy, do Nha môn tướng Câu An và Lý Hân giữ. Bởi Khương Duy với Khương tộc ở
Lương Châu có quan hệ tốt, nên các thủ lĩnh bộ lạc ở vùng Ung, Lương đều phản
lại Ngụy mà giúp Thục, thanh thế rất lớn. Tư Mã Ý lệnh cho Trần Thái và Quách Hoài
dẫn quân đến chi viện.

Trần Thái cho rằng Khúc Thành
tuy cậy hiểm cố thủ, song cách đất Thục quá xa, lương thảo bổ sung khó khăn, mà
quân Khương thì ô hợp, chẳng thể phối hợp chặt chẽ, nên cần trực tiếp bao vây,
lại chia quân cắt đứt đường vận chuyển, như thế thì quân Thục ắt sẽ bị thất
bại.

Quách Hoài cũng tán thành cách
nhìn nhận ấy, phái Đặng Ngải đến bao vây Khúc Thành, Trần Thái đánh vào tuyến
vận chuyển của hộ quân Từ Chất, chặt đứt hữu hiệu đường rút lui.

Câu An thấy quân Đặng Ngải đến,
để tránh trở thành cô lập, bèn chủ động dẫn quân ra ngoài thành giao chiến,
song Đặng Ngải lại dựa vào địa lợi phía ngoài thành mà xây dựng công sự phòng
ngự, để cắt đứt thành với bên ngoài. Điều đó dẫn đến tình hình khó khăn cho
quân Thục khi mùa đông đến, quân lương bổ sung không đủ sẽ tạo thành bất lợi mà
lo lắng không thôi.

Khương Duy nhận được báo cáo,
dẫn quân ra núi Ngưu Đầu, muốn chi viện cho Lý Hân và Câu An. Trần Thái bày
trận ở phía bắc sông Thảo Thủy, ngăn chặn đại quân Khương Duy.

Giông như chiến thuật của Đặng
Ngải, Trần Thái cũng không muốn quyết chiến với Thục, ông ta nói với các tướng
sĩ rằng: “Binh pháp quý nhất ở chỗ không đánh mà khuất phục được quân của người
ta, Khương Duy tuy giàu mưu trí, song binh lực không nhiều, ắt chẳng thể tiến
đánh, chẳng bằng chia quân trực tiếp chiếm lấy núi Ngưu Đầu, cắt đứt đường rút,
đánh vào tinh thần binh sĩ, ắt sẽ bắt được Khương Duy”.

Bởi thế hạ lệnh đối mặt với
quân Khương Duy, xây dựng trận địa phòng ngự, không giao chiến với quân Thục,
lại yêu cầu Quách Hoài phái quân đánh núi Ngưu Đầu, cắt đứt đường rút của
Khương Duy.

Khương Duy thấy đại thế bất
lợi, hạ lệnh rút quân, Khúc Thành lập tức bị cô lập, Câu An, Lý Hân phải đầu
hàng, các bộ lạc người Khương phụ giúp cũng bị bức rút về vùng núi. Đặng Ngải
sau khi chiếm được Khúc Sơn bèn nói với Trần Thái, quân chủ lực của Khương Duy
chưa hề bị bẻ gãy, ắt sẽ mau chóng quay trở lại, không gì bằng đóng đồn ở phía
bắc Bạch Thủy, để ngăn chặn triệt để quân Thục tiến về phía bắc.

Ba ngày sau quả nhiên Khương
Duy phái Liêu Hóa tấn công vào quân Đặng Ngải ở Bạch Thủy. Đặng Ngải tự mình
đến quan sát tiền tuyến có nói: “Quân Liêu Hóa nhiều hơn quân ta, lại không vội
vượt sông hoặc làm cầu, chắc là nghi binh vậy, Khương Duy ắt sẽ dẫn quân chủ
lực đánh vào Thao Thành, để lại tập kích vào vùng Ung Châu”.

Thao Thành cách Bạch Thủy sáu
mươi dặm, Đặng Ngải hạ lệnh thâu đêm khẩn cấp hành quân, đến được Thao Thành
sớm hơn Khương Duy, liền tăng cường việc phòng ngự. Quả nhiên Khương Duy dẫn
quân chủ lực đánh vào Thao Thành, song không tiến triển được, đành phải rút về
Hán Trung, kết thúc chiến dịch bắc phạt lần thứ nhất với quy mô lớn.

Năm sau, Quách Hoài được thăng
làm Quân kỵ tướng quân, Đặng Ngải cũng trở thành quân chủ lực của chiến tuyến
phía tây ngăn chặn Khương Duy.

Cuối năm đó, Khương Duy lại
tiến ra Tây Bình, song Đặng Ngải đã tăng cường phòng thủ, không được gì mà phải
rút lui.

Tháng 8 năm sau (năm 251 sau
Công Nguyên), Tư Mã Ý qua đời, Vệ tướng quân Tư Mã Sư làm Phủ quân đại tướng
quân, Lục thượng thư.

Tháng 12, Đại tướng quân Phí Vỹ
trở vể Thành Đô, song không khí Thành Đô đã bại hoại, Phí Vỹ không đủ sức nắm
giữ, đành trở về Hán Thọ đóng đồn, để bình tĩnh suy nghĩ cách đối phó.

Tháng sau, Thượng thư Lã Nghệ
từ trần, Thị trung Trần Chi tiếp nhiệm, Hoạn quan Hoàng Hạo nhờ vậy mà thanh
thế càng lớn.

Năm 252 sau Công Nguyên, Tư Mã
Sư được thăng làm Đại tướng quân, so với người cha lại càng nghiêm chỉnh dốc toàn
lực nắm lấy quân quyền Tào Ngụy.

Tháng 2, Đại đế Tôn Quyền từ
trần, Thái tử Tôn Lương lên nối ngôi, lấy Gia Cát Khác làm Thái phó, Đằng Dận
làm Vệ tướng quân, Lã Đại làm Đại tư mã cùng phụ tá việc nước.

Gia Cát Khác tự ý tự động, lại
học theo người chú Gia Cát Lượng nổi tiếng đương thời, nóng nẩy phát động việc
bắc phạt, tạo thành tình hình chính trị trong nước Ngô sôi động không yên.

Năm 253 sau Công Nguyên đại
tướng quân Phí Vỹ và các chư tướng phòng vệ Hán Trung cùng dự tiệc ở Hán Thọ.
Phí Vỹ cá tính ôn hòa , vẫn không kể phe phái này nọ, bởi thế mà xem thường
việc phòng vệ. Đang lúc uống rượu say, bị hàng tướng của Tào Ngụy là Quách Tuần
mưu sát mà chết.

Lúc đầu, Khương Duy tự cho rằng
rất thân thuộc với dân tộc thiểu số Lương Châu, muốn nhờ giúp đỡ của bộ lạc
Khương Hồ, tập kích Lũng Tây, mỗi lần mang đại quân ra Kỳ Sơn bắc phạt, chủ
sóai Phí Vỹ đều không tán thành.

Phí Vỹ nói: “Ta thực kém xa
Thừa tướng Gia Cát Lượng. Thừa tướng Bắc Kinh còn không được như ý muốn, huống
chi là ta? Chỉ bằng lo dân giàu nước mạnh, giữ yên xã tắc, đợi người sau làm
giỏi hơn chúng ta mọi việc! Vội vã quyết thắng bại với kẻ địch, nếu nhỡ ra thất
bại ắt sẽ dao động phần nền móng quốc gia, có hối cũng là muộn vậy”.

Thực ra Phí Vỹ nói vậy chỉ cốt
cho qua chuyện, đại bản doanh Thành Đô triều chính bại hoại, việc chi viện hậu
cần không thuận lợi, muốn phát động đại quân viễn chinh đâu có dễ dàng. Bởi thế
Phí Vỹ thường đều cung cấp cho Khương Duy không quá một vạn quân. Khương Duy
tuy óan hận song cũng không biết làm sao.

Phí Vỹ từ trần, quân đoàn Hán
Trung như rắn không đầu, đều do Khương Duy thống lĩnh. Thiếu mất sự điều tiết
của Phí Vỹ, Khương Duy lập tức tập kết mấy vạn binh lực, từ Vũ Đô kéo ra đánh
Lũng Tây, chủ yếu là vị trí Địch Đạo.

Năm đó Gia Cát Khác từ đông
chiến tuyến đến đóng ở Hoài Nam, tháng 5 cho quân vây Tân Thành, Tư Mã Sưlệnh
cho Thái uý Tư Mã Phu dẫn 20 vạn quân đối phó với Gia Cát Khác, lại lệnh cho
Quách Hoài, Trần Thái dẫn quân Quan Trưng dốc hết lực lượng, đến giải vây cho
Địch Đạo.

Trần Thái vẫn lấy chiến thuật
tường chắn đối phó với Khương Duy, quả nhiên như Phí Vỹ dự liệu, hậu cần quân
Thục suy yếu dần, chẳng bao lâu Khương Duy hết lương phải rút quân về.

Đại quân Tào Ngụy ở đông chiến
tuyến cũng dùng sách lược kiên trì phòng thủ, Gia Cát Khác đánh mạnh mấy tháng,
không thấy hiệu quả, lại bởi lương thực thiếu thốn, dịch bệnh tràn lan, trong
khi rút quân phải chịu tổn thất rất lớn, danh tiếng Gia Cát Khác xuống rất
thấp, không lâu bị Tôn Tuấn mưu sát, gia tộc đều bị liên lụy, tan nát cả.

Về chính quyền Tào Ngụy sau khi
Tư Mã Ý mất, họ Tào, họ Hạ Hầu cùng với họ Tư Mã đã đấu tranh với nhau ngày
càng kịch liệt. Tư Mã Sư sau khi đánh bại được Khương Duy và Gia Cát Khác có ưu
thế rất lớn.

Quân họ Tào có kế hoạch làm
phản đoạt quyền song âm mưu bị bại lộ, chủ tướng Hạ Hầu Huyền, Trung thư lệnh
Lý Phong đều bị bắt giữ, chu di tam tộc. Người con của Hạ Hầu Uyên là Hạ Hầu Bá
dẫn quân trực thuộc đầu hàng Thục Hán, năm sau tức là 254 sau công nguyên. Tư
Mã Sư phế truất Ngụy chủ Tào Phương, lấy Hương công Tào Mao làm Ngụy chủ, chính
quyền họ Tào đến đây chỉ còn là bù nhìn mà thôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3