Con Nhân Mã ở trong vườn - Phần 10 chương 1

MỘT NÔNG TRẠI NHỎ TRONG NỘI ĐỊA
HẠT QUATRO IRMAOS

MIỀN NAM RIO GRANDE

THÁNG
10, 1972 - THÁNG 3, 1973

Tôi
không muốn quay về Sao Paulo một chút nào. Tôi chỉ đợi chuyển máy bay ở đó rồi
tiếp tục bay luôn về Porto Alegre. Đến nơi, tôi đi thẳng về nhà cha mẹ tôi.

Tôi
rung chuông. Mẹ tôi ra mở cửa. Khi bà nhìn thấy tôi, bà đánh rơi cái chổi trong
tay, đưa cả hai bàn tay lên mặt và kêu rú Clên một tiếng. Cha tôi chạy ù ra: Có
chuyện gì thế, Rosa? Chuyện gì thế? Rồi ngay sau đó cả hai người ôm chầm lấy
tôi, vỗ thật mạnh lên người tôi, hò hét, khóc lóc, cười phá lên; ngạt cả thở,
tôi không thể chạy đi đâu được. Cuối cùng họ đưa tôi vào nhà và ấn tôi xuống ngồi
vào giữa họ trên ghế sôpha. Mẹ tôi, người đã ôm cứng lấy tôi và cười như một bà
già điên, thình lình nghiêm chỉnh lại.

"Chẳng
đẹp đẽ gì, Guedali ạ, cái việc con làm ấy. Bỏ vợ bỏ con! Con phải biết xấu hổ
chứ! Tí nữa thì mẹ đã từ con rồi. Tita nó tuyệt vọng quá, tội nghiệp con bé. Cứ
ba ngày một lần nó lại gọi đến đây. Mẹ bảo nó, Tita, nếu nó không về, nó sẽ
không còn là con trai mẹ nữa. Nếu muốn, con có thể đến sống với chúng ta ở
đây."

Ngay
cả một người ngoại đạo như cô ấy ư? Tôi hỏi, thật là một hành vi bệnh hoạn của
tôi. Mẹ tôi nhìn tôi, vừa đau vừa giận: Những người ngoại đạo chẳng chứa chấp
chúng ta đó sao? Con sao vậy, Guedali? Rồi mẹ tôi lại quay lại chủ đề kia:
Nhưng sao con lại chất vấn mẹ như vậy? Con không thể như thế được! Thằng bé vô
liêm sỉ này, mày hãy nói cho chúng ta biết mày đã đi đâu, đã làm gì đi nào! Hãy
để cho thằng Guedali được yên đã nào! Cha tôi nói, nó vừa đi về còn mệt đấy. Bà
cứ đi sửa soạn bữa tối đi và trải cho nó cái giường. Ngày mai chúng ta sẽ nói
chuyện.

Tôi
có thật nhiều chuyện phải bàn với cha tôi. Không phải, như cha tôi cũng biết
thế, là về những gì đã xảy đến với tôi, điều đó là không thể được. Làm sao tôi
có thể giải thích chuyến đi sang Morocco cho ông hiểu? Làm sao tôi có thể kể
cho nghe về Lolah? Chẳng nhẽ tôi cho ông xem cái bàn chân của con nhân sư tội
nghiệp rồi nói, "Cha ơi, đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn
bà đã yêu con hơn ai hết"? Cha tôi sẽ không thể tin được.

Thực
ra, tôi không muốn kể với ông chuyện gì hết. Tôi muốn nghe. Tôi muốn tìm hiểu
nhiều thứ. Thằng bé nhân mã Guedali ngày xưa có hạnh phúc không? Có hạnh phúc
hơn thằng Guedali hai chân bây giờ không? Hay là không bằng? Nếu nó không hạnh
phúc bằng (hay hạnh phúc hơn) thì tại sao tôi cứ ngứa ngáy muốn phi nước đại
đến mức không thể chịu nổi, tại sao tôi cứ không ngừng tìm kiếm cái gì đó mà
mình không biết? Nếu nó hạnh phúc hơn (hay không hạnh phúc bằng) thì tôi phải
làm gì để hãm đà tăng tốc nỗi khổ sở của mình, để có thể lấy lại được niềm hạnh
phúc đã mất? Và cái gì có thể là bí mật của niềm hạnh phúc nhân mã, nếu quả
thật bọn nhân mã có hạnh phúc? Đến nỗi làm cho Tita đã chán tôi và thích một
con nhân mã khác? (Với câu hỏi cuối cùng, cha tôi sẽ không thể trả lời trực
tiếp, nhưng ông có thể cung cấp cho tôi một số yếu tố để tôi có thể tự mình tìm
thấy câu trả lời.)

Để
làm cho tôi hiểu, cha tôi sẽ phải đi ngược thời gian rất xa. Ông sẽ phải lần
tìm về cội nguồn của mình. Ông sẽ phải kể về cuộc sống của ông ở nước Nga,
những con ngựa ô của người Côdắc, chuyến di cư sang Brazil, những ngày đầu
trong khu thuộc địa Do Thái, rồi cái đêm tôi ra đời. (Liệu có một con ngựa bay
có cánh thật không?) Ông sẽ phải nhắc lại những bước đi chập chững đầu tiên của
tôi.

Hai
cha con đi dạo với nhau rất lâu, tôi hỏi, ông nhất định không trả lời. Quên hết
những chuyện ấy đi, Guedali, bây giờ mọi thứ đã ổn cả rồi. Đúng là con có những
vấn đề riêng của mình, nhưng ai mà chẳng thế? Con đã được chữa lành rồi, quên
chúng đi. Nhưng cha ơi, trước đây con có móng ngựa thật không? Con trai ta, cái
đó còn tuỳ cách con gọi cái gì là móng ngựa. Nhưng ông bác sĩ ở Morocco...
Morocco cách đây xa lắm, Guedali, con không phải băn khoăn về những chuyện ấy
nữa. Con cần phải về với gia đình con. Hãy quên Morocco đi.

Cha
tôi đứng lại, nắm lấy cánh tay tôi.

"Đi
Patagonia mà chơi, Guedali. Gọi điện cho vợ con, bảo nó đến đây, rồi đăng kí
một tour du lịch. Hai đứa có thể đi tàu thuỷ đến Patagonia, đến Tierra del
Fuego. Nó sẽ là cơ hội tuyệt vời để hai đứa quay lại với nhau. Đi du lịch bằng
tàu thuỷ thoải mái lắm, có nhiều thời gian chuyện trò với nhau, giải quyết mọi
vấn đề. Minanó có một người bạn một hôm tự dưng nghĩ rằng mình đã chán ngấy anh
chồng rồi. Anh kia bèn đưa cô ta đi một chuyến như thế và thế là đúng vậy: họ
làm lành với nhau. Đó là vì những núi băng trên biển đấy, Guedali. Những cái
núi băng trôi tuyệt đẹp, họ bảo chúng khiến cho ai cũng phải xúc động, có nhiều
người phát khóc lên đấy."

Cha
tôi sẽ đột ngột chấm dứt cuộc trao đổi để khỏi phải nói dối. Nhưng tệ hơn cả
việc phải nói dối và việc ông đáp lại những câu hỏi của tôi bằng những câu hỏi
khác: Ý nghĩa của tồn tại là gì, Guedali? Tại sao chúng ta có mặt trên thế giới
này? Có Thượng Đế không, Guedali? Đúng thế, và còn tệ hơn nữa nếu như lúc hai
cha con đang uống trà sớm ngoài hiên, cha tôi bỗng giấu mặt vào hai lòng bàn
tay và khóc: Lạy Chúa, tôi đã làm gì với cuộc đời của mình, đã làm gì? Lại còn
tệ hơn nhiều nữa nếu ông thình lình quỳ xuống, ôm lấy chỗ hai khuỷu chân ngựa
trước đây của tôi, ngay trên móng (đến khuỷu chân ngựa cũng chẳng giữ nổi một
người cha sắp ngã,) và nói như hết hơi: ta không muốn chết, con trai ơi, ta
không muốn chết! Hãy nhấc ta lên lưng con, hãy phi nước đại với ta, cứu lấy ta.

Mẹ
tôi thì liên tục hành hạ tôi. Bà nảy ra một ý tưởng: bà sẽ tổ chức một buổi
đoàn tụ gia đình thật to. Thậm chí sẽ làm sao lôi được cả anh Bernardo về nữa:
đăng báo nhắn tin, gọi anh qua chương trình nhắn tin công cộng trên đài phát
thanh, hoặc (ý đồ điên cuồng nhất của bà) nhờ đến nghệ sĩ hài Chacrina kêu gọi
con trai bà trở về trên chương trình TV toàn quốc.

"Mẹ
biết ông ấy không từ chối mẹ đâu, Chacrina là một người rất tốt."

Theo
lời mẹ, Tita và tôi sẽ hoà giải trong buổi đoàn tụ ấy.

"Thôi
đi mẹ ơi, tôi giận dữ bảo bà, mẹ đừng bịa chuyện ra nữa, mẹ cứ lo việc mẹ
đi."

"Nhưng
chúng mày li thân hay là không li thân?"

"Vừa
có vừa không, mẹ ạ. Đấy là chuyện riêng của chúng con."

"Vừa
có vừa không là thế nào? Làm gì có chuyện ấy. Vừa có vừa không! Chúng bay li
thân hoặc là không li thân chứ. Nếu muốn li thân thì làm hẳn hoi di, li dị đi,
giấy tờ hợp pháp đi, gì cũng được. Còn không muốn thì hoà giải đi! Về với nhau,
ôm ấp, hôn hít, rồi chúng bay sẽ thấy chúng bay yêu nhau lắm cho mà xem. Nghĩ
đến bọn trẻ con chứ, Guedali! Nếu con với Tita tự thân không muốn hoà giải với
nhau, thì cũng vì con cái mà làm thế đi chứ!"

Tôi
tránh mặt mẹ. Ngay Mina cũng nhìn tôi với vẻ không đồng tình, mặc dù chị không
nói năng gì. Tôi chỉ thích nói chuyện với cha tôi. Ông không trả lời những câu
hỏi của tôi, nhưng cũng không giảng đạo cho tôi. Và ông còn cho tôi một tin
quan trọng, ông nói cho tôi biết ai đã mua lô đất của chúng tôi ở khu thuộc địa
cũ. Chính là cha của Pedro Bento. Ông ta hiện đang sống ở Porto Alegre. Tôi tìm
đến ông và hỏi mua lại cái trại xưa đó.

Đây
là điều mà tôi đã ấp ủ ngay sau khi về lại Porto Alegre, sau lần trò chuyện đầu
tiên (và rất thất vọng) với cha tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện mua đất, nếu
có thể được thì gần với cái trại xưa của gia đình, gần những cánh đồng thời thơ
ấu, nơi con nhân mã trẻ tuổi là tôi đã từng tự do phi nước đại. Gọi là tự do
thế thôi, nhưng cũng là tự do trong hoàn cảnh cho phép. Trở lại cội nguồn, đó
là điều tôi mong muốn. Một mình thôi. Tôi muốn được một mình để tập trung sức
mạnh vào trải nghiệm ấy và trầm mặc về chúng. Lúc đầu tôi nghĩ bất kì một cái
trại nào đủ rộng rãi một tí cũng là được rồi, nhưng lý tưởng nhất sẽ là chính
cái trại xưa của chúng tôi. Tuy nhiên, lão trại chủ già không đồng ý bán.

"Không
phải là tôi không muốn bán, Guedali. Tôi cần tiền, cần nhiều là khác. Nhưng tôi
có trách nhiệm phải nói để cậu biết rằng vụ mua bán này không có lợi cho cậu
đâu. Cái trại ấy bỏ hoang đã lâu rồi, mọc đầy cỏ dại. Thậm chí con đường đi vào
đó cũng chẳng còn nữa rồi."

Nhưng
đấy chính là điều tôi đang mong muốn: sẽ không có ai làm phiền tôi. Tôi vẫn
khăng khăng hỏi mua, thậm chí còn trả lên nữa. Cuối cùng ông ta đồng ý, và còn
khuyên tôi rất nhiều điều.

"Máy
móc, Guedali ạ. Cái chính là phải có máy móc. Tôi nói cậu nghe, chứ tôi lụn bại
chỉ vì thiếu máy móc. Đừng quên nhé: phải có máy móc!"

Máy
móc. Tôi không giấu nổi một nụ cười. Đó chính là cái mà tôi không muốn chút
nào, máy với chả móc. Tay chân thì được. Máy móc thì không bao giờ.

Cái
tôi muốn là được tiếp xúc với đất, một trải nghiệm mà tôi cho là rất sâu sắc,
rất cật ruột. Tôi muốn được đi chân đất, muốn gót chân tôi mọc chai, khiến cho
chúng cứng cáp hơn, thậm chí được như móng ngựa càng hay. Tóm lại là tôi thèm
có những bộ móng ngựa. Những bộ móng mà mỗi lớp vỏ bọc đều là kết quả của những
chặng đường dài trên đất, trên đá, là kết quả của những suy tư về ý nghĩa của
cuộc đời. Tôi định bụng sẽ đi bộ thật nhiều. Làm việc thì đã đành rồi, nhưng
còn phải đi bộ nữa. Nếu mệt mỏi, tôi sẽ ngồi xuống đất. Tôi không sợ mông mình
sẽ bị gai đâm hay côn trùng cắn, đốt. Mà thực ra là tôi muốn bị thế lắm. Cứ để
mặc cho vết cắn vết đốt ấy sưng vù lên. Cứ mặc cho chúng mưng tấy lên mãi, rồi
xương sẽ nhú lên từ bên trong, khớp nối với xương chậu, rồi thì những cái chân
sẽ mọc ra. Tóm lại, tôi muốn mình mọc ra những gì xứng với cái tên
"ngựa." Tôi muốn cả một cái đuôi nữa. Bốn cái chân ngựa, một cái đuôi.
Đấy, một con nhân mã.

Lạ
thật. Với tư cách một con nhân mã, hình ảnh mà tôi hay nhớ nhất lại là cảnh
tượng buổi lễ mitzvah. Tôi thấy mình mặc bộ com - lê sẫm màu, sơ - mi trắng,
thắt cà - vạt, và mũ thóp trên đầu. Tôi thấy riềm khăn lễ rủ xuống trên hai
háng sau của tấm thân ngựa của mình.

Đúng
thế, tôi muốn lại được cầu nguyện. Một trong những thứ mà tôi dự định sẽ xây
trong khu trại là một nhà nguyện. Không hẳn là một nhà nguyện công cộng, mà là
một nơi tôi có thể ngồi một mình với mấy cây nến và lần giở những trang giấy
trong cuốn sách kinh cũ kĩ của cha tôi (một món quà mà tôi chắc là ông sẽ không
từ chối tôi.) Tôi muốn suy nghĩ về Thượng Đế, về thân phận con người. Tôi thấy
có nhu cầu tìm đến sự thông sáng và niềm an ủi của tín ngưỡng.

Nghiên
cứu những quan điểm của các nhà tiên tri và sách Nhã Ca, tôi hy vọng dần dần sẽ
lên được đến bộ ngực của Abraham. Không phải dễ. Trong trí tưởng tượng của tôi
bộ ngực ấy ngày càng lớn lao hơn, một quả núi bao phủ dưới lớp da người trắng
trẻo, bên dưới chằng chịt những mạch ngầm chứa đầy sữa quý giá. Tôi sẽ leo lên
quả núi ấy, bắt đầu từ dưới đồng bằng. Khi sườn núi cứ dốc mãi lên, tôi sẽ bám
lấy từng cái lông cứng của Levantine Abraham (mỗi cái lông là một vần thơ.) Tôi
sẽ lên mãi, cũng như lần tôi leo lên quả núi có pháo đài Masada ở Israel, về
phía cái núm vú được bao bọc trong mây, hồng hào và ngọt ngào như kẹo bông mà
các con tôi thường ưa thích đến thế.

Cha
mẹ tôi không thể tin là tôi có ý định sống ở khu trại xưa. Thậm chí mẹ tôi còn
nổi khùng lên nữa.

"Con
điên rồi, Guedali! Có ai lại đi bỏ vợ bỏ con vào sống một mình ở trong rừng
không chứ! Ở đó chỉ có rắn rết thôi, Guedali! Làm sao mà con lại ra nông nỗi
này? Con là một người có văn hoá, có học hành. Làm ruộng chỉ là nghề của dân
nhập cư thôi, Guedali. Con sẽ không đi đâu hết. Mẹ không cho phép con. Chúng ta
đã tốn kém biết bao nhiêu để có thể đi khỏi đó. Thế mà bây giờ con lại định
quay lại. Không, mẹ không muốn nghe chuyện này!"

Cha
tôi xen vào: "Tôi cũng không đồng tình với ý nghĩ ấy, Rosa à, nhưng dù sao
thì Guedali nó cũng là người lớn rồi. Nếu nó muốn về nông thôn..."

(Tôi
tưởng cha tôi sẽ đem Nam tước Hirsch ra, nhưng không phải. Nói đúng ra thì khi
về già, lòng ngưỡng mộ của ông đã biến thành lòng oán ghét, thậm chí căm thù.
Nhiều lần khi ông đang độc thoại với mình, mà ông rất hay thế, ông lại chửi rủa
nhân vật thần tượng ngày xưa ấy: Đừng có quấy rầy ta nữa, Nam tước! Cút mẹ ông
đi, Nam tước!)

Mina
cũng xin tôi đừng đi, nhưng tôi đã quyết rồi. Một buổi sáng, tôi lên xe buýt và
lấy vé đi về Quatro Irmaos.

Ông
lão nhà Pedro Bento đã nói đúng. Ngôi nhà xưa của chúng tôi đã thực sự hoang
tàn. Cánh cửa chỉ còn treo lủng lẳng bằng một chiếc bản lề; kính cửa sổ vỡ nát
và cây leo bò qua đó vào nhà. Thấy ngay là mình sẽ phải làm nhiều việc, nhưng
tôi không hối hận gì hết. Tôi treo di vật của Lolah tội nghiệp, cái bàn chân
xác ướp ấy, lên bức tường nơi tôi sẽ kê giường nằm, rồi bắt tay vào việc. Ngay
hôm đó tôi vào thị trấn mua vật liệu sửa nhà. Một tuần sau thì ngôi nhà đã có
thể ở được rồi. Cỏ dại xung quanh đã được phát quang hết cho đến tận lối vào
nhà. Bây giờ thì tôi có thể tập trung vào khu vực đồng ruộng. Đậu tương và ngô
sẽ là những sản phẩm chính của tôi, và tôi sẽ trồng một vườn cây ăn quả. Tôi
muốn nuôi gà, lợn, một đôi bò sữa. Chỉ những thứ thiết yếu mà thôi.

Nhiều
tuần lễ liền tôi hầu như không gặp một ai hết. Có vài trại chủ láng giềng đến
thăm, lấy lí do xem tôi có cần gì không. Thực ra họ chỉ muốn thấy mặt thằng
ngốc điên rồ đã bỏ cả nghề nghiệp béo bở ngoài thành phố để về sống trong rừng.
Tôi không bạc đãi họ, nhưng cũng chẳng hồ hởi để họ lại muốn đến thăm mình nữa.
Chẳng mấy chốc họ chán và không ai đến chơi nữa thật.

Một
buổi chiều, tôi đang bận bịu cắt cỏ ngoài đồng. Lúc vừa quỳ xuống làm gì đó,
tôi bỗng cảm thấy có người đang quan sát mình. Tôi quay lại và thấy ngay anh
ấy, một nông dân không thể đoán được tuổi tác, rách rưới, cái miệng móm mém
đang nở một nụ cười: chính là Peri.

Anh
không nhận ra tôi, cũng chẳng có gì lạ, vì anh sẽ chỉ nhớ đến tôi dưới dạng một
con nhân mã. Anh đứng đó, nhìn tôi chăm chú, không nói một lời.

"Anh
đang tìm ai phải không?" Tôi hỏi.

Anh
bảo không. Anh chỉ tình cờ qua đây trên đường đi tìm việc làm.

"Tôi
có thể làm bất kì việc gì," anh nói thêm bằng một lối nói rất lạ.
"Cắt cỏ, cưa gỗ, chăm sóc súc vật. Tôi chỉ cần được ăn và có chỗ ngủ. Tôi
làm việc chăm chỉ, xin cam đoan thế."

"Tốt
lắm," tôi nói, "anh có thể bắt đầu ngay."

Anh
cởi bỏ chiếc áo khoác rách rưới, nhổ nước bọt vào hai lòng bàn tay, vớ lấy cái
cuốc, và bắt đầu rẫy cỏ.

Anh
chăm chỉ thật sự. Phát quang bụi rậm, vắt sữa bò, kéo nước giếng, và cả nấu
nướng nữa. Anh nói rất ít, chỉ vừa đủ trả lời tôi. Không phải tính nết anh thô
lậu; ngược lại, anh cư xử rất phải phép và rất được việc. Nhưng im lặng và giữ
kẽ. Tôi xếp cho anh một phòng trong nhà, nhưng anh thích ngủ ngoài chỗ chuồng
bò hơn.

"Ngoài
ấy rộng chỗ lắm. Nếu ông cho phép, tôi sẽ tự dọn một chỗ cho mình ở đó."

"Được,
tôi cho phép anh," tôi nói, "nhưng mấy con bò thì sao? Chúng không
quấy rầy anh à?" Anh phô hết cả lợi với một nụ cười không có gì là ngây
thơ.

"Ồ,
tôi thích bọn bò cái, ông chủ ạ."

***

Một
con người lạ lùng, anh chàng Peri ấy. Thực ra tên anh ta không phải là Peri, mà
là Remiao. Nhưng anh bảo ông là người chủ, ông gọi tôi thế nào cũng được. Mặc
dù nói ít, anh lại thích hát, và nhiều đêm, thường là những đêm trăng tròn,tôi
thấy anh đứng ngoài sân, hai tay giơ lên cao, miệng hát một điệu hát lạ. Bùa
chú đấy, một lần anh giải thích cho tôi, rồi nói thêm với một giọng tin cẩn,
tôi đang tập làm một thầy phù thuỷ giống như ông nội tôi.

Đó
là giấc mơ lớn nhất của anh. Phù phép, đoán tương lai, những việc đại loại thế.
Một lần anh dẫn tôi vào cái phòng bé tí của anh và cho tôi xem những đồ dùng để
phù phép.


chiếc đầu lâu đã bạc phếch của Joaquim, thầy phù thuỷ trước đây. Peri có nhiều
loại chạc cây dùng để tìm mạch nước ngầm, những cái vỏ ốc sên khổng lồ, và
những quả cầu pha lê kích cỡ khác nhau. Cái làm tôi chú ý nhất là mấy mẫu vật
nhồi bông hoặc ướp thuốc gì đó của vài con vật kì lạ: một con cừu hai đầu, một
con dê sáu sừng, một con rết khổng lồ, một con cá ngựa có mười hai cái chân bé
tí xíu.

"Ông
chủ thử nhìn cái này xem."

Tôi
cảm thấy là lạ. Anh đang muốn tôi xem cái gì đây? Nó trông có vẻ như một nàng
tiên cá, xác ướp một cô gái mình người đuôi cá nhỏ bé.

Tôi
sững sờ nhìn nó. Anh ta định nói với tôi điều gì đây, con người này? Điều bí
mật của anh ta là gì? Anh ta có can hệ gì đến những sinh linh huyền thoại?
Những ngựa một sừng, những sư tử đầu chim, lừa không đầu, người sói? Rồi còn
nhân sư nữa? Peri biết gì về nhân sư? Biết gì về Lolah?

Nhưng
cái mà anh ta đang giơ ra trước mắt tôi không phải là xác ướp của một cô gái
mình người đuôi cá. Sau khi xem kĩ hơn, tôi mới thấy đó là một vật còn lạ hơn
nữa: thân hình một con khỉ khâu nối với phần đuôi của một con cá lớn.

"Một
thí nghiệm của tôi đấy, ông chủ ạ."

Theo
một bức tranh có trong một cuốn sách cũ, anh ta đã định làm một nàng tiên cá
thật.

"Nhưng
không thành công. Nó chết ngay sau khi tôi mổ và khâu nó lại với nhau."

Anh
ta còn biết rõ tại sao vụ mổ ấy không thành công: "Tôi đã nói sai câu thần
chú lúc đang mổ. Nếu tôi nói đúng, nó đã sống rồi. Phù phép mà dùng đúng thần
chú thì không có gì khoẻ bằng nó đâu."

"Vậy
thì anh phù phép cho có mưa đi," tôi nửa đùa nửa thật. "Chúng ta rất
cần mưa đấy, khô hạn mãi thì hỏng hết."

Anh
nhìn tôi, vẻ bình tĩnh và tỉnh táo.

"Ông
chủ đừng đùa với những chuyện như thế. Đừng đùa."

Cày
ruộng với một cái cày do ngựa kéo. Tôi nhìn mãi con ngựa ấy từ đằng sau và ngẫm
nghĩ về sự bất mãn của mình. Năm tháng sau khi về trại, tôi bắt đầu tự vấn:
Mình đang làm gì ở đây vậy? Mình đã tìm thấy gì?

Tôi
đi chân trần qua các cánh đồng rất nhiều. Chân trần. Lòng bàn chân tôi đã thô
nhám lại, nhưng tất nhiên chúng không thể dày lên thành móng ngựa. Chúng còn
không thô nhám bằng hai bàn tay tôi, đã đầy chai vì cầm cuốc. Tôi đã đi bộ ròng
rã qua những ngày nắng và những đêm trăng, trong mưa trong gió, nhưng những câu
hỏi của tôi vẫn chưa được trả lời

Tôi
còn cầu nguyện nữa, sáng nào cũng vậy. Tấm khăn lễ trên vai, sách trong tay,
tôi hát những bài kinh nguyện. Chẳng có kết quả gì. Bình yên nội tại ư ? Chẳng
thấy đâu. Ngay cả hình ảnh bộ ngực của Abraham cũng đang phai mờ dần trong tâm
trí tôi. Và quả thật, những câu hỏi mênh mông của tôi đang dần dần bị thay thế
một cách kín đáo bởi những câu hỏi khác : Sao không thuê một cái máy kéo ? Dùng
phân bón thì tốn kém thế nào ? Nếu cứ không mưa thế này thì đậu tương sẽ ra sao
? Vừa nhìn con ngựa đang kéo cày phía trước, tôi vừa cố gạt những lo toan tầm
thường ấy sang một bên. Mẹ kiếp, con nhân mã trong tôi đâu mất rồi ?

Dần
dần, tôi quên cả Lolah. Cái bàn chân ướp thuốc ấy vẫn ở phía trên cái giường
tôi nằm, nhưng nó đã thành một vật tầm thường không làm tôi chú ý nữa, cũng như
những vết nứt trên tường mà thôi. Và cũng như những vết nứt kia, nó không nói
với tôi điều gì nữa. Thậm chí tôi còn không thể nhớ lại được gương mặt của
nàng.

Tôi
nảy sinh những ước ao, đúng vậy ... về gia đình tôi. Các con tôi ... ước gì
chúng ở đây với tôi, vắt sữa bò và giúp tôi làm cho đất đai sinh sôi nảy nở. Sẽ
rất tốt cho chúng, rất tốt cho tôi.

Tôi
cũng nhớ cả Tita, mặc dù vẫn còn cay đắng trong lòng mỗi khi nhớ lại lúc tôi đã
làm nàng giật mình khi đang trong vòng tay ôm của con nhân mã trẻ tuổi. Kí ức
ấy ám ảnh tôi thường xuyên, nhưng phai nhạt đi trong đêm. Khi chìm vào giấc
ngủ, tôi thường sờ soạng quanh chiếc giường trống trải và thì thầm gọi tên
nàng. Tita. Tôi nhớ cái miệng nàng, tấm thân nàng, biết bao. Tình yêu đó ư ? Có
lẽ. Hầu như chắc thế rồi. Phải, đó là tình yêu.

Vậy
thì tại sao tôi không dẹp lòng tự ái của mình lại ? Sao tôi không về luôn với
Tita, với các con, với các bạn ?

Không,
điều đó thì tôi không làm. Trước khi làm được việc ấy, tôi nhất định phải giải
tỏa hết những ngờ vực đang hành hạ mình ; phải tìm cho ra mình là ai : phải
chăng là một con nhân mã què quặt đã bị cắt mất phần ngựa của chính nó ? Hay là
một con người đang cố tự giải thoát khỏi những hoang tưởng của chính mình ?

Ngồi
trước cửa nhà một đêm nọ, ngắm nhìn ruộng đồng đang tắm mình dưới ánh trăng,
tôi lại tự cật vấn mình bằng những câu hỏi ấy một lần nữa.

Trước
cửa nhà kho, hai tay đang giơ lên về phía mặt trăng, Peri đang lên tiếng hát.
Tôi nhìn anh ghen tị. Chính đó là một con người đã tìm thấy con đường của mình.

Tôi
bỗng nảy ra một ý tưởng.

“Peri
!”

Anh
chạy đến, hơi cắm cảu vì bị đứt quãng. Tôi mời anh vào nhà. Chúng tôi ngồi bào
bàn và tôi mở một chai cognac (anh không uống; anh không uống rượu khi đang
trong kì cầu nguyện). Tôi nốc một hơi cạn một cốc đầy.

“Tôi
cần anh giúp đỡ”, tôi nói.

“Nếu
tôi có thể, thưa ông chủ”, anh nói, có vẻ ngạc nhiên.

“Tôi
có một vấn đề này, Peri. Một vấn đề mà tôi phải giải quyết. Nó đã hành hạ tôi
từ rất lâu rồi.”


tôi bắt đầu nói. Tôi nói hàng mấy giờ liền; uống hết cả chai cognac, và bộc
bạch với anh tất cả mọi chuyện. Ngày tôi ra đời, cuộc sống của tôi ở trại. Tôi
còn nhắc lại cả lần hai chúng tôi gặp nhau hồi còn bé (anh không phản ứng gì,
chỉ ngồi nghe). Tôi nói đến thời kì chúng tôi dọn về Porto ALegre, đến cuộc
chạy trốn của tôi qua thảo nguyên, những ngày trong gánh xiếc, cuộc gặp gỡ với
Tita, chyến đi của chúng tôi sang Morocco, hai ca mổ, khu chung cư biệt thự,
cái chết của con nhân mã trẻ tuổi, chuyến đi thứ hai của tôi sang Morocco - tất
cả mọi chuyện. Anh lắng nghe, hai mắt xoáy vào tôi, gương mặt có ánh sáng của
cây đèn bão rọi vào. Tôi nói với anh rằng tôi muốn trở lại thành nhân mã, vì đó
là cách duy nhất, tôi nghĩ thế, để tìm lại được những chân lí đã mất. Còn anh,
một thầy phù thủy (đến đây thì anh ngắt lời tôi : ông chủ, tôi chưa phải là một
thầy phù thủy, tôi còn đang học mà), anh có thể giúp tôi được việc này.

“Peri,
hãy làm cho tôi mọc lại những cái chân ngựa đi”

“Thưa
ông chủ, ông say rồi”

“Có
thể thế. Nhưng tôi muốn có chân ngựa và móng ngựa, Peri à. Anh có hiểu không ?
Móng ngựa ấy mà.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3