Ảo thuật gia - Chương 54 - 55 - 56 (Hết)

CHƯƠNG 54

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly
Làm prc: Vanlydocnhan

Làn gió lạnh
cóng thổi qua tòa tháp pha lê mang theo mùi ô uế từ trận chiến và mùi kim loại,
nhưng những người chiến binh vừa kinh qua trận chiến không hề sợ hay run lạnh
khi đứng trên nóc nhà đầy những vết máu.

Nhà thông thái Abraham giờ đã biến thành vàng quá nửa. Ông
đứng ở cửa ra vào, trên tay phải cầm cuốn sách ôm trước ngực. Nửa thân trái của
ông đã hóa thành vàng. Tsagaglalal đứng cạnh ông, giúp đỡ ông. Khi ông cười,
chỉ có nửa số cơ mặt di chuyển, và một vàng lỏng chảy ra từ con mắt xám còn lại
của ông.

“Những người bạn của ta,” ông nói trong đau đớn. “Tôi cảm
thấy tôi có thể gọi các bạn như thế. Dù đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy các
bạn bằng da bằng thịt, nhưng thực ra tôi đã thấy các bạn trong rất nhiều thế
kỷ. Tôi đã theo dõi các bạn trong hiện tại và cả tương lai. Tôi biết chính trò
đùa của định mệnh và hoàn cảnh đặc biệt này đã đưa các bạn tới đây. Và đúng ra
tôi là người chịu trách nhiệm cho việc đó.” Ông hít một hơi thở khó khăn và
ngực ông di chuyển chầm chậm.

“Prometheus – ông bạn lâu năm nhất của tôi: ông đã mang tới
cho tôi quá nhiều món quà quý giá, ông mang tới cho tôi người vợ thân yêu của
tôi, Tsagaglalal, và người em trai giỏi giang của bà ấy, Gilgamesh. Tôi coi cả
ba người như anh em của tôi, là gia đình tôi chưa từng có. Cả hai biết mình cần
làm gì.”

Hai người đàn ông cúi đầu, xấu hổ vì những giọt nước mắt
đang lăn trên má.

Một nửa khuôn mặt Abraham nở một nụ cười. “Bây giờ và mãi
mai tôi luôn biết ơn .” Dù cổ ông cứng đơ nhưng đôi mắt ông chuyển động. “Joan
of Arc...lịch sử cô tạo ra thật tuyệt. Và cả cuộc đời cô cũng vậy.”

Người Phụ nữ Pháp cúi đầu, mắt vẫn nhìn vào khuôn mặt
Abraham.

“Cô sắp phải chiến đấu vì tất cả những người cô yêu thương,
và cô phải lựa chọn sẽ khiến hai người phải xa nhau. Nhưng hãy nghe theo trái
tim của mình. Hãy mạnh mẽ như cô vẫn vậy.”

Joan nắm lấy tay chồng và bóp nhẹ.

“Còn anh là gì hả Saint-Germain? Lần đầu tiên khi tôi thấy
cuộc đời anh giao với Joan, tôi nghĩ đó chỉ là một sai lầm. Tôi đã dành cả
thánh để kiểm tra đi kiểm tra lại những dữ liệu của tôi, tìm xem có lỗi gì
không. Nhưng không có. Tận trong tim mình, anh là một con người đơn giản,
Saint-Germain ạ. Anh biết anh là một thằng đểu. Nhưng tôi biết chắc chắn – anh
luôn luôn yêu Joan bằng cả trái tim.”

Saint-Germain gật đầu và Joan liếc nhìn anh là bóp tay anh
thêm lần nữa.

“Anh biết tới lúc đó anh phải làm gì. Đừng do dự.”

“Hiệp sĩ Sacaren Palamedes và William Shakespeare, lại một
cặp không bình thường nữa. Tôi cũng đã nghĩ nghiên cứu của tôi có sai sót.
Nhưng khi tôi kiểm tra và phát hiện ra rằng hai anh có chung một thứ - gia đình
– và tôi biết mình không sai. Đại thi hào ạ, chúng tôi sẽ cần tới khả năng của
anh: sức tưởng tượng của anh. Và Palamedes, ông ấy sẽ cần anh bảo vệ. Tôi biết
anh có thể hy sinh mạng sống vì ông ta.” Abraham hơi ngửng lên nhìn chiếc Rukma
đang gầm rú trên trời. “Như khi này ông ấy dám hy sinh vì mạng sống của tất
cả.”

Shakespeare cúi đầu xuống, lau kính như điên như dại để không
ai có thể thấy má ông đang ửng đỏ.

“Và Scathach. Bóng Tối. Ta đã quan sát cô mười ngàn năm nay.
Tôi có thể có cả một thư viện về những chuyến phiêu lưu của cô, và một thư viện
nữa viết về những lỗi lầm của cô. Cô là một người khó chịu, vô trách nhiệm,
nguy hiểm nhưng trung thành và dũng cảm. Thế giới này sẽ nghèo nàn hơn nhiều
nếu không có cô. Cô cho loài người rất nhiều thứ nhưng họ không được như cô kỳ
vọng. Tôi có món quà cho cô. Nó gồm hai phần, phần đầu tôi sẽ cho cô biết ngay
giờ. Phần thứ hai, ờm, sẽ vào lúc khác và nơi khác. Đây là món quà đầu tiên:
mạng sống của chị cô. Hiện giờ cô ấy đang bị kẹt ở Vương quốc bóng tối cùng
Archon Coatlicue. Cô cần biết cô ấy tự nguyện đến đó, hy sinh cô ấy để cô được
an toàn.”

Bóng tối khó khăn nuốt cơn nghẹn, tay mở ra rồi nắm chặt
lại. Da cô trắng bệch và mắt ánh lên tia nhìn màu xanh lơ.

“Cô là hy vọng duy nhất của cô ấy. Hãy nhớ điều đó. Hãy cố
sống dù cho mọi thứ dường như đã mất. Cô phải sống.”

Scathach gật đầu.

“Giờ mọi người phải đi,” Abraham nói xong. “Hãy trở lại Danu
Talis và hủy diệt thế giới này.” Sau đó, cũng lặng lẽ như khi tới, ông quay
lại, với Tsagaglalal và Gilgamesh hộ tống, biến mất trong tòa tháp.

Không nói một lời nào, Prometheus kéo dây thừng nối từ chiếc
Rukma. Chiếc phi thuyền chòng chành và hơi chúi xuống ngang bằng với nóc nhà.
Cả bốn người bất tử lần lượt bước lên cánh thuyền và vào trong phi thuyền.

Chỉ còn Scathach đứng đó. Cô quay mắt về phương nam nơi ánh
sáng từ thành phố Danu Talis thắp sáng những đám mây. Bộ tộc của cô, tộc Ma Cà
Rồng, đáng lý không có bất cứ cảm xúc nào và không thể khóc. Thế thì vì sao có
nước trên má cô? Cô đoán đó chỉ là những giọt nước biển văng lên. Cô quyệt nó
đi và quay lại, leo lên cánh thuyền và quăng mình vào trong chiếc phi thuyền.

“Đi thôi,” cô nói, thắt dây an toàn vào. “Hãy đi tới đó làm
xong việc đi. Tôi còn phải đi cứu chị.”

CHƯƠNG 55

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly
Làm prc: Vanlydocnhan

Anh
chưa từng tới đây,” Nicholas Flamel thừa nhận. Ông dừng lại và nhìn tấm biển
báo trên đầu.

CẦU CẢNG 14

“Ôi, Nicholas, Em đã nói là anh nên ra ngoài thường xuyên
hơn rồi mà.” Perenelle vòng tay qua tay chồng khi họ đi dưới lối vào xám xịt
dẫn vào cầu tàu mới. “Nó mới được mở một năm nay. Đây là một trong những địa
điểm yêu thích của em trong thành phố đó.”

“Em không bao giờ nói,” ông nói, giọng thoáng ngạc nhiên.

“Vậy là sau từng ấy năm, chúng ta vẫn có thể khiến nhau ngạc
nhiên.

Ông ngoài người sang và hôn nhẹ lên má vợ. “Thậm chí sau
từng ấy năm,” ông nói. “Vậy cho anh biết đi – em thường tới đây nhiều không?”

“Năm hay sao lần một tuần.”

“thế à?”

“Mỗi sáng em rời cửa hiệu, em thường đi xuống Embarcadero,
đi dạo quanh đó và cuối cùng thì tới cầu tàu này. Thế anh nghĩ em đi đâu trong
cả tiếng đó?”

“Anh cứ nghĩ em sang đường uống cà phê.”

“Trà chứ, Nicholas,” Perenelle nói bằng tiếng Pháp. “Em uống
trà. Anh biết là em ghét cà phê mà.”

“Em ghét cà phê à?” Nicholas hỏi. “Từ khi nào thế?”

“Chỉ trong khoảng tám mươi năm nay thôi.”

Nicholas chớp mắt, đôi mắt mờ phản ánh màu xanh nước biển.
“Anh biết mà. Anh đã nghĩ thế.”

“Anh đang trêu em.”

“Có thể,” ông thừa nhận. Ông nhìn xuống bến tàu. “Nơi đây
đẹp. Và dài nữa.”

“Rộng mười lăm feet và dài sáu trăm bay mươi ba feet tính từ
bờ biển,” bà vui vẻ nói.

“Ờ.” Flamel gật đầu hiểu biết. “Trò này sẽ ngăn Lotan từ
ngoài bờ biển được đấy.”

“Chỉ cần nó đi được vào đất liền, chúng ta sẽ thất bại,”
Perenelle nói. Bà chỉ sang bên trái, nơi Alcatraz
đang thấp thoáng nơi góc vịnh. “Dòng hải lưu quanh hòn đảo đó rất nhanh. Mọi
thứ đi xuống nước đều bị cuốn trôi ra đó. Em không thể tưởng tượng nó sẽ tới
một bãi biển nào xa hơn.”

“Nếu thế thì...” Nicholas bắt đầu.

“Nếu thế thì chúng ta cũng phải đương đầu với nó,” Perenelle
nói nốt. Rồi bà cười. “Nếu dòng hải lưu đẩy nó qua cầu, rất có khả năng nó sẽ
xuất hiện ở bên kia vịnh, có thể là ở Alameda.
Nó sẽ xuất hiện ở đó vào tầm chiều giờ này. Lúc đó đường xa đang khá tập nập.
Nó có thể gây họa lớn trước khi chúng ta tới được đó.”

“Vậy là chúng ta phải chắc chắn ngăn nó lại ở đây,” ông nói.

“Chính xác. Ờm, anh bảo em đưa anh tới gần biển nhất có thể.
Vậy anh có kế hoạch rồi phải không?”

“Anh luôn có kế hoạch mà.”

Họ nghe thấy có tiếng chân phía sau họ. Ho quay lại và thấy
Prometheus và Niten đang rảo bước tới. Họ đều mang cần câu trên vai. Anh chàng
nhỏ nhắn người Nhật cười. “Đừng hỏi ông ấy xem thêu cái này tốn bao nhiêu,” anh
nói.

“Hết bao nhiêu?” Nicholas hỏi.

“Nhiều lắm,” Prometheus giận dữ nói. “Tôi có thể mua cả một
tàu cá, hoặc ít nhất cũng là một bữa cá ngon miệng, chỉ để thuê cái này trong
vài tiếng đồng hồ,” ông càu nhàu. “Lại còn cộng thêm khoản đặt cọc nếu chúng
tôi không mang mấy cái cần câu này về nữa chứ.”

“Kế hoạch thế nào?” Niten hỏi. Cậu lôi ra một cái thùng
rỗng. “Chúng ta không thể đi câu thật được. Chúng ta không có mồi.”

“Ồ chúng ta có chứ.” Nicholas mỉm cười. “Cậu chính là mồi.”

Niten và Prometheus đứng cạnh nhau, dựa tay vào lan can
quanh khu ngắm cảnh hình bán nguyệt ở cuối cầu tàu số 14. Với cần câu đang
buông xuống mặt nước, trông họ giống như những người câu cá khác, to nhỏ nói
chuyện với nhau, không quan tâm tới thành phố, cây cầu, Đảo Châu Báu hay
Embarcadero.

Nicholas và Flamel ngồi sau họ. Nhà Giả Kim đã khám phá ra
ghế này có thể quay tròn được nên cứ đẩy người lên trước và ra sau. Chiếc ghế
kêu cót két. Cuối cùng Prometheus quay lại và lườm người bất tử. “Nếu ông còn
làm thế nữa, tôi sẽ cho ông làm mồi cho Lotan đó.”

“Tôi sẽ giúp ông,” Niten đế thêm.

Perenelle đột ngột đứng dậy. “Có cái gì đó đang tới,” bà nhỏ
giọng nói.

“Anh có thấy gì đâu...” Nhà giả kim nói và rồi ông thấy nó.
Một cuộn sóng, một xoáy nước đen trong vịnh. Ông quay lại nói với Elder và Kiếm
sĩ. “Hai người biết phải làm gì rồi đó.”

Họ gật đầu và quay lại chỗ cần câu.

“Perenelle,” Nicholas gọi.

Nữ Phù thủy gật đầu. Bà dựa người vào lang can và liếc nhìn
những người đi qua lại trên cầu tàu. Một số rõ ràng là khách du lịch – họ giơ
máy ảnh chụp lia lịa – trong khi những bà mẹ đang đẩy xe đẩy là người vùng này.
Có vài người câu cá tầm trung tuổi đang nhìn chăm chú vào lan can và ba chàng
trai trẻ đang tập tung hứng bằng mấy trái cam và táo.

Perenelle tập trung và tóc bà nhiễm điện kêu lách tách.

Ngay lập tức hai người câu cá nhấc cần câu và thúng cá bỏ
đi, không nói một lời nào. Những khách du lịch đột ngột hết hứng thú với quang
cảnh thành phố và của vịnh, đứa trẻ trung xe đẩy bắt đầu gào khóc khiến mẹ nó phải
đưa nó về. Chỉ còn ba cô gái tung hứng là còn đứng đó.

“Họ đang tập trung tung hứng,” Nicholas lầm bầm. “Thế nên em
không thể tác động lên họ.”

“Tất nhiên.” Perenelle cười. “Giờ già rồi em cũng phải chậm
chạp đi chứ.”

Một con hải âu lượn qua chộp lây quả táo của một cô và thả
xuống biển. Con thứ hai nẫng mất trái cam. Sau đó đột nhiên bốn con chim lớn
bay vòng vòng trên đầu họ, ị xuống đầu họ. Mấy cậu thanh niên ném nốt quả còn
lại xuống biển và bỏ chạy khỏi cầu cảng.

“LÀm tốt lắm,” Nicholas nói. “Giờ em hãy đảm bảo không có ai
tới gần nha.”

Perenelle gật đầu.

Nhà Giả kim nhìn Elder và người bất tử. “Prometheus, Niten,
tới lúc rồi.”

Không khí đột ngột nức mùi trà xanh, và mùi hồi. Một màu đỏ
nhàn nhạt bao quanh tay Prometheus và chạy xuống cần câu cá. Nó nổ lách tách,
kêu xèo xèo rồi đi theo đường dây xuống nước.

Luồng điện màu xanh lam sẫm trườn trên cánh tay anh như một
hình xăm. Nó chạy theo chiều dài sợi dây cước, làm biến màu dây và chìm xuống
như biếm màu nước trong vịnh thành màu xanh nhạt.

Một hình dạng trong nước bất ngờ đổi hướng.

“Lotan sẽ hút lấy nguồn điện của hai người,” Nicholas nói.
“Nó đánh hơi luồng điện trong nước giống cách cá mập đánh hơi thấy máu. Chúng
ta phải kéo nó lại gần hết mức có thể, nhưng hai người phải cẩn thận. Chúng tôi
không muốn nó xơi tái mất hai người.”

“Nó đến rồi,” Niten nói. Lòng trắng mắt, răng và lưỡi anh
chuyển màu xanh.

“Sẵn sàng,” Prometheus nói.

Nicholas Flamel chạm vào con bọ hung xanh đang đeo quanh cổ
và cảm thấy nó nóng lên trong bàn tay ông. Phép thuật này rất đơn giản, ông đã
làm nhiều lần trong đời nhưng chưa bao giờ trong một hoàn cảnh như thế này.

Cái đầu đỏ ngoi lên khỏi mặt nước...rồi cái đầu thứ
hai...thứ ba...rồi thứ tư, đen và to gấp đôi những cái đầu khác. Đột nhiên cả
bảy cái đầu đều nhắm tới chỗ họ.

“Hy vọng là không có ai quay phim,” Niten lẩm bẩm.

“Có quay cũng chẳng ai tin đâu.” Prometheus nhe răng cười.
“Quái vật bảy đầu không tồn tại. Nếu có ai nhìn thấy, người ta sẽ nói nó là sản
phẩm của Photoshop.”

“Tôi có thể cảm thấy nó,” Niten nói. “Nó đang hút lấy luồng
điện của tôi.”

“Tôi cũng thế,” Prometheus hưởng ứng.

“Để nó tới gần chút đi,” Nicholas nói nhỏ. Ông đặt tay lên
vai họ khiến luồng điện của họ hòa lẫn luồng điện xanh lơ của ông.

“Nhà giả kim.” Giọng của Niten nghe căng thẳng.

“Vài feet nữa thôi. Càng gần càng tốt.”

“Nicholas,” Perenelle cảnh báo.

Những sọc đỏ và xanh lam trên mắt nước đang trôi về phía con
quái vật như nam châm hút sắt. Họ quan sát cơ thể to lớn của Lotan dâng cao
khỏi mặt nước.

“Nó định nhảy đó!” Prometheus hét. Niten nghiến răng không
nói gì.

Lotan hút một hơi cuối và rồi đột ngột phóng lên khỏi mặt
nước, nâng mình trên đuôi nó, bảy cái mồm mở lớn, hàng trăm cái răng sắc nhọn
nhe ra chuẩn bị...

Mùi bạc hà lan tỏa trong không khí dày đặc.

Có một tiếng nổ nhỏ...theo sau là một vụ nổ của màu xanh lơ,
đỏ và xanh lam với ba người đàn ông trong đó...

Nicholas giơ tay ra đón lấy quả trứng vân xanh trong lòng
bàn tay.

Prometheus và Niten loạng choạng lùi lại dựa vào lan can. Họ
thở nặng nhọc và trên mặt họ hằn lên những nếp nhăn mới. Trên lông mày của
Niten điểm sợi trắng. Nicholas Flamel giữ quả trứng bằng ngón cái và ngón trỏ.
“Đã tóm được Lotan.” Ông nói.

Prometheus thở hổn hển. “Ấn tượng đấy. Ông làm thế nào đấy?”

“Khi luồng điện của hai người thu hút nó vào cầu cảng, tôi
cho nó nếm chút xíu luồng điện của tôi. Một khi nó đã ở trong cơ thể con quái
vật, tôi sử dụng phép Chuyển hóa, biến một nguyên tố này thành nguyên tố khác.
Đó là một trong những điều cơ bản của thuật giả kim.” Ông cười. “Tôi chuyển
Lotan về dạng nguyên thủy.”

“Một quả trứng.” Prometheus ngạc nhiên.

“Nơi chúng ta bắt đầu...” Flamel nói. Ông tung quả trứng vân
xanh lên trời...một con hải âu bắt lấy và nuốt trọn.

CHƯƠNG 56

Dịch: Nguyễn Hà Ly nguyen_ly
Làm prc: Vanlydocnhan

Sophie làm như lời dì, mặc quần bò, áo mũ trùm đỏ và
đi giầy leo núi rồi chạy xuống nhà. Cô thấy Tsagaglalal ở trong bếp đang cho
bát đĩa vào máy rửa bát.

“Được chưa dì?”

Tsagaglalal nhìn cô từ trên xuống dưới. “Hoàn hảo cho nơi
cháu sắp tới.”

“Có ai đón cháu không?” Sophie hỏi.

Bà lão lờ câu hỏi đi. “Có thể là,” Tsagaglalal nói, “ta sẽ
không còn gặp lại cháu nữa.”

Sophie nhìn bà lão choáng váng. Cô mở miệng định cự lại
nhưng Tsagaglalal đưa tay lên và Sophie để ý thấy những đầu ngón tay của bà rất
mịn màng – bà không có vân tay.

“Nhưng ta muốn cháu biết ta rất tự hào về cháu. Và cả em
trai cháu nữa,” bà nói thêm, “dù ta luôn đoán cậu ấy sẽ chọn con đường khó
khăn.” Tsagaglalal khoác tat Sophie và dẫn cô vào vườn. “Ta đã theo dõi các
cháu từ ngày mới sinh. Ta đã ôm cháu trên tay khi cháu mới sinh được một giờ,
ta nhìn vào mắt cháu và ta biết – cuối cùng – lời tiên tri đã trở thành sự
thực.”

“Sao dì không nói gì?”

“Nói gì, nói với ai?” Tsagaglalal khúc khích cười. “Cháu có
tin ta không nếu như một tuần trước ta nói chuyện này?”

Sophie lắc đầu.

“Ta đã đợi các cháu mười ngàn năm. Ta đã chịu đựng. Một thập
kỷ hay nhiều hơn cũng chẳng khác biệt gì. Giờ, có thể cháu nghĩ hành trình của
cháu sắp kết thúc, nhưng Sophie, ta sợ là đây chỉ mới là bắt đầu. Và những gì
cháu đã học được, với những kinh nghiệm của cháu, là hành trang cho cháu trong
chương tiếp theo.”

“Cháu có được nói chuyện với Josh không?”

“Có, ta có thể đảm bảo.”

“Đi nào cháu sẽ đi.”

“Cháu cầm tấm ngọc lục bảo không?”

Sophie mở khóa áo khoác và lôi nó ra. Cô đưa nó cho
Tsagaglalal nhưng bà lắc đầu. “Nó là cho cháu. Ta không đọc được.”

Sophie lướt tay qua tấm ngọc thêm lần nữa. Những từ ngữ,
tượng hình cô đọc lúc trước biến biết và trên đó còn là một mặt gương trơn nhẵn
mát lạnh.

“Cháu thấy gì?” Tsagaglalal hỏi.

“Cháu thấy mình.”

“Nhìn sâu hơn.”

Sophie mỉm cười và nhìn vào mặt gương. Cô thấy hình phản
chiếu của mình, những cây đằng sau và mái nhà...

Cô thấy Dee.

Cô thấy Virginia Dare, đang thổi sáo.

Thế giới vặn xoắn và Sophie nhận thấy cô đang nhìn bằng đôi
mắt của Josh.

Cô thấy những con quái vật tỉnh giấc trong xà lim, thấy móng
vuốt...

Thế giới lại đảo lộn.

Và Mars, trong bộ giáp đỏ ấn tượng, Odin mặc giáp xám đen,
theo sau là Hel trong chiếc áo giáp sắt cồng kềnh khiến cô càng giống quái vật
hơn đang đuổi theo lũ quái vật với vũ khí trong tay...

Chuyển động, quay vần.

Cửa xà lim bật mở, một con quái vật to lớn, cồng kềnh xuất
hiện. Mars chỉ bằng một cú đánh đã giáng nó xuống đất.

Josh đang chạy rất nhanh, cách chạy của cậu khiến dạ dày
Sophie nôn nao.

...mở hết cửa này tới cửa khác, thả lũ quái vật chạy trong
hành lang, một vài con quá kinh khủng khiến cô cảm thấy còn bệnh hơn.

Một con nhân sư xuất hiện. Ngay lập tức, Mars, Odin và Hel
lùi lại. Những con quái vật trong hành lang lần lượt nhìn chằm chằm ba Elder.

Những con quái vật xông lên. Những Elder quay người chạy
ngược lại hành lang, theo sau là cả tá những con quái vật lạ thường.

Thế giới lại một lần nữa đảo lộn. Nhìn qua đôi mắt Josh,
Sophie thấy một cái gì đó rơi ra từ túi áo Mars. Cô nhận ra đó là miếng ngọc và
cô quan sát em trai cô...

...lao về phía trước, cướp lấy nó.

Khi cậu nhặt nó lên và nhìn chằm chằm vào nó, lật qua lật
lại trong tay cậu, gương mặt cậu chỉ cách cô có vài inch. Cô nhìn thấy những
thay đổi, những nét hằn trên đuôi mắt, khóe miệng giờ cong lên một cách độc ác
nơi cậu. Josh cô từng biết không giống thế này.

“Ôi Josh,” Sophie thở hổn hển. “Em đã làm gì thế này?”

Josh Newman chạy ra sân chơi, hít vào phồi luồng khí trong
lành lạnh ngắt. “Mọi thứ đều được tự do trong này...”

Dee và Dare đứng ở giữa sân. Pháp sư sắp xếp hai trong số
bốn thanh kiếm sức mạnh thành hình chữ L trên sân. “Đưa mấy thanh kiếm của cậu
đây,” hắn ra lệnh.

Josh ngay lập tức ném cho hắn thanh Durendal, nhưng giữ lại
thanh Clarent, lưỡng lự không muốn buông.

Pháp sư đặt thêm thanh kiếm thứ ba lên mặt đất. Giờ chỉ còn
một cạnh của hình vuông chưa hoàn thành. Dee giơ tay ra.

Josh cảm thấy thanh Clarent đang đập mạnh trong tay cậu.

“Nhanh!” Dee quát và Josh nhận thấy người bất tử đang sợ.
“Đấy là Mars, Odin và Hel đấy. Họ vốn là những kẻ thù không đội trời chung cơ
mà.”

“Có thể họ đã gạt hằn thù cá nhân sang bên và hợp tác để
lùng bắt anh.” Virginia nhoẻn miệng cười.

“Ông sẽ an toàn,” Josh nói. “Lần cuối cùng tôi nhìn thấy
họ,, họ đang bị con nhân sư và những con quái khác rượt.”

Cánh cửa đằng sau họ mở ra và Mars xuất hiện. Khi ông nhìn
thấy Dee, ông gầm lên và chạy về phía hắn. Ông mang theo thanh đao, kéo lê nó
xuống sàn, khiến đá lát sàng tóe lửa.

“Thanh kiếm, Josh!”

Cậu trai trẻ ném thanh Clarent cho Dee. Hắn khéo léo bắt lấy
và đặt vào chỗ còn trống.

Một cử động làm tung tấm ngọc lục bảo ra khỏi túi Josh và
rơi xuống đất.

Sau đó Dee truyền luồng điện vào bốn thanh kiếm khiến chúng
lần lượt phát sáng.

“Đi, Sophie,” Tsagaglalal nói.

“Đi ư? Đi đâu ạ?”

“Tấm ngọc hoạt động như một gương cổng tuyến.” Bà vỗ vào
hình ảnh trên miếng ngọc. “Đi tới đó. Tới chỗ em trai cháu.”

“Sao cháu tới được?”

“Ta đã nói gì với cháu?” Tsagaglalal hỏi.

“Tưởng tượng và đặt niềm tin.”

“Cháu có muốn ở bên em trai không?”

“Có ạ.”

“Hơn mọi điều khác trên thế giới?”

“Vâng ạ.”

“Vậy đi đi.”

Sophie nắm chặt lấy cạnh miếng ngọc và mặt ngọc biết thành
một miếng bạc, trở thành một cái gương hoàn hảo...

...ở Alcatraz, tấm ngọc lục bảo trên mặt đất biến thành bạc,
không khí có mùi không lẫn được của va ni.

“Soph à?” Josh quay lại nhìn quanh đúng lúc nhìn thấy chị
cậu xuất hiện sau lưng. Cậu nhìn cô chết lặng người.

Một hình chữ nhật xuất hiên trên mặt đất được bao quanh bởi
bốn thanh kiếm đang bùng cháy, bên trong là thứ vật chất đen hắc ín đang cuộn
đảo.

“Josh!” Dee hét lên rồi nhảy vào trong hố.

Josh ngay lập tức quay lại chỗ Dee.

“Đừng đi!” Sophie van nài.

“Josh,” Virginia Dare gọi. Cô bước một cách uyển chuyển vào
trong hố đen tiếp sau Dee và ngay lập tức biến mất.

“Em phải đi,” Josh nói và đi về phía hố đen trên mặt đất.
Những ánh lửa trên bốn thanh kiếm đã sắp tàn.

“Không!”

Josh đặt một chân vào hố đen. Sophie nắm tay cố giữ cậu lại.
Gương mặt cậu biến thành một cái mặt nạ xấu xí khi cậu cố vùng ra. “Em sẽ không
quay lại. Em đã thấy họ làm gì chị rồi.”

“Josh, họ lừa em đó. Họ đang lợi dụng em.”

“Em không phải người bị lợi dung,” cậu đáp trả. “Chị mới là
người cần mở mắt ra. Nhà Flamel đã lợi dụng chị. Và họ sẽ vắt kiệt chị - như họ
đã làm với những người khác.” Cậu lắc đầu. “Em sẽ đi. Dee và Virginia cần em.
Chị không cần em.”

“Chị cần em,” cô nói. “Chị sẽ đi cùng em.” Và thay vì kéo
cậu lại, cô đẩy cậu cùng nhảy vào hố hư không.”

Không ai chuyển động.

Không có gì.

Thứ duy nhất trong màn hư không đó là hơi ấm bàn tay cậu em
trai.

Sophie như bị mù dù cô vẫn mở to mắt. Cô không nghe thấy gì.
Cô hét lên nhưng cũng không phát ra một tiếng kêu nào.

Và dù với cô chuyến hành trình dài lê thê nhưng có lẽ cũng
chỉ trong một giây.

Có một điểm sáng.

Nhỏ xíu.

Nó ở ngay trước mặt họ. Liệu họ sẽ rơi xuống đó hay nó đang
đuổi theo họ?

Giờ cô lại nhìn thấy.

Cô thấy gương mặt hoảng sợ của Josh và biết đó chính là
khuôn mặt của mình lúc này. Cậu nhìn cô, và trong một thoáng cậu lại là em trai
cô, tới khi các đường nét của cậu trở nên cứng rắn. Cậu nhìn sang chỗ khác.
Nhưng cậu không buông tay cô.

Ánh sáng nuốt lấy họ

Các giác quan quay lại. Cô thấy đau mắt và chói tai, cô cảm
thấy đá cuội dưới chân, thấy mùi xạ của động vật, mùi thơm của cỏ cây trong
miệng.

Sophie mở mắt. Trên cỏ là những bông hoa không bao giờ sinh
sôi trên trái đất, trông như những sợi thủy tinh nhỏ xíu và nhựa thông đặc.

Khi cô đảo mắt nhìn quanh, cô phát hiện họ có bạn đồng hành.
Cô lay lay người cậu em sinh đôi. “Em nên dậy đi.”

Cậu mở một mắt, rên rỉ và khi cậu nhân ra mình đang ở đâu,
cậu giật phắt dậy. “Đây là...”

“...đĩa bay,” cô nói.

“Một vimana,” Dee thốt lên. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có
cơ hội nhìn thấy nó trong đời.” Hắn quỳ trên cỏ và ngưỡng vọng nhìn lên bầu
trời. Virginia ngồi khoanh chân bên cạnh, cây sáo nắm hờ trên tay.

Chiếc vimana hạ xuống, phát ra những tiếng u u. Một lúc sau
nóc thuyền mở ra và hai người xuất hiện. Họ mặc giáp bằng gốm trắng, trang trí
những họa tiết và những con chữ tượng hình kiểu Roman. Họ cao và mảnh mai, với
làn da nâu tương phản gay gắt với bộ áo giáp. Người phụ nữ cắt tóc ngắn, người
đàn ông cạo trọc và đôi mắt họ mang màu xanh lơ sáng.

Dee cúi rạp xuống đất, cố thu nhỏ mình hết mức có thể. “Chủ
nhân,” hắn nói. “Hãy tha thứ cho tôi,”

Cặp đôi lờ hắn đi. Họ đang nhìn cặp song sinh.

“Sophie,” người đàn ông nói.

“Josh,” người phụ nữ gọi.

“Mẹ... Bố,” cặp song sinh đồng thanh nói.

Cặp đôi cúi người. “Ở đây chúng ta là Isis và Osiris. Các
con của ta, chào mừng các con đến với Danu Talis. Chào mừng các con trở về
nhà.”

CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ VỀ VIMANA VÀ ĐĨA BAY

Cũng giống những thứ khác trong tập truyện này, vimana bắt
nguồn từ trong truyền thuyết, đặc biệt là trong những câu chuyện cổ của Ấn Độ.
Trong sử thi tiếng Phạn The Mahabharata, xuất hiện cách đây hai ngàn năm trăm
năm, người ta đã mô tả chi tiết một chiếc vimana. Chu vi của nó khoảng mười hai
cubit (đơn vị tính toán, một cubit bằng chiều dài từ khuỷu tay tới đầu ngón
giữa). Chiếc vimana nổi tiếng nhất trong kho tàng truyện cổ Ấn Độ là chiếc
vimana Pushpaka – cỗ xe ngựa bay của thần Kubera. Nó được miêu tả giống như
“một đám mây ánh sáng.”

Mặc dù cỗ xe ngựa bay, phi thuyền và thảm bay đã từng xuất
hiện trong những câu truyện truyền thuyết trên toàn thế giới, nhưng những chi
tiết trong sử thi Ấn Độ là ấn tượng và đặc biệt hơn cả. Trong một sử thi tiếng
Phạn khác, Ramayana, (cũng được viết lại cách đây hai ngàn năm trăm năm),
vimana rất phổ biến. Sử thi có kể về rất nhiều vị thần và anh hùng chiến đấu
trên không trung với những chiếc vimana khác và tấn công các thành phố. Người
ta cũng có miêu tả về chiều dài, trọng lượng và chiều cao của chiếc phi thuyền.

Có bốn dạng vimana cơ bản – Rukma, Sundara, Tripura và
Sakuna – kiểu dáng từng chiếc có khác nhau. Một số làm bằng gỗ, một số làm bằng
một loại hợp kim màu trắng đỏ bí hiểm; một số hình tam giác với ba bánh lái,
trong khí một số khác có dạng hình tròn hoặc ô van; một số khác được miêu tả
cao bằng một tòa nhà ba tầng.

Tất nhiên, không cái nào là bằng chứng chứng minh trong quá
khứ đã từng có đĩa bay, nhưng đó cũng chỉ ra từ thời xa xưa con người đã luôn
nhìn lên bầu trời.

Giấc mộng được bay cao đã xuất hiện trong dòng lịch sử và có
từ rất lâu hơn nhiều người vẫn nghĩ. Anh em nhà Wright là những người đầu tiên
bay lên bầu trời vào tháng Mười hai năm 1903. Nhưng theo như nghiên cứu mới
nhất có thể quan điểm đó là sai lầm. Hiram Maxim đã bay lên được một quãng ngắn
vào năm 1894 với một chiếc phi thuyền nặng khoảng 7000 pound, còn Samuel
Langley đã đưa một chiếc phi thuyền không người lái bay lên 3300 feet vào năm
1896.

Trong suốt thế kỷ mười chín, các tàu lượn và khinh khí cầu
đã bay lên bầu trời khắp châu Mỹ, châu Âu, Ấn Độ và Nam Phi. Ví dụ, trong báo
cáo vào năm 1895, một chiếc máy bay được Shivkar Bapuji Talpade thiết kế đã cất
cánh từ Bombay, và một chiếc tàu lượn tuyệt vời mang tên Goodman Household đã
bay lên được 300 feet ở Natan, Nam Phi vào năm 1871. Nhưng ghi nhận đầu tiên về
chiếc máy bay nặng hơn không khí là ở Anh vào năm 1848, khi John Stringfellow
đã sử dụng một chiếc máy bay một lớp cánh bay cách mặt đất mười foot. Đó là một
chiếc máy bay động cơ hơi nước.

Thế kỷ mười chín là kỷ nguyên của tàu lượn, còn thế kỷ mười
tám là kỷ nguyên của khinh khí cầu. Mùa đông năm 1783 Etienne Montgofier đã sử
dụng một chiếc khinh khí cầu sử dụng sức nóng có chiều dài 75 foot, đường kính
50 foot bay lên trên bầu trời mở đầu một kỷ nguyên mới.

Xa hơn trong lịch sử, Leonardo da Vinci là người đã thiết kế
ra một chiếc tàu lượn có thể là nguyên mẫu cho máy bay trực thăng ngày nay.
Trong cuốn sổ tay của ông có rất nhiều những thiết kế máy bay, tàu lượn và cánh
nhân tạo. Trong nhật ký viết năm 1483, ông đã vẽ ra bản thiết kế dù nhảy. (vào
26 tháng 6 năm 2000, một bản sao làm theo thiết kế dù đó được làm bằng những
công cụ, vải và chất liệu có sẵn vào thời của da Vinci, đã đưa người bay xuống
mặt đất từ độ cao mười ngàn mét.)

Xa hơn nữa, vào thế kỷ thứ chín, nhà phát minh vĩ đại Berber
và nhà thơ Abbas Ibn Firnas đã đeo cánh trên lưng lượn. Năm trăm năm trước nữa,
người Trung Quốc đã miêu tả về một vật thể bay được làm từ tre và da.

Nếu chúng ta trở về thời gian, không gian nơi lịch sử và
thần thoại sao thoa, chúng ta có thể thấy rất nhiều những đề cập tới những
phương tiện bay. Bay chính là một trong những điểm chung trong các thần thoại.
Hầu hết các vị thần có thể bay, không cần sự giúp đỡ nào khác. Nhưng trong một
vài truyện cổ khác, các vị thần bay với sự hỗ trợ của những đôi cánh. Những
hình này xuất hiện trên những bức tranh khắc đá và những hình vẽ trong các điện
thờ khắp thế giới. Tuy nhiên, trong thần thoại và các truyện cổ còn có rất
nhiều các phương tiện do con người sáng chế giống như máy bay và đĩa bay.

Vị vua Ba Tư Kai Kawus đã cho buộc bốn quả bóng vào ngai vào
và dùng đại bàng huấn luyện cho nó cắp các quả bóng lên. Khi chúng bay, chúng
sẽ mang theo ngai vàng lên trời. Cụm từ cỗ xe bay xuất hiện trong các thần
thoại Trung Quốc, và trong nhiều câu truyện về vị vua đầu tiên của Trung Hoa,
Shun, đã bay lên trời – ông đã từng thoát khỏi tòa nhà đang cháy bằng cách dùng
một chiếc mũ khổng lồ như một chiếc dù.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về máy bay và trong truyện
cổ về Icarus. Cha anh ta, Daedalus đã tạo cho anh ta một đôi cánh nhân tạo.
Daedalus là một nhà thiết kế vĩ đại đã tạo nên rất nhiều kỳ quan, bao gồm
Labyrinth, dành cho vua Minos của Knossos.
Những chi tiết trong câu truyện về Daedalus rất thú vị rất thú vị: chúng ta có
thể thấy ông ta không dùng lụa vì nó quá nhẹ, không dùng vải bạt vì quá nặng.
Cuối cùng, ông quyết định dùng khung gỗ gắn lông chim nhờ sáp ong. Cũng giống
những nhà phát minh khác, Daedalus có nghiên cứu: ông đã đưa cho con trai bản
chỉ dẫn chi tiết rằng đừng bay quá cao hay quá gần biển, vì nước biển có thể
làm hỏng đôi cánh. Icarus đã bay quá cao và cái nóng của mặt trời Địa Trung Hải
đã làm nóng chảy sáp ong. Thật không may là Daedulas đã không chế tạo ra dù.

Khi tôi viết những điều này, tôi không khỏi phân vân rằng,
liêu trong các câu chuyện truyền thuyết đó có chút sự thật nào không. Chúng ta
nên nhớ rằng rất nhiều điều ngày nay chúng ta coi là bình thường đã từng được
coi là một phép lạ.

Thc hin bi
nhóm Biên t
p viên
Gác Sách:

Mai – Minh Nguyệt – thao1011
(Tìm - Ch
nh sa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3