21. Ollie và con trăn
OLLIE VÀ CON TRĂN
Để thực hiện chuyến
đào thoát khỏi Học viện Bloor, Ollie chọn một cánh cửa mà không mấy đứa trẻ
biết tới.
Trước khi mất đi
lòng háo hức trước tình trạng vô hình đầy mới lạ, Ollie đã kịp tận dụng sự tự
do mà vô hình mang lại để thoả mãn trí tò mò khôn cùng của mình. Một đêm nọ nó
đã khám phá ra cánh cửa sau lâu đài này. Nhưng cửa khoá, mà cho dù cửa không
khoá đi chăng nữa, chắc chắn nó cũng chẳng rời khỏi toà nhà. Trời tối là một
chuyện, và còn một chuyện nữa là nó sẽ đi đâu?
Cánh cửa đó toạ lạc
ở phía sau nhà bếp xanh lá cây, nơi bà vợ Bertha của gã Weedon trấn giữ. Những
khi Bertha không phải nấu nướng, bà ta sẽ ngồi trong một chiếc ghế bành sờn
tưa, đọc truyện kinh dị. Bà ta đặc biệt mê những tiểu thuyết của Agatha
Christie. Nhưng ngay cả khi có vẻ như đắm chìm hoàn toàn vô cuốn sách, thì chắc
chắn Bertha Weedon vẫn để nửa con mắt của mình vô cánh cửa. Bà ta rất thích để
ý chính xác xem ai đang đi vô và đi ra.
Bên ngoài cánh cửa
đó có một mảnh sân nhỏ làm nơi đặt những thùng rác. Những người lấy rác thường
khua những thùng rác ấy ầm ĩ cả lên. Làm sao mà họ lại không làm như thế cho
được? Để ra được tới ngoài phố, họ cần phải đẩy những thùng rác nặng chịch lên
một đoạn dốc, và sau đó đi qua hai cánh cổng cao, được trang trí bằng đinh mũ.
Tất cả hàng hoá được
giao tới Học viện đều đi qua cánh cổng đôi này, rồi xuống đoạn dốc, hoặc xuống
mấy bậc thang đá vốn được chú đưa thư ưa thích (có lần chú ấy đã té lộn nhào từ
trên dốc, thủ phạm là một trái chuối mốc meo).
Sáng thứ ba, Ollie
đi xuống nhà bếp xanh lá cây. Con nhện của Emma vừa khít ngón cái bàn chân phải
của nó, và nó khoái chí dòm con nhện búng lên trước mặt mỗi khi nó đặt bàn chân
phải về phía trước.
Học viện Bloor yên
ắng lạ thường, và Ollie cứ tưởng chưa có ai khác thức giấc, cho tới khi nó đi
tới nhà bếp xanh lá cây... Bà Weedon đứng ngay bên cạnh cánh cổng sau, trong
khi người bán cá và người phụ việc của ông ta ì ạch đi qua với những khay cá
đông lạnh thật lớn.
"Vô đó đó! Vô
đó" Bà Weedon la lớn, tay chỉ chiếc tủ đông khổng lồ. "Lẹ lẹ giùm
coi."
Ollie chờ cho tới
lúc hai người đàn ông đẩy trượt những khay cá vô trong chiếc tủ đông thì nó
liền chớp thời cơ. Nhưng khi nó vừa đặt bàn chân phải nơi bậu cửa, bà Weedon
liền phát hiện ra ngay con nhện và "phụp"... Bà ta đạp lên.
"Úi!"
Ollie ré lên. Và gần
như không suy nghĩ, nó giơ bàn chân trái lên và đá cho bà Weedon một cái, đúng
chỗ đau nhất.
"Áááá!" Bà
Weedon rú vang.
"Chuyện gì
đó?" Người bán cá, tên là Crabb, hỏi.
"Con nhện chết toi đó... Nó đang chạy mất kìa!" Bà Weedon gào như
bị bóp họng. "Bắt lấy nó... Lẹ lên... Tôi ngạt thở rồi!"
"Bà giỡn chắc," ông Grabb nói, giọng vui vẻ.
"Tôi KHÔNG giỡn!" Người phụ nữ cáu rít lên. "Tôi bị thương
rồi."
"Không. Ý tôi là bà đang giỡn về con nhện kìa," ông Crabb nói.
"Tôi KHÔNG giỡn!" Bà Weedon gào lên. "BẮT LẤY NÓ."
"Cái gì... Bắt một con nhện bé xíu hả?" Ông Crabb nói, vẻ ngờ
vực.
"NÓ không NHỎ! Nó biết đá hẳn hoi," bà Weedon gào, lạc cả giọng.
"Ra vậy." Ông Crabb đã nghiêm nghị hơn. "Ê, Brian. Chúng ta
đi thôi."
Hai người bán cá leo lên những bậc cấp bằng đá, mau hơn bình thường, nhưng
không đủ mau để trông thấy một con nhện lớn phóng qua cánh cổng sắt và bắn vọt
ra ngoài đường.
Ollie đã không ra khỏi Học viện suốt hơn một năm trời. Giờ, nó không thể
nhịn nổi, cứ nhảy chồm chồm và búng mình lên khi vội vã băng qua thành phố. Nó
được tự do rồi. Mặt trời đã lên và mái vòm của nhà thờ lớn rực rỡ trong ánh ban
mai.
"Ra rồi!" Ollie hát vang. "Ra mãi mãi. Và ta sắp lại là
ta!"
Khi tới được nhà thờ lớn, nó ngước nhìn chằm chằm vô tòa nhà cổ kính;
choáng ngợp trước độ cao và đám tượng đá chi chít từ cái cổng vòm đồ sộ cứ ngó
ra trừng trừng.
"Mình tự do
rồi!" Ollie hét lên.
Chẳng có ai ở quanh
đấy cả, cho nên nó nhảy nhót khắp quảng trường rải sỏi, hát vang:
"Chẳng bao lâu nữa ta sẽ là ta, ta, TA!"
Ánh mặt trời chiếu cho nó thấy một cửa sổ bày hàng nhỏ, nơi trưng bày những
cuốn sách bìa da tựa vô nền một bức màn nhung đỏ.
"Tiệm sách Ingledew."
Ollie đọc tên tiệm ở bên trên cánh cửa. Nó lượn qua và nhấn chuông.
Một phụ nữ nhìn ra từ một cửa sổ trên tầng hai. Cô nhìn vô khoảng không chỗ
Ollie đứng. Ngay cả ở khoảng cách xa như vậy, cô vẫn có thể nhìn thấy một con
nhện đen to bự mà đứa cháu gái của cô đã làm cách đây mấy ngày.
"Ollie đó hả?" Cô gọi.
"Xin chào cô!" Ollie lên tiếng. "Vâng. Là con đây ạ."
"Chờ ở đó nhé! Một giây nữa cô xuống liền," cô Ingledew nói.
Một thoáng sau, cánh cửa mở ra kèm theo một tiếng kính koong vui tai, và cô
Ingledew xuất hiện trong chiếc áo choàng màu xanh da trời. Cô có gương mặt xinh
đẹp và tươi cười, và Ollie lập tức cảm thấy dễ chịu.
"Vô đi, Ollie," cô Ingledew mời con nhện, vì không còn thứ gì
khác để cô có thể nhìn vô.
Ollie bước vô cửa hàng và ngó chăm chăm quanh những kệ sách. Trông chúng
thật thích mắt với những bìa sách êm ái, đắt tiền cùng những gáy sách ép nhũ
vàng.
"Một nơi tuyệt diệu!" Nó trầm trồ.
"Cảm ơn
con," cô Ingledew nói.
Cô lo lắng nhìn
quanh căn phòng và thấy con nhện nép mình sát bên quầy.
"Cô nghĩ là con
muốn dùng điểm tâm," cô bảo.
"Vâng ạ!" Ollie thở dài. "Cô có chút mứt nào không?"
"Có nhiều chứ. Emma bảo cô mua một ít mứt cho con đấy. Nhưng có lẽ con
cũng muốn ăn cả trứng và thịt xông khói nữa nhỉ?"
"Thịt và trứng!" Ollie reo lên sung sướng. "Con chưa hề được
ăn một bữa ăn nóng nào hơn một năm nay."
"Ôi Trời ơi," cô Ingledew nói. "Chúng ta sẽ phải sửa lại
ngay lập tức."
"Và ăn sáng xong con sẽ được chữa chứ?" Ollie nói. "Con gặp
con trăn xanh da trời được không? Nó có làm cho con hiện hình lại được
không?"
"Cô nghĩ chúng ta nên để việc đó tới tối nay," cô Ingledew nhỏ
nhẹ. "Ban ngày thành phố rất đông đúc và cô không muốn con bị đạp bẹp và
bị... bị lạc mất."
"Con cũng không muốn," Ollie nói. "Dạ. Để đêm nay vậy. Giờ,
con thưởng thức món mứt đó được chứ?"
Trong khi Ollie đang xơi bữa ăn nóng đầu tiên của mình sau bao nhiêu tháng
trời, thì bọn trẻ và giáo viên Học viện Bloor vừa mới thức giấc.
Trên đường đi ăn sáng, Charlie quan sát thấy một bầu không khí bối rối
trong số những giáo viên đi vụt qua nó. Bầu không khí này thậm chí càng rõ rệt
hơn nữa trong nhà ăn, khi ban giám hiệu bước bốn bậc thang lên ngồi quây quanh
Bàn Danh Dự, trước sự chứng kiến của toàn trường.
Giáo sư Bloor cứ hắng giọng liên tục, như thể sắp sửa thuyết giảng điều gì
đó. Nhưng không một lời nào tuôn khỏi môi ông. Trông ông ta thật thê thảm. Mái
tóc xám dựng lên nom thật kỳ dị, và gương mặt ông ta ngày thường đã nhợt nhạt
thì nay thật tái mét.
Những cái nhìn hoang mang, ngơ ngác dường như đã lan tràn khắp trường. Nơi
này vừa trải qua một đêm vô cùng kỳ lạ, nhưng không ai muốn bàn luận về nó. Sự
thật thì hầu hết mọi người đều cảm thấy hoặc là xấu hổ vì cái sự hèn nhát của
mình, hoặc là, như giáo sư Bloor, nhục nhã vì không thể ngăn chặn được cuộc xâm
lăng của những hoạt động bất tự nhiên và kinh khủng như thế.
Bầu không khí kỳ lạ ấy kéo dài suốt cả ngày. Các giáo viên không thể nhìn
vô mắt họ trò mình. Bọn trẻ nhìn nhau rồi lại vội vã quay đi. Tất cả mọi người
đều đi đứng gấp gáp, không phải là như kiểu để mau chóng tới nơi mình cần tới,
mà hình như là để mau mau trốn khỏi cái gì đó ở đằng sau lưng.
Charlie đoán việc này giống như là có bom gài trong toà nhà. Không ai biết
trái bom ở đâu, hay khi nào thì nó phát nổ. Cuối cùng, mọi thứ lên tới cao trào
ở trong phòng Nhà Vua sau bữa tối.
Tancred đúng là tia lửa, nếu có thể gọi đó là tia lửa. Mặc dù nó mệt nhoài
sau một đêm hao tốn khá nhiều năng lượng, nhưng không ai không nhận thấy rằng
nó rất ư hài lòng về bản thân.
Charlie có quá đủ lý do chính đáng để mà mãn nguyện, nhưng nó biết, sẽ thật
nguy hiểm nếu bộc lộ ra.
Mười một đứa trẻ được ban phép thuật đang ngồi chỗ thường lệ của chúng
quanh chiếc bàn, thì vẻ hơn hớn của Tacred bỗng trở nên quá sức chịu đựng đối
với Belle.
"Dẹp cái vẻ hí hửng đó ra khỏi mặt mày đi, Tancred Torsson!"
Belle giật giọng. "Mày tưởng mấy con gió vờ vịt của mày là tài giỏi lắm
sao. Mày chẳng là cái quái gì cả. CHẲNG LÀ CÁI QUÁI GÌ CẢ!"
"Thế sao?" Tancred nói, ngoác miệng cười rộng hơn. "Ồ, thành
thực mà nói, tôi không biết tại sao bà còn mất công đeo cái bộ mặt xinh đẹp đó
làm chi nữa. Tất cả chúng tôi đều biết thật ra bà là cái gì rồi, mụ phù thuỷ
kia!"
Một hơi thở hốt hoảng do sợ hãi phả ra quanh chiếc bàn, Asa đứng bật lên,
gầm gừ:
"Rút lời đó lại, thằng khốn!"
"Giờ thấy can đảm rồi à, con thú tí nị kia!" Tancred châm chọc.
Asa đang định xông hẳn qua bàn thì Manfred túm lấy phía sau cổ áo nó:
"Câm ngay, tất cả bọn bay!" Nó thét. "Torsson, xin lỗi
mau!"
"Tôi? Tại sao tôi phải xin lỗi?"
"Cô ta kiếm chuyện trước," Lysander lên tiếng bằng một giọng
chừng mực.
"Mày có nghe không," Manfred rít lên. "Ý tao là, Torsson,
mày không tài giỏi đến mức không thể bị trừng phạt. Mày biết đấy. XIN LỖI
MAU!"
"Quên đi!"
Tancred dựng mái tóc nhiễm điện thẳng đơ của nó lên. Nếu xét về gió thì nó
đã kìm được mình một cách đáng nể, nhưng bây giờ, để cho đỡ chán, nó phóng ra
một loại thời tiết mới. Vài hạt mưa rớt lộp bộp bên bàn, và cả bọn vội vã rút
sách che lên đùi.
"Lộp bộp, lộp bộp," Zelda Dobinski cười khẩy. "Tội nghiệp quá.
Thế mà cũng gọi là mưa hả?"
Tất cả bọn đều ước gì con nhỏ đừng phun ra câu đó. Phút sau, đụn mây đen
nhỏ nãy giờ trôi lêu bêu ở dưới trần nhà thình lình vỡ bục ra, và một túi nước
trút ào xuống. Nước bắn vô mắt bọn nhỏ, làm ướt sạch quần áo chúng, và ướt sũng
hết sách vở.
"Thằng ngu!" Belle rít lên bằng một giọng đùng đục, đầy đe doạ.
"Mày nghĩ mày là ai kia chứ?"
Bị làn mưa che lờ mờ, Charlie thấy cái điều mà nó hy vọng mình đừng bao giờ
thấy lần nữa. Những nét thanh tú của Belle chuyển thành màu nâu và giống như
chó. Hai cái tai phòi ra từ đầu và hai cái cánh to đùng trụi lông bắt đầu toè
ra khỏi vai. Belle đang biến thành một con dơi khổng lồ.
Con dơi giang đôi cánh trần trụi của nó ra, và hú lên một tiếng sôi máu, nó
bổ nhào tới Tancred. Thằng bé hét lên "Ááááá," rồi chui thụp xuống
gầm bàn. Tất cả bọn còn lại cũng vậy - ngoại trừ Asa, nó ngồi yên chiêm ngưỡng
con dơi với một vẻ sùng bái vô bờ.
Con vật kệch cỡm đó bắt đầu lượn vòng quanh căn phòng, đôi cánh của nó quệt
vô những kệ sách và những bức tranh. Chiếc đồng hồ treo tường đâm nhào xuống
sàn, nguyên một hàng sách bị gạt bay lên, và rồi, khi Charlie hé mắt nhìn ra từ
dưới gầm bàn, nó trông thấy bức tranh Vua Đỏ rung lắc dữ dội, đập thình thịch
vô tường. Charlie vội nhổm người lên và chạy ra chụp bức tranh đúng lúc nó rớt
xuống.
"BỎ NÓ ĐÓ!" Cái giọng dơi kinh khủng vang rền.
Nhưng Charlie không đời nào để cho Vua Đỏ rớt. Nó vừa chụp được bộ khung
vàng nặng chịch thì con dơi đâm bổ về phía nó.
Chính giáo sư Bloor là người đã vô tình cứu Charlie. Cánh cửa đột ngột bật
mở toang ngay trước mặt Charlie, và con dơi tông sầm vô đó. Một tiếng rú kinh
khiếp rú lên, bà dơi rớt độp xuống chân ông hiệu trưởng.
"Ôi trời... cái gì... ai?" Giáo sư Bloor cà lăm.
"Đồ ngu!"
Con dơi rít lên.
"Ô! Nó là...?
Tôi thiệt tình hy vọng đã không..."
"Tôi không ngủm
đâu, đừng lo," con dơi the thé. "Ông yêu cầu tôi giúp đỡ, nhưng ông
đã không làm gì nhiều để giúp mình, đúng không? Ông cứ thế để mọi việc mất
hết."
Trước sự khó chịu
khôn cùng của giáo sư Bloor, con dơi bò lên chiếc áo chùng của ông ta, cho tới
khi lên tới tận vai, và rồi mụ ta quăng mình bắn qua cửa, hét lên:
"Có người sẽ
mang tới một sự ngạc nhiên khủng khiếp."
Khi con dơi vừa đi
khỏi, ông hiệu trưởng lắc lắc vai, vuốt lại chiếc áo chùng và nói với bọn trẻ,
giờ đang lồm cồm chui từ dưới gầm bàn lên.
"Tiếng động
phát ra từ trong phòng này ồn không thể chịu nổi. Manfred, con không thể kiểm
soát mọi việc hay sao?"
"Được chứ, thưa
ngài," Manfred nói, bỗng đỏ tím tái lên, "Đây là trường hợp ngoại lệ,
thưa ngài."
"Trời đất quỷ
thần, con ướt nhẹp hết kìa!" Giáo sư Bloor nhận ra.
"Thằng
Torsson," Manfred nói.
"Torsson, đi
lấy nùi giẻ. Bọn còn lại lau dọn phòng. Và phải IM LẶNG!"
Khi ông hiệu trưởng
đi ra thì đã 8 giờ. Và những đứa lớn không hề có ý định sẽ lau chùi đống lộn xộn
ấy. Billy cáo lỗi là nó bắt đầu ngủ gật rồi, và Dorcas than van là bị nhức đầu.
Lực lượng lao động teo lại chỉ còn năm đứa.
"Luôn luôn là tụi mình nhỉ?" Emma vừa nói vừa xắn tay áo lên.
"Mình tự hỏi ai sẽ tới để gây ngạc nhiên khủng khiếp vậy,"
Charlie lẩm bẩm.
"Anh chắc chắn là không lâu nữa tụi mình sẽ biết thôi," Lysander
nói.
*
* *
Vào lúc tám giờ rưỡi, cô Ingledew quyết định là đã tới giờ đưa Ollie tới
quán Cà Phê Thú Kiểng. Đường phố lúc đó sẽ vắng và sẽ ít có nguy cơ thằng bé bị
dẫm phải hay bị húc ngã. Cô đã được báo chắc chắn là tất cả mọi việc ở quán cà
phê ấy đã sẵn sàng.
"Sẵn sàng như không còn gì để làm, cô thân mến," giọng nhẹ nhàng
của ông Onimous trên điện thoại.
Khi cô Ingledew đóng cửa tiệm sách, cô không nhận thấy một con dơi bự cồ
đang treo mình bên trên cửa nhà thờ lớn.
"Cô nghĩ tốt nhất là con nắm lấy tay cô," cô Ingledew ân cần bảo
Ollie. "Cô không muốn lạc mất con. Con có phiền không?"
"Không, phiền gì đâu cô," Ollie nói. "Cô làm con nhớ tới mẹ
con. Đã lâu lắm rồi con không được nắm lấy tay mẹ con."
Cô Ingledew hơi hốt hoảng khi thấy những ngón tay mình biến mất khi được
bàn tay nhỏ bé của Ollie nắm lấy. Nhưng cô tự nhủ rằng cô phải biết đón nhận
những việc đại loại thế này chứ, bởi vì cô đã là một phần trong thế giới kỳ lạ
của Emma.
Họ vội vã ngược lên đường chính, và rồi xuôi về phía hẻm con Ếch, và mặc dù
không trông thấy con dơi bự cồ đang quạt cánh trong những khoảng tối đằng sau
lưng, nhưng cả Ollie lẫn cô Ingledew đều cảm thấy hơi tê tê ở sau gáy, như kiểu
người ta vẫn hay thấy mỗi khi cảm giác có cái gì đó không minh bạch đang ở ngay
đằng sau mình.
Có tới mấy lần cô Ingledew ngoái lại nhìn, nhưng đó là một con dơi ranh ma,
và nó liên tục nguỵ trang thành một túi rác dựng bên một cột đèn, thành một tấm
bảng hiệu, hay một bậu cửa sổ im lìm. Nên nhớ là, đã có vài người trông thấy rõ
ràng một con dơi to bất thường vụt ngang qua cửa sổ nhà họ. Một người đàn ông
gọi điện tới sở thú; và một người khác gọi cho Đội Cứu Hộ Thú Kiểng. Nhưng kích
thước con dơi mà họ mô tả lại quá lớn nên không ai tin cả. Không có sinh vật
nào như vậy tồn tại cả, người ta bảo với họ như vậy; và chắc chắn đó là một
khinh khí cầu, một con diều, hay thật táo tợn khi dám nói ra, rằng đó là do thị
lực quý vị kém.
Khi cô Ingledew và người đồng hành vô hình tới nơi, quán Cà Phê Thú Kiểng,
cô nhấn chuông. Cửa sổ tối om, và mất một phút, tim Ollie như rớt tuột xuống.
Rồi cánh cửa cái mở ra, Ollie trông thấy một người đàn ông cực kỳ nhỏ bé, và
người đàn ông này đang nhìn thẳng vô mắt nó. Thật là dễ chịu. Bao nhiêu lâu nay
Ollie chưa được ai nhìn vô mắt cả. Sự việc đó mở đường cho Ollie cảm thấy mình
đã là người trọn vẹn trở lại.
"Đây là Ollie," cô Ingledew nói, giơ những ngón tay bị biến mất
của mình lên.
"Đúng
rồi," ông Onimous nói. "Rất vui được gặp cậu, Ollie. Vô đi, cả hai
người!"
Ông Onimous dẫn
đường băng ngang quán cà phê tối mù, tới một nhà bếp ấm cúng ở phía sau, tại
đây Ollie ngạc nhiên trông thấy ba con mèo rực rỡ đang ngồi trên một tủ đông,
một con chó vàng đang ngủ gà gật trong một cái ổ, và một người phụ nữ cao nghều
đang làm bánh bột nhào, trong khi một con chuột đen từ trên vai bà ngó xuống
coi.
"A ha!"
Người phụ nữ cao nhòng kia nói, bà có cái mũi cực dài. "Kẻ biến mất! Chào
mừng cậu, Ollie Sparks. Tên bác là Onoria, cậu nhỏ à, là bác Onimous gái."
Mắt bà hơi dao động một tí khi kiếm điểm để tập trung nhìn. Rõ ràng bà
không xuất sắc bằng chồng trong việc đoán xem người vô hình đang đứng ở đâu.
Nhưng sau đó thì bà đã làm được tốt.
Ollie không thể không tự hỏi làm sao mà một người đàn ông nhỏ như thế lại
chọn một người phụ nữ cao như vậy làm vợ. Trong những dịp thông thường, ắt hẳn
Ollie đã hỏi rồi, nhưng đây không phải là dịp thông thường. Thay vào đó, nó
nói:
"Nó ở đây à... con trăn ấy?"
"Phải, cậu nhỏ," bà Onimous chỉ một cái giỏ to ở gần sát chân bà.
"Bác luôn phải hát cho nó nghe. Con vật tội nghiệp đó đã sống một cuộc đời
chẳng dễ dàng gì."
"Tôi tự hỏi," cô Ingledew rụt rè nói, "Có thể uống một tách
trà trước khi chúng ta... à... trước khi việc này xảy ra được không?"
"Tôi nghĩ sao mà lại thế này?" Ông Onimous thốt lên. "Phép
lịch sự, Orvil, phép lịch sự. Xin mời ngồi, cô thân mến."
Ông đưa ra một chiếc ghế, và cô Ingledew ngồi xuống với vẻ biết ơn.
Ollie nói nó nên đứng để "chữa trị" thì tốt hơn. Nó nghĩ con rắn
sẽ thấy cách đó dễ dàng hơn.
"Con có thể gặp nó bây giờ được không?" Nó hỏi.
Bà Onimous nhấc nắp của chiếc giỏ ra, và Ollie chong mắt ngắm con trăn dễ
sợ mà trước kia đã quấn nó thành vô hình. Con trăn này không hoàn toàn giống
như Ollie nhớ. Bộ da màu ngọc bích sáng tươi của nó đã nhạt đi, và bây giờ nó
có màu xanh da trời óng ánh bạc, dịu mắt. Và hình như nó cũng hơi co lại, có
cái gì đó trong dáng điệu của nó tỏ ra thân thiện hơn và nhẹ nhàng hơn.
Cái đầu óng ánh bạn của con trăn đột ngột ngóc lên, và nó kêu chiếp chiếp
như chim. Ollie bật lùi lại.
"Con vật dễ thương quá hả?" Bà Onimous thở dài. "Các quý vị
dùng trà với sữa và đường nhé?"
"Vui lòng cho sữa thôi," cô Ingledew nói.
Còn Ollie thì bảo:
"Không ạ, cảm ơn. Hồi nữa con mới khát kìa."
Trong khi cô Ingledew và gia đình Onimous nhâm nhi trà, Ollie bước đi loanh
quanh cái giỏ mây. Con rắn dõi theo thằng bé bằng đôi mắt đen, tí rị của nó. Rõ
ràng là nó có thể trông thấy thằng bé. Khi Ollie đứng im, con trăn uyển chuyển
trườn ra khỏi cái giỏ mây bà bắt đầu quấn quanh hai mắt cá vô hình của thằng
bé. Ollie nín thở.
"Ông có nghĩ là nó biết phải làm gì không?" Bà Onimous thì thầm.
"Thì cứ hy vọng đi," ông chồng nói. "Cậu đã sẵn sàng rồi
chứ, Ollie?"
"Dạ rồi. Rất sẵn sàng," Ollie đáp. "Con đã nghĩ tới chuyện
gặp lại anh của con. Con cũng nghĩ tới chuyện con sẽ về lại Lâu đài Lấp Lánh.
Lâu đài đó luôn sáng lấp lánh vì anh và ba của con có thể thắp lửa từ đá, hai
bác có biết chuyện đó không?"
"Còn con có thể làm được gì?" Bà Onimous hỏi.
Bà Onimous nghĩ tới Ollie như một bệnh nhân, cần phải được chia trí cho
quên đi cái công việc đau đớn đang được thực hiện trên thân thể.
"Con chỉ biết chơi sáo thôi," Ollie nói, vào lúc này nó chẳng cảm
thấy đau đớn gì hết.
"Bác rất mong được nghe con chơi," bà Onimous nói.
Con trăn đang quấn mình thành từng vòng, từng vòng trong không khí. Tuy
nhiên, không thấy một cái gì bên trong vòng cuốn của nó.
"Giờ con sẽ nhắm mắt lại," Ollie nói, "để nếu rủi mà không
được gì thì con không bị thất vọng, hai bác với cô biết đó."
"Đương nhiên," những người lớn nói.
Cô Ingledew đặt tách trà của mình xuống. Cô không thể quan sát. Thật quá
sức. Cuộc thí nghiệm sẽ không thành. Ollie tội nghiệp sẽ vô hình vĩnh viễn.
Nhưng cô đã quyết định mình có thể làm được gì. Cô sẽ đưa Ollie đến tiệm sách
và gọi điện cho cha mẹ nó. Dẫu sao một cậu bé vô hình vẫn tốt hơn là không có
cậu bé nào cả. Và rồi cô trông thấy bàn chân. Trước tiên là bàn chân có con
nhện ở ngón cái. Sau đó là chân kia. Chân đất, coi bộ lạnh, hết sức cần có vớ
và giày.
"Hai cẳng chân kìa," ông Onimous nói khẽ.
Đáng ra ông phải la lên kìa, bởi vì con Hạt Đậu, bị xúc động trước những
việc tưởng không thể xảy ra được lại đang diễn ra, cứ nhảy chồm lên và bắt đầu
sủa.
"Hấp, anh chàng ngoan coi nào," bà Onimous nói.
Hạt Đậu rừ rừ và nằm xuống, cứ trợn mắt thao láo dòm cái quá trình mà Ollie
mỗi lúc mỗi hiện ra rõ. Những con mèo lửa tỏ thái độ như thể trước kia chúng đã
từng chứng kiến mấy vụ này rồi. Chúng vẫn im lặng, nhưng cảnh giác.
"Ôi, tội nghiệp thằng bé, trông cái quần nó kìa," bà Onimous nói,
chú ý tới mảnh vải rách te tua gần như không che được hai đầu gối của Ollie.
Con rắn đang leo lên cao hơn, và bây giờ họ có thể thấy một cái áo len chui
đầu màu xám sờn tưa, nhỏ hơn cỡ người của chủ nhân ít nhất là hai cỡ, những cổ
tay gầy guộc lồi ra thật xa cái ống tay áo mòn xơ xác.
"Trời ơi!" Ông Onimous thốt lên khi cái cổ con trăn cuộn quanh
một cái đầu tóc nâu rối tung. Một khuôn mặt hiện ra giữa những món tóc nâu,
dài; nó có hai con mắt to, màu xanh da trời, thâm quầng, một cái miệng nhỏ
nhắn, và một cái mũi phờ phạc, trông rất tọc mạch.
"Ôi!" Cô
Ingledew thở hắt ra. "Ollie!"
Con trăn bao quanh
đầu Ollie cho tới khi trông nó giống như một cái khăn xếp[2] sáng loáng, và
lông mày Ollie nhướng lên đầy ngạc nhiên, phấn khích.
[2]
khăn xếp: loại khăn đội đầu của người Hồi giáo.
"Con trở lại
rồi hả?" Nó hỏi. "Con cảm thấy như mình đã trở lại rồi."
"Chính
thế," ông Onimous nói. "Cậu rất khoẻ mạnh và hiện hình thật rồi,
Ollie Sparks. Chúc mừng!"
Có lẽ nên vỗ tay
mừng, và thế là, tất cả mọi người đều vỗ tay, kể cả Ollie, tuy rất nhẹ, do nó
sợ con trăn.
Con trăn có vẻ kiệt
sức sau những cố gắng của mình. Quả đúng là kiệt sức, nó nhắm mắt lại và rút vô
một vị trí thoải mái ở trên đầu Ollie.
Bà Onimous nhấc con
vật ra khỏi Ollie và đặt nó trở vô trong chiếc giỏ.
"Chúng ta phải
ăn mừng thôi," bà nói. "Orvil, pha thêm một bình trà nữa đi. Để tôi
đi kiếm một ít bánh."
Sau một giờ thật
đáng hài lòng, với rất nhiều quyết định được đưa ra, cô Ingledew rời quán Cà
Phê Thú Kiểng và bươn bả trở về tiệm sách của mình. Cô biết Ollie đang ở trong
những vòng tay chăm sóc tốt - nó đang tắm cữ đầu tiên của mình sau hơn một năm.
Bà Onimous đã lo trước hết mọi việc. Thằng bé tội nghiệp sẽ có những bộ quần áo
mới. Nó sẽ được cắt tóc, và nó sẽ được tẩm bổ, được nghỉ ngơi trước cuộc hành
trình dài trở về lại Lâu đài Lấp Lánh, nhà của nó.
Cô Ingledew rất mãn
nguyện về kết cục của mọi việc. Cô bắt đầu ngâm nga một bài hát ưa thích nhất
của mình. Khi tới ngã tư, suýt nữa thì cô quẹo vô đường Filbert. Chắc chắn cô
muốn chia sẻ niềm vui này với Paton Yewbeam, nhưng việc này không thể được, lời
buộc tội của nội Bone vẫn còn làm cô lấn cấn.
"Mình không
phải là kẻ theo đuổi," cô Ingledew khẽ lẩm bẩm. "Và mình sẽ không để
bị coi là kẻ theo đuổi."
Cô tiếp tục bước đi,
giờ có hơi chậm bước một chút, và hơi nguôi giận, hoàn toàn không nhận thấy con
dơi lớn vẫn đang bám theo cô. Ẩn mình vô bóng tối, nó cứ bay đằng sau cô, tới
phố nhà thờ, và rồi nó bám vô một ống thoát nước, quan sát cô Igledew bước vô
tiệm sách và khoá cửa lại.
Con dơi bay tiếp,
xuôi xuống Vòng Cung Ụ Xám, và vô hẻm Ngách Tối. Nó lượn loanh quanh và vỗ cánh
phầm phập phía mặt ngoài mái nhà, rồi chui tọt vô một cửa sổ để mở ở tầng trên
căn số 13 thứ ba.
Một loáng sau, mụ
Yolanda Yewbeam, không còn là con dơi nữa, bước vô phân xưởng may dưới tầng hầm
của bà Venetia, chắt gái của mụ.
"Tuyệt",
mụ lẩm bẩm khi chiêm ngưỡng những bộ quần áo nằm rải rác trên chiếc bàn dài của
bà Venetia. Có những chiếc áo chùng xanh da trời và xanh lá cây, những áo đầm
lụa, áo khoác và quần chẽn nhung, những đôi vớ da đủ màu, áo lót, áo sơ-mi,
diềm đăng ten, khăn len đội đầu, cùng tất cả những dây nịt và giày thật đỏm
dáng.
Bà cô Venetia đang
bận đính những khoen xê-quin quanh vạt một chiếc váy đen, dài. Phía bên kia, ở
mép bàn, là một đống những hộp thiếc, hũ với hộp. Thỉnh thoảng bà ta lại nhúng
những ngón tay vô một trong những đồ chứa đó, bốc ra ít hạt bột màu, một chút
thảo mộc, hay vài chấm chất lỏng. Bà ta sẽ bôi những thứ đó vô mặt trái của
những khoen xê-quin trước khi đơm chúng vô.
"Làm xong áo
chùng chưa?" Mụ Yolanda hỏi.
"Chưa ạ"
Bà Venetia ngước lên, hơi giật mình.
"Tao đoán nếu
tao là con bé xinh đẹp đó thì mày thích hơn," mụ Yolanda nói, tuổi tác và
tâm địa độc ác của mụ đã phơi bày rõ rệt trong đêm nay.
"Không phải,
thưa cụ. Cụ làm con ngạc nhiên, thế thôi."
"Tao mệt
quá," mụ Yolanda nói. "Tao bám theo cái con mẹ chõ mũi đó suốt mấy
tiếng đồng hồ. Nó đang giữ thằng bé, tao chắc chắn điều đó. Nó đã nấu mất con
ngỗng của bọn ta. Grizelda nói đúng, con đó phải đi đời. Và cả đứa cháu gái
khốn kiếp biết bay của nó nữa."
"Cụ gắn dây nịt
chưa?"
"Đứa bạn nhỏ
Dorcas của chúng ta đang lo liệu việc đó."
"Tốt. Cụ ngồi
xuống đi. Bỏ mệt nhọc qua một bên nào," bà Venetia kéo ra một chiếc ghế.
"Tao muốn làm
cái áo chùng," mụ Yolanda gằn giọng.
Mụ ngồi xuống đằng
sau chiếc máy may và kéo chiếc áo chùng xanh lá cây về phía mình.
"Cái thằng du
côn, cái con thú ranh đó nó tưởng nó quáááá... tài giỏi. Hừ, rồi nó sẽ suy nghĩ
khác cho coi."
"Ai vậy, thưa
cụ?"
"Cái thằng
Torsson. Dám gọi ta là mụ phù thuỷ xấu xí. PHÙ THUỶ!" Mụ Yolanda thét lên.

