Yêu nữ - Chương 56 - 57 - 58 - 59

CHƯƠNG NĂM MƯƠI SÁU

Scathach đi quanh quẩn nơi vùng ngoại ô của Danu Talis quấn
mình trong tấm áo chùng trắng, mái tóc đỏ chóe giấu dưới chiếc nón rơm hình
chóp.

Đường phố gần như vắng tanh. Vài ông bà lão ngồi trong
ngưỡng cửa tối tăm chăm chú nhìn cô vội vã ngang qua. Mấy đứa trẻ bé tí ăn mặc
rách rưới chơi trên đường không có vỉa hè, ngước nhìn cô bằng những cặp mắt mở
lớn rất tò mò.

Scathach dừng lại cạnh một đài phun nước đổ nát, hứng nhúm
nước mằn mặn chảy nhỏ giọt vào tay. Cô thận trọng húp một ít, nghe hơi có vị
muối và đăng đắng vị đất. Nhìn quanh, cô cố gắng xác định vị trí. Ở đây, ngay
nơi vành đai thành phố, các vùng lân cận chỉ nhỉnh hơn khu ổ chuột một chút dần
dần dẫn đến những ngôi nhà lớn, và rồi xa xa trong kia, gần với trung tâm thành
phố hơn, cô có thể nhìn thấy những khối kim tự tháp, ziggurat(*)
dinh thự của giới quý tộc vươn lên trên bầu trời. Xa nữa, trỗi vượt trên mọi
thứ, Kim tự tháp Thái Dương thống trị cả một vùng.

(*) Loại hình kiến
trúc của người Lưỡng Hà cổ đại và Iran theo kiểu tầng bậc, bệ cao nọ đặt trên
bệ cao kia, càng lên cao càng thu dần lại, có đường dốc trượt hoặc bậc thang
thẳng góc hoặc men theo khối xây để lên đỉnh, trên đỉnh có đền thờ nhỏ.

Quay người, lấy tay che mắt ngăn ánh mặt trời đang lặn, cô
nhìn về hướng tây. Ánh sáng chiếu xiên xiên chói lóa. Huitzilopochtli đã cố ý
định giờ tấn công sao cho ánh sáng mặt trời lặn sẽ giúp che giấu đi những chiếc
vimana và xe bay. Nhưng cô đã nhìn thấy chúng, những chấm mờ mờ nổi lên trên
bầu trời. Chúng đến sớm mất rồi.

Có tiếng động cạo quẹt khiến cô xoay ngoắt người lại, hai
bàn tay hạ xuống chỗ vũ khí giấu dưới áo chùng trắng. Một bé gái có đôi mắt nâu
thật to, dường như quá lớn so với cái đầu của bé, đang đứng cạnh đài phun nước.
Cô gái nhỏ tay nắm chặt một em bé nhỏ hơn. Hai đứa đi chân trần, mặc quần áo
rách rưới có lẽ trước đây từng là màu trắng. Hai đứa bé nhìn Bóng Tối chằm
chặp. “Cô đi lạc hả?” bé gái nói.

Scathach nhìn xuống hai đứa trẻ. Thật khó nói được tuổi của
chúng bốn hay năm gì đó, còn em bé nhỏ hơn có lẽ mới lên hai. Cúi mình xuống,
cô nhìn đứa bé gái, đôi mắt màu xanh lá lóng lánh. “Con biết không, cô nghĩ là
thế đó. Có lẽ con có thể giúp cô được.”

“Mọi người đi tới nhà tù hết rồi,” em bé gái nói.

“Aten,” thằng bé trai nói thêm, miệng mút ngón tay cái chùn
chụt.

Bé gái gật đầu trang nghiêm. “Mọi người đi cứu Aten. Ông ấy
bị ở tù.”

“Mấy người xấu,” thằng bé trai nói.

“Mấy người xấu bỏ ông ấy vào đó,” bé gái nói.

“Các con có biết cái nhà lớn nào là nhà tù không?” Scathach
nhẹ nhàng hỏi.

Bé gái gật đầu. Nhón chân cao, con bé chỉ tít lên trời. “Không
thấy được,” nó nói.

“Có lẽ sẽ thấy được nếu cô ẵm con lên...” Scathach đề nghị.

“Cả em con nữa nhé,” đứa bé gái nói liền.

“Tất nhiên rồi.” Lòn tay dưới người cả hai đứa bé, Bóng Tối
ẵm chúng lên. Ngay lập tức em bé gái quàng tay qua vai Scathach, áp mặt mình
sát vào má cô. Con bé chỉ về phía khối kim tự tháp mái bằng nghiêng nghiêng
dốc. “Kia kìa. Kia là cái nhà xấu đó.”

“Nhà xấu,” thằng em nhỏ của bé nói.

“Má nói nếu cô xấu, cô sẽ bị đem tới cái nhà xấu đó. Phải
không cô?”

“Đôi khi thôi,” Scathach nói. Cô cúi mình đặt cả hai đứa bé
xuống đất trở lại, rồi quỳ trước mặt chúng. Cô lùa ngón tay vào tóc con bé gái.
Cô ước ao mình có gì cho chúng, nhưng tất cả những gì cô có, tất cả những gì cô
từng có là quần áo đeo trên lưng và vũ khí đeo bên hông. “Các con có muốn nói
cho cô biết tên mình không?” cô hỏi.

“Con là Brigid còn đây là em trai con Cermait. Má kêu nó
bằng Milbel,” con bé nói thêm và cười khúc khích.

“Nghĩa là Cái Miệng Dẻo Quẹo,” Scathach nói khẽ. Cô nhận ra
những cái tên từ thời của cô trong đất nước Ireland
và Scotland
cổ, cô biết mấy đứa trẻ này là ai và cũng biết chúng sẽ sống sót trong biến cố
Nhận chìm của Danu Talis.

“Cô sắp đi tới nhà xấu hả cô?” Brigid hỏi.

“Đúng vậy.” Scathach gật đầu. “Cô phải gặp một người.”

“Người xấu hả cô?”

“Chưa biết nữa. Cô phải tìm hiểu xem.”

Cermait túm lấy áo chùng của Scathach và nói liên hồi một
câu gì đó không hiểu được. “Nó muốn biết cô có phải là người xấu không,” con bé
chị thông dịch.

“Thỉnh thoảng,” cô nói nhỏ nhẹ. “Nhưng chỉ với người xấu
thôi.”

“Cô là ai vậy cô?” Brigid hỏi.

“Cô là Scathach Bóng Tối.”

 

CHƯƠNG NĂM MƯƠI BẢY

“Không!” Billy thét, âm thanh the thé và ảo não.

Hai ngọn giáo hình chiếc lá chợt rực sáng như sống dậy trong
khi xoáy tít vào không trung, cắt xuyên màn sương mù, để lại sát đằng sau làn
hơi ẩm xoắn hình trôn ốc.

Tay người Mỹ nhìn thấy đôi mắt Perenelle mở lớn bàng hoàng,
và trong tích tắc cả hai đều biết bà không thể nào tránh khỏi lưỡi giáo ấy.

Thời gian trôi thật chậm.

Cây roi của Hel vọt ra, nhưng bà đứng quá xa nên đánh hụt.

Machiavelli hét lên, phóng vút một luồng điện màu trắng xám
dợn sóng đuổi theo ngọn giáo, nhưng luồng điện cụt lủn.

Nicholas Flamel gào rú, ánh sáng màu xanh lá lóe ra khỏi hai
bàn tay ông, chỉ làm hai ngọn giáo cháy sém khi vút qua.

Juan Manuel de Ayala với tay chụp được, nhưng chúng xuyên
thủng qua người ông, làm những giọt nước vỡ tung.

“Không...” Billy the Kid loạng choạng, và nếu không có Diều
Hâu Đen chụp lại thì gã đã té nhào. “Tôi đã làm gì thế này?” gã hổn hển.

Thời gian dừng hẳn.

Một hình dáng phóng thẳng ra chắn ngay phía trước Nữ Phù
Thủy, hai cánh tay choàng qua người, ôm chặt, bảo vệ bà.

Hai ngọn giáo xuyên phập qua tấm áo choàng lông vũ màu đen,
ánh sáng lạnh nổ loa lóa. Lực đẩy hất Nữ Thần Quạ ngã vào cánh tay Perenelle,
làm bà mất thăng bằng chúi nhủi vào người Nicholas. Nhà Giả Kim túm được cả hai
phụ nữ, đỡ họ đứng vững lại.

Nữ Phù Thủy nhìn vào đôi mắt một đỏ một vàng của Nữ Thần Quạ.
“Tại sao?” bà thì thào. Bà quàng tay ôm chầm lấy sinh vật ấy, siết thật chặt,
cảm thấy người mình bắt đầu run lên. “Tại sao kia chứ?”

Nữ Thần Quạ tựa cằm lên vai Perenelle. “Bà đã giải phóng
chúng tôi,” bà ta nói thầm, hai hàm răng va vào nhau lập cập. “Bà đã giải thoát
chúng tôi khỏi nỗi đau đớn triền miên. Qua tất cả những năm tháng trong cuộc
đời dài dằng dặc của mình, đó là lần đầu tiên con người đối xử tử tế với chúng
tôi. Một món quà đáng được đền đáp.”

“Bà đã cứu tôi,” Perenelle nói, giọng bà nghèn nghẹn vì cảm
động. “Bà không buộc phải làm vậy đâu.”

“Buộc chứ, chúng tôi nên làm thế. Đó là việc đúng đắn chúng
tôi phải làm.”

“Hai bà luôn làm việc đúng đắn mà,” Perenelle bắt đầu nhận
ra.

“Chúng tôi thì có nhưng Morrigan lại không được như vậy.”
Giọng Elder càng nói càng yếu. “Bây giờ, bà còn việc phải làm. Đừng để hi sinh
của chúng tôi hóa ra vô ích.”

Nữ Phù Thủy vuốt mái tóc ngắn của sinh vật ấy. “Nếu ở đây,
đêm nay mà chúng tôi thành công, thì đó là nhờ bà đấy.”

Nữ Thần Quạ run rẩy dữ dội đến nỗi Perenelle gần như không
thể giữ được nữa. Giọng Elder chuyển đổi, khi thì của Macha khi thì của Badb. “Xin
đừng nghĩ cô em gái của chúng tôi quá xấu xa. Cô ấy bị dẫn vào đường lầm lạc
thôi.” Đột nhiên bà ta nhấc cằm ra, ngước nhìn vào mắt Perenelle và Nữ Phù Thủy
thấy một con mắt đỏ một con mắt vàng lúc nãy đã biến thành đen tuyền. Morrigan
đã được đánh thức. Miệng mụ ta há hoác, hàm răng tàn ác nhích dần tới cổ họng
Perenelle.

Bản năng bên trong Nữ Phù Thủy bảo bà phải buông ra, nhưng
bà vẫn tiếp tục ôm lấy sinh vật đang run bần bật.

Sau đó miệng Morrigan ngậm lại, đôi mắt đen dịu xuống. “Tôi
căm ghét bà vì những gì bà đã gây ra cho tôi,” mụ thều thào, “nhưng giờ thì
không còn nữa. Cám ơn, Nữ Phù Thủy, vì đã giúp tôi kết hợp trở lại với hai chị
tôi.” Hai con mắt bắt đầu lấp lóa, đen rồi đỏ rồi vàng, nhưng tất cả màu sắc
đều nhàn nhạt.

“Tôi sẽ nhớ đến bà,” Perenelle hứa. “Cả ba người: Macha,
Morrigan và Badb.”

Cuối cùng Nữ Thần Quạ đổ sụp thành bụi đất đen nhánh trong
cánh tay Perenelle. Âm thanh duy nhất trong đêm chính là tiếng lanh canh của
hai đầu giáo rơi trên nền đá. Perenelle Flamel nắm tay Billy the Kid, kéo anh
ta đứng dậy. Anh chàng bất tử trẻ tuổi run rẩy, mặt mày ướt đầm đìa. Bà áp lòng
bàn tay lên hai má anh ta xoa xoa, để lại trên gương mặt trắng bệch kia những
đường vằn vện là những gì còn lại của Nữ Thần Quạ, rồi một tay đỡ cằm anh ta,
tay kia lấy viền áo sơ mi lau hai bên má. “Billy, đừng tự trách mình nữa. Anh
chẳng làm gì sai cả.”

“Suýt chút nữa tôi đã giết chết bà rồi.”

“Nhưng anh có giết đâu.”

“Nhưng tôi đã giết chết Morrigan.”

“Đó không chỉ là Morrigan. Đó còn là Macha và Badb, hai
người chị của bà ấy. Họ đã tự nguyện hi sinh bản thân. Và cuối cùng, Morrigan
đã thức tỉnh: tôi không nghĩ bà ta phiền lòng đâu. Họ đã chết cùng nhau, kết
hợp nên một.”

“Tôi chỉ phản xạ,” anh ta thì thào.

Mấy ngón tay Perenelle siết chặt cằm anh ta, buộc anh ta
phải nhìn lên. “Tiếc thương cho Nữ Thần Quạ xin để sau. Bây giờ chúng ta nên
tưởng niệm bà ấy bằng cách tiêu diệt lũ quỷ sứ trên hòn đảo này.” Bà ấn hai đầu
giáo trở lại vào tay anh ta. “Anh sẽ cần đến thứ này. Nào đi thôi, hãy đánh
thức Areop Enap.”

Bàn tay Billy vọt ra nắm lấy cánh tay Nữ Phù Thủy. Từng búi
luồng điện đỏ đỏ cuộn quanh đầu ngón tay. “Tôi thề sẽ bảo vệ bà tất cả mọi ngày
trong đời bà,” anh ta nói rất chân thành.

“Cám ơn, Billy,” bà nói. “Nhưng đời tôi lúc này tính bằng
giờ chứ có tính bằng ngày đâu.”

“Tôi vẫn sẽ chăm sóc bà,” anh ta nói ngay.

Perenelle Flamel nhoẻn cười. “Tôi biết anh sẽ làm thế mà.”

 

CHƯƠNG NĂM MƯƠI TÁM

“Nó không nên cháy như vậy chứ, đúng không?” William
Shakespeare vừa hỏi, vừa ngoảnh đi khỏi làn khói vặn vẹo rỉ ra từ bảng điều khiển.

“Ừ, không nên,” Prometheus cằn nhằn. “Vậy tại sao ông không
làm gì có ích mà dập tắt nó đi?”

“Bằng cách nào?” Shakespeare hỏi gằn. Ông đưa tay vỗ vỗ vào
người mình. “Bộ trông tôi giống như đang đeo bình chữa lửa lắm sao?”

Palamedes chen giữa Elder và người bất tử, gỡ tấm bảng đang
bốc khói kia ra, một lưỡi lửa phụt lên, liếm cháy sém chân mày anh. “Rất mừng
vì tôi không có tóc.” Anh nói nhẹ nhàng. Ngọn lửa lụi xuống, anh săm soi nhìn
hết cỡ vào tận bên trong. “Một mớ lộn xộn,” anh thông báo. Không khí đầy mùi
cây đinh hương, và một đám mây mù màu xanh ô liu rỉ ra từ bàn tay anh, chảy
tràn qua ngọn lửa, dập lửa tắt ngấm.

Tiếng động cơ o o của chiếc vimana kêu chậm lại như rên rỉ.

Shakespeare hoảng hốt ngước lên nhìn, thậm chí cả
Saint-Germain cũng phải ngẩng đầu rời mắt khỏi trang sách.

“Chúng ta ổn mà,” Prometheus nói trong lúc động cơ lấy lại
được tiếng o o cao thé của nó. “Vài chiếc vimana có thể tự chữa lành.”

Joan săm soi nhìn ra ô cửa sổ trống trơn. Lúc này thành phố
đã gần hơn, một đám nhà ổ chuột màu nâu nâu và đường sá chật hẹp tương phản với
những con đường rộng rãi cùng những mái hiên màu vàng kim, dòng kênh lòng vòng
sủi bọt sánh với đông đúc những tòa nhà cao tầng đủ kiểu rất đẹp mắt. Ngay đằng
trước, vươn lên như một ngọn núi toàn bằng vàng ngay giữa lòng thành phố rộng
mênh mông là Kim tự tháp Thái Dương. “Chúng ta sẽ đáp xuống đâu?” cô hỏi.

“Tôi sẽ đưa chúng ta xuống quảng trường, càng sát kim tự
tháp càng tốt,” Prometheus đáp. “Chúng ta cần phải chiếm lấy những vị trí trên
kim tự tháp để bảo vệ các bậc thang.”

Palamedes đến đứng cùng với Joan bên ô cửa sổ. “Nhiều hoạt
động dưới đó quá nhỉ,” anh lẩm bẩm. “Nhiều bộ giáp và vũ khí. Chúng ta sẽ đáp
xuống ngay trong vùng chiến sự.”

Joan gật đầu. “Prometheus, nếu mình đáp xuống trên đỉnh kim
tự tháp thì sao?” cô đề nghị. “Nó phẳng mà.”

Hàm răng Palamedes lóe lên khi anh cười toe. “Cũng rất kín
đáo đấy. Tôi thích ý tưởng đó.”

“Ông có thể làm thế được không?” Joan hỏi.

“Tôi sẽ cố xem.”

“Hệ thống phòng ngự thì sao?” Will hỏi.

“Sẽ có vài chiếc vimana. Bất kể thứ gì còn sống sót sau đợt
tấn công Tor Ri,” Palamedes nói, “và một số Elder giàu có hơn hoặc già cả hơn
sẽ có những chiếc vimana riêng, nhưng chúng lại không được trang bị vũ khí. Hầu
hết các xe bay của Huitzilopochtli định sẽ đáp xuống quảng trường phía trước
kim tự tháp. Nếu họ có thể đánh bại được bọn lính gác anpu thì sẽ mở được mấy
cây cầu, cho phép những người còn lại ào qua kênh. Một số vimana và xe bay của
chúng ta sẽ đáp xuống bờ kênh đối diện để hỗ trợ dân chúng và giao chiến với
bất cứ tên anpu nào có mặt ở đó.”

“Còn Aten thì sao?” Palamedes hỏi. “Tại sao chúng ta không
tấn công nhà tù và giải thoát ông ấy?”

Prometheus lắc đầu. “Marethyu đã nói rất rõ về chuyện đó.
Ông ta nói nhà tù chỉ có thể do dân chúng Danu Talis tấn công mà thôi. Đó phải
là thành công hay thất bại của chính họ.”

“Tôi biết điều đó có ý nghĩa thế nào,” Joan nói. “Nếu dân
chúng chiếm được nhà tù, thì chứng tỏ được họ có thể làm những gì. Một chiến
thắng như thế sẽ châm ngòi cho toàn thành phố.”

Một đám tia lửa nhảy múa khắp bảng điều khiển, Shakespeare
lấy ống tay áo lau đi. “Còn bao lâu nữa chúng ta mới hạ cánh?”

“Chẳng mấy chốc nữa đâu,” Palamedes nói. Có tiếng răng rắc
và bất thình lình bảng điều khiển hình chữ nhật kia rớt thẳng xuống sàn, Không
khí rét buốt quất vào buồng lái.

“Không kịp rồi,” Shakespeare nói, lớn vừa đủ cho mọi người
cùng nghe.

 

CHƯƠNG NĂM MƯƠI CHÍN

Josh xoay cổ tay, hai cạnh của thanh Excalibur và Clarent
loa lóa múa trên không.

“Có một cách dễ hơn nè.” Bàn tay Sophie mở ra đóng lại, và
một trái banh lửa bạc cháy bùng trong lòng bàn tay cô bé. “Thật sự ngươi không
biết chúng ta là ai đâu,” cô bé nói với tên mình người đầu gấu kia.

Trái banh bạc kêu xì xì, xèo xèo và co nhỏ lại rồi chợt nổ
bụp như bong bóng.

“Còn hai đứa bây thì không biết mình đang ở đâu,” tên quỷ ám
khổng lồ nói, nỗ lực nhằn ra từng từ một. Gã lấy lưỡi rìu chiến chỉ lên trần
nhà. Lúc này khoảnh trần còn rực sáng hơn trước nữa. “Không có sức mạnh luồng
điện trong kim tự tháp này đâu. Các bức tường nuốt sạch hết rồi.”

“Em sử dụng tốt chứ?” Sophie hỏi Josh, đầu hất về phía hai
thanh kiếm.

“Không tốt lắm,” cậu thú nhận. “Thường thường, thanh Clarent
làm hết mọi việc cho em.” Cậu lắc lắc thanh kiếm nằm trong bàn tay trái, nhưng
lúc này chẳng có gì xảy ra hết.

“Chắc hẳn cái thứ gì đó hút sức mạnh luồng điện của tụi mình
cũng đang hút kiệt năng lượng của mấy thanh kiếm,” cô bé nói. Sophie rút hai
thanh kiếm của mình ra. Cô bé đang mang Durendal - Khí Kiếm và Joyeuse - Địa
Kiếm. Cảm thấy chúng cứ trơ trơ như hai cục đá nặng trịch trong tay.

“Đồ chơi đẹp nhỉ,” tên quỷ ám nói. “Bốn thanh kiếm lận. Ba
người chúng ta. Ta sẽ lấy hai. Hai người anh em của ta sẽ lấy mỗi người một
cái.” Gã chỉ vào Josh bằng con dao thủy tinh đen thui. “Ta sẽ lấy của mi.”

Ngay lập tức tên quỷ ám bự chảng đứng bên trái tên chiến
binh đấm vào vai hắn. “Tôi muốn cái đó.” Hắn chỉ vào thanh Clarent.

Hàng chục chiến thuật lung linh trong đầu Josh, và cậu biết
mình đang truy cập vào vùng kiến thức của Mars Ultor từng đổ tràn vào cậu. Cậu
liều lĩnh liếc nhanh sang cô chị gái. “Tụi mình cần phải dùng kế hoãn binh,”
cậu thì thầm. “Isis và Osiris chắc quay lại nhanh thôi.” Sau đó, cậu lớn tiếng
thông báo, “Clarent là thanh kiếm chỉ phù hợp với lãnh đạo. Vì thế, ai thật sự
là người lãnh đạo trong bọn mi thì mới có được nó.”

“Chính ta,” cả ba tên đều nói một lượt.

Josh bước lui, tự động ba tên quỷ ám đều tiến tới. “Nếu em
dụ được chúng xa xuống phòng, chị nghĩ mình có thể cắt ngang qua chúng tới mở
cửa chính được không?” cậu hỏi nhỏ.

“Không có cơ hội đâu,” Sophie nói.

“Dù sao cũng cứ thử đi.”

“Đưa ta thanh kiếm,” tên quỷ ám to lớn nhất trong bọn nói.

Josh nhìn hai tên kia. “Tôi có nên làm thế không?”

“Đừng,” cả hai tên đều nhằn nhằn.

Cậu nhìn trở lại tay chiến binh cao lớn nhất, nhún vai. “Tiếc
quá. Họ nói đừng kìa.”

Ba tên chiến binh gấu bắt đầu cãi nhau bằng giọng gầm gào dữ
tợn.

“Nếu bọn chúng đánh nhau, tụi mình chuồn đi hay ở lại với
chúng?” Sophie hỏi.

“Chuồn đi chứ,” Josh nói ngay. “Tụi mình sẽ phóng xuống gian
phòng, nửa đường em sẽ quay người giao chiến với chúng. Còn chị ngược trở ra
cửa nhanh hết sức. Nếu chị ra được tới hành lang và kêu la báo động thì tụi
mình sẽ ổn.”

“Chúng ta đã quyết định rồi,” tên quỷ ám cao lớn nhất thông
báo. “Chúng ta sẽ giết cả hai đứa tụi bây, chiếm lấy kiếm. Rồi rút thăm sau.”

“Tôi cược là ông đang hi vọng mình sẽ bắt thăm trúng thanh
kiếm này,” Josh vừa nói, vừa giơ bừa thanh Clarent lên. Cậu nhìn hai tên gấu
kia. “Hai người cần biết rằng nếu tên kia bắt thăm trúng thì hắn đang giở trò
gian lận đấy nhé.”

Tên gấu lớn nhất gầm lên, âm thanh vang dội khắp gian phòng
trống trải. “Cả đời ta chưa gian lận bao giờ. Đó là lời sỉ nhục cho cái tên
danh giá của ta.”

“Bọn quỷ ám mà cũng có tên danh giá nữa sao?” Sophie hỏi.

Quai hàm của sinh vật kia há hoác, cho thấy hàm răng lớn
kinh khủng. “Những cái tên ô nhục thì có.”

“Trước khi giết chết chúng tôi,” Josh nói, “hãy nói ai sai
các người tới đây? Tôi nghĩ chúng tôi có quyền biết ai là người ra án tử cho
mình chứ.”

Ba tên quỷ ám nhìn nhau, rồi gật đầu. “Anubis,” một tên cằn
nhằn. “Elder đầu chó rừng. Xấu xí lắm,” hắn nói thêm. “Thật sự xấu xí.”

“Tuy nhiên cũng không xấu bằng mẹ ông ta,” một tên khác nói.

Lũ quỷ ám gật gù tán thành. “Rất xấu. Có lẽ bà đó đã xúi ông
ta làm việc này,” chiến binh cao lớn nhất nói, hai mắt hắn nheo nheo nhìn cặp
song sinh. “Nào, tán phét đủ rồi!” Vừa nói thế hắn vừa lao mình tới trước, con
dao và cây rìu xoáy tít lòe nhòe phía trước.

Josh hoảng hốt la lớn, bắt chéo hai thanh kiếm trước mặt
mình thành hình chữ X. Tình cờ chứ không định trước, gạt trúng cây rìu đang
giáng xuống, lửa chan chát tóe như mưa. Nhưng tên quỷ ám kia đã chúi người
xuống, tay trái thọc lưỡi dao ngay trước ngực Josh.

Sophie thét lên.

Con dao làm bằng đá vỏ chai nát thành bụi khi tiếp xúc với
bộ giáp sứ.

Josh quất thanh Clarent ra, quẹt một đường không sâu lắm
ngang qua thân trên của tên quỷ ám, và ngay lập tức thanh kiếm đập từng nhịp.
Josh cảm nhận nhịp đập ấy bằng toàn bộ cơ thể mình, nhịp đập của trái tim và
trong tích tắc ấy cậu biết rằng nếu có thể cho nếm chút máu, lưỡi kiếm kia sẽ
biết nó phải làm gì.

Hai tên quỷ ám bao quanh Sophie.

Lấy hơi đầy phổi, cô bé thét lớn.

Âm thanh bắn vào các bức tường, vang dội dọc cả gian phòng,
khiến cả hai tên quỷ ám lảo đảo bật lui, hoảng hồn trước tiếng thét ấy. Cô bé
phóng vào giữa hai sinh vật, thanh kiếm hai bên trái phải phạt xỉa ra. Cô bé
đánh hụt một tên nhưng trúng vào cái mông múp míp của tên kia, hắn kêu rống,
vừa kinh ngạc vừa đau đớn.

Josh tấn công sinh vật đang đứng trước mặt mình, chém phạt
lung tung bằng cả hai thanh kiếm. Mồ hôi chảy xuống lưng cậu, hai vai bắt đầu
đau lói nhói. Hết sức ngạc nhiên, tên quỷ ám lùi lại, thả cho Josh tiến đến
đứng bên cô chị gái.

“Bây giờ thì không quá gay go nữa rồi,” Josh nói hổn hển.

“Hai đứa bây may mắn đó,” con gấu nhằn nhằn.

“Ồ, tôi không biết đấy nhé. Ông thì bị một cú cắt ngọt xớt
ngang ngực, bạn ông thì một tuần nữa chưa chắc đã ngồi được. Chúng tôi thì hoàn
toàn trượt lướt.”

“Trượt lướt hả?” con gấu vừa hỏi, vừa ném ánh mắt bối rối về
phía các bạn đồng hành. “Loại trượt lướt gì vậy?” Hai tên quỷ ám kia lắc đầu.

“Là không trầy sước gì đó,” Josh giải thích.

Ba tên quỷ ám dàn ra. “Chúng ta sẽ giết chết hai đứa bây rất
nhanh thôi,” một tên nói. “Nhưng không phải bây giờ. Bây giờ hai đứa sẽ phải…”
Hắn nín bặt.

Sophie và Josh nhìn nhau. “Phải cái gì?” Sophie giục.

“Chúng tôi sẽ phải làm gì?” Josh hỏi, rồi cậu nhận ra là ba
tên quỷ ám kia không còn nhìn vào hai chị em nữa, mà là nhìn ra phía sau.

Sophie và Josh cùng nhau quay lại.

Một phụ nữ đứng giữa phòng ngay trên vòng tròn tròn mặt trời
mặt trăng lát bằng gạch vàng gạch bạc. Người mảnh dẻ, mặc giáp sứ trắng, bà ấy
cầm trong tay trái cuốn Codex bìa kim loại và trong tay phải là thanh kopesh
bằng vàng. Bà ngẩng lên nhìn hai đứa nhỏ bằng đôi mắt xám đen, và cả hai cùng
trải nghiệm một cảm giác mang máng như nhau. Không biết sao trông bà ấy quen
quen.

Người phụ nữ bước ra khỏi vòng tròn, trao cuốn Codex cho
Josh. “Quà của Pháp sư Abraham,” bà nói. “Con đang giữ những trang sách cần
thiết để hoàn thiện cuốn sách này, ta tin là thế.” Rồi bà rút thanh kopesh thứ
hai ra khỏi vỏ và đứng đối diện với ba tên quỷ ám. Bọn người thú kia đột nhiên
trông thật mất tự tin.

“Ai trong các ngươi muốn chết trước?” bà hỏi. “Ngươi hả?” Bà
chỉ vào tên quỷ ám cao to nhất. “Hay là ngươi? Hoặc ngươi?”

“Vụ tranh chấp của chúng tôi đâu có liên quan gì tới bà. Chúng
tôi được sai tới để giết giống người kia mà.”

“Vậy thì vụ tranh chấp của các ngươi chính là tranh chấp với
ta rồi còn gì,” bà ta đáp. “Bọn trẻ thuộc trách nhiệm của ta đấy. Ta canh giữ
chúng mà.”

“Bà là ai vậy?” Josh và tên quỷ ám kia đồng thanh nói.

“Ta là Bà Canh Giữ. Ta là Tsagaglalal.”

Ngay khi bà còn đang nói, Sophie đã nhận ra bà là ai. “Dì
Agnes,” cô bé thì thào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3