Yêu nữ - Chương 34 - 35

CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN

Xuyên qua màn sương bao phủ, âm thanh leng keng của kim loại
khua ngang qua cầu Cổng Vàng. Niten thu mình vào tư thế ngồi ngay giữa cầu, có
thể cảm nhận được cơn chấn động rung lên qua mặt đất. Anh mỉm cười trước hình
ảnh bất chợt hiện đến, Prometheus đang quăng mấy chiếc xe hơi từ bên này cầu
sang bên kia cầu để làm rào chắn. Nghe tiếng lanh canh nho nhỏ của kính xe, anh
tự hỏi không biết bị một Elder ném qua cầu Cổng Vàng thì chúng có được bảo hiểm
không nhỉ.

Người bất tử Nhật Bản nhỏ nhắn ngồi xếp bằng, hai thanh kiếm
của anh nằm dài trên khoảnh đất trước mặt. Anh xếp hai tay để trên lòng, nhắm
mắt, thở bằng mũi, ép không khí đêm lạnh buốt xuống sâu vào ngực. Anh giữ hơi
đếm đến năm, rồi há miệng hình chữ O thổi hơi ra trở lại, đâm thủng một lỗ
trong màn sương xoắn vặn trước mặt.

Mặc dù chưa bao giờ thừa nhận với mọi người, nhưng Niten
thích thời điểm này lắm. Anh không yêu thích những gì sắp xảy đến, nhưng thời
gian ngắn ngủi này, khi mọi chuẩn bị cho cuộc chiến đã được thực hiện và không
còn gì phải làm nữa ngoài việc chờ đợi, khi toàn bộ thế giới rơi vào im lặng,
như thể nín thở, thì thật đặc biệt. Thời điểm này, khi anh sắp đối mặt với cái
chết, là khi anh cảm thấy được sống hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.

Anh vẫn được gọi là Miyamoto Musashi và hẵng còn là thiếu
niên khi lần đầu khám phá ra vẻ đẹp chân thật của giờ khắc yên tĩnh trước trận
chiến. Từng hơi thở chợt nghe có vị như một món ăn tinh tế nhất, từng âm thanh
đều dễ nhận diện và siêu phàm, thậm chí trên những chiến trường hôi hám bẩn
thỉu nhất, mắt anh luôn bị thu hút bởi điều gì đó thật giản dị và thanh cao:
một đóa hoa, một cành cây tạo dáng, hay chỉ là một lọn mây.

Nhiều trăm năm trước, Aoife đã tặng anh một cuốn sách làm
quà sinh nhật. Anh đã không nỡ nói với cô rằng cô đã lỡ sinh nhật anh gần cả
tháng rồi, mà anh trân quý cuốn sách ấy lắm, ấn bản lần đầu của cuốn The
Professor viết bởi Charlotte Brontë. Có một dòng anh không bao giờ quên: Giữa
lúc đang sống là chúng ta đang chết. Nhiều năm sau, anh nghe Gandhi cũng lấy
những chữ ấy, đổi lại một chút để tạo ra một ý tưởng âm vang sâu thẳm trong
lòng anh: Giữa cái chết sự sống vẫn kiên gan.

Niten đem lòng yêu chiến đấu đã từ lâu lắm rồi.

Không có danh dự trong chiến tranh, càng ít hơn nữa trong
giết chóc và tuyệt đối không có trong cái chết dần mòn. Nhưng có phẩm giá chân
chính nơi cách người ta xử sự với nhau trong trận chiến. Và lúc nào cũng tìm
thấy danh dự trong thái độ ủng hộ chính nghĩa và bảo vệ những kẻ không được bảo
vệ.

Khum khum hai bàn tay đang đặt trên lòng, Niten triệu hồi
một chút luồng điện. Luồng điện đọng lại trong lòng bàn tay anh, một chất lỏng
xanh lam sẫm rung rung trên lớp da thịt sậm màu, da anh đầy những vết sẹo và
chai sần vì nhiều thế kỉ cầm kiếm. Anh thổi vào đó, chất lỏng đặc lại. Niten
dùng lòng bàn tay lăn như nhào bột, tạo ra một khối cầu màu xanh lơ nhỏ xíu,
rồi ép dẹp lại thành một hình hơi có dạng chữ nhật, trông như miếng giấy màu
xanh cứng đơ đơ. Hết sức cẩn thận, người bất tử nắn nót gấp các cạnh của tờ
giấy ấy vào, xếp một lần rồi xếp một lần nữa làm thành con kame, một con rùa
tinh xảo theo nghệ thuật gấp giấy origami.

Đặt con rùa màu xanh lơ lên cây cầu trước mặt, Niten cầm hai
thanh kiếm lên và nhòa dần vào vùng bóng tối ngay khi con Spartoi đầu tiên vừa
ló ra khỏi màn sương.

“Minikui,” Niten thì thào. “Đồ xấu xa.”

Trước đây, người bất tử đã chiến đấu với nhiều loài quỷ sứ
và từ lâu đã học biết rằng không bao giờ được đánh giá theo vẻ bề ngoài. Khái
niệm về cái đẹp thay đổi từ đất nước này sang đất nước kia và thậm chí từ thế
hệ này sang thế hệ kia, nhưng anh nghi ngờ không biết có ai lại cho loài Spartoi
là xinh đẹp không. Thậm chí một con Spartoi nào khác cũng được.

Lùn tịt, béo ị, trông như một con cá sấu đang đi bộ bằng hai
chân. Nó cao chừng một mét rưỡi, thân mình tròn trịa, da ú nần và đầy vảy, cùng
với một cái đầu hình thù như cái nêm của loài cá sấu. Hai con mắt vàng chóc to
tướng, con ngươi là hai cái khe màu đồng nằm tách xa nhau trên đỉnh đầu, lúc
này đang nhìn xuyên qua màn tối. Khi nó há miệng, từng hàng răng lởm chởm khoe
ra cùng với cái lưỡi dày màu trắng xác nằm bất động.

Niten đã trông thấy họ hàng nhà rắn trước kia. Chúng xuất
hiện trong truyện thần thoại gần như chỉ vài quốc gia trên trái đất này, và
phần nhiều các Vương quốc Bóng Tối gần kề đều có các sinh vật thằn lằn cư trú.
Hầu như không có ngoại lệ, loài thằn lằn khinh rẻ loài có vú, còn loài có vú
lại kinh sợ loài thằn lằn.

Đầu để trần, sinh vật này được bao phủ trong một chiếc áo
choàng khoét lỗ dài ngang gối trông như được làm bằng chính da của nó. Nó cầm
một cái khiên nhỏ hình tròn được bao phủ cùng một loại chất liệu, và hai hàn
tay gần giống tay người của nó nắm chặt một cây gậy chiến đồ sộ đầu lớn bè.

Niten đánh giá sinh vật ấy bằng con mắt của một chiến binh.

Con Spartoi mang một bộ giáp nhẹ, phần đầu dễ tổn thương. Nó
chỉ được trang bị một cây gậy tày, không dài bằng thanh đoản kiếm của Niten, vì
thế anh được lợi thế là có thể tấn công mà không áp quá gần. Người bất tử hơi
thất vọng. Anh đã mong đợi thứ gì đó ghê gớm hơn một chút. Có lẽ Quetzalcoatl
nghĩ chỉ cần nhìn thấy con Spartoi đã khiến con người kinh khiếp mà quy phục
chăng. Vả lại, theo kinh nghiệm của Niten, các Elder vẫn thường có thông tin
sai lệch một cách đáng kể về giống loài họ muốn thống trị và về thế giới họ cần
kiểm soát.

Niten chăm chú nhìn sinh vật đang tiến đến gần con rùa giấy
origami màu xanh lơ. Nếu nó thông minh - đúng, giá mà nó thông minh, thì chắc
hẳn nó sẽ không bao giờ đến gần con rùa trước tiên như vậy, nếu nó thông minh,
nó sẽ lẩn trở lại vào bóng đêm và chờ quân tiếp viện. Cái đầu xoay qua xoay
lại, con Spartoi bò tới gần con rùa xanh. Nếu nó thật sự ngu ngốc, Niten dự
đoán, có thể nó sẽ đứng xuống trên bốn chân để hít hít ngửi ngửi vật đó. Tay
người bất tử nắm chặt chuôi kiếm khi anh đánh giá được điểm yếu của sinh vật.
Anh sẽ nhắm nó vào dưới cánh tay, hoặc xuyên qua miệng.

Con Spartoi thả mình xuống trên bốn chân và đong đưa cái đầu
qua hình giấy origami.

Vậy là ngu ngốc rồi.

Màn sương xoáy tít quanh anh như tấm áo choàng, Niten phóng
ra khỏi màn đêm, thanh katana giơ lên, rồi hạ xuống trong tiếng rít chết người.

Con Spartoi chuyển động.

Nhanh như chớp, cái khiên của con thằn lằn đưa lên, thanh
kiếm của Niten chát chúa bật ra cùng với từng tia lửa sáng chói. Cây gậy tày
của sinh vật kia đánh mạnh ngay giữa ngực người bất tử, và Niten lập tức biết
rằng xương sườn đã bị gãy. Lực của cú đánh hất anh quay tít, anh ngã rầm xuống
đất tuốt phía xa của cây cầu.

Con Spartoi không thèm đếm xỉa đến người bất tử vừa bị ngã.
Nó xúc con rùa xanh lên, thảy vào miệng. “Trà xanh,” nó nói bằng giọng thầm thì
khọt khẹt. “Món ưa thích của ta.”

Niten lồm cồm đứng dậy, nhăn mặt vì cơn đau trong ngực. Anh
hít thở sâu, áng chừng vết thương. Hai xương sườn, có lẽ ba, bị gãy, có lẽ cũng
chừng ấy bị nứt. Anh co mình trong tư thế chuẩn bị và di chuyển trở lại sinh
vật kia.

“Mi sỉ nhục ta đấy, người bất tử,” con Spartoi nói. “Mi nhìn
ta và tưởng đây là một sinh vật cục súc, mi cho rằng rái bẫy thô thiển của mi
sẽ gài được ta sao.”

Bất thình lình Niten ý thức là có các hình thù khác trong
vùng bóng tối nữa. Con Spartoi đã bò đến sát anh và vừa đứng vừa quan sát. Rồi
anh biết mình đã phạm phải một sai lầm nguy kịch: đánh giá thấp kẻ thù.

Con Spartoi đi trên hai chân sau, tiến về phía Niten, khiên
và gậy đan vào nhau theo một kiểu mẫu đầy mê hoặc. Phần còn lại của thân thể
thu khép vào để hình thành nên một vòng tròn xung quanh. “Trong thế giới này,
mi có được vinh dự làm một chiến binh vĩ đại không?”

“Ta là Miyamoto Musashi. Vào thời này ta được gọi là Niten
và không ai biết đến, nhưng người mà ta từng hiện thân thì đến nay vẫn còn được
tôn vinh.”

“Mi phải tự xét mình là một chiến binh dũng cảm mới dám đứng
đây một mình chống lại chúng ta chứ.”

“Ta xét thấy chuyện này là cần thiết.”

“Mi sẽ chết,” sinh vật kia nói nghe ộp ộp.

“Mọi người mọi thứ đều chết cả,” Niten nói khi anh đã dịch
dần tới gần con Spartoi. “Và khi ta ra đi, sẽ có nhiều người hơn nữa chống lại
bọn mi.”

“Nhiều người đó cũng sẽ ngã gục thôi.”

Niten tấn công khi sinh vật còn đang nói. Phớt lờ cơn đau
nơi lồng ngực, anh chặt, chém liên tục. Động tác thứ nhất là đòn nhử kéo cái
khiên giở lên, động tác thứ hai dành để lấy đầu nó.

Con Spartoi dùng gậy chặn cú chém, và vì lực va chạm này,
thanh katana của Niten bị gãy. Ba phần tư thanh kiếm văng bật vào bóng đêm. Rìa
cái khiên tròn của con Spartoi vung vòng lên đánh trúng cánh tay trái của người
bất tử, làm tê liệt hoàn toàn từ vai đến đầu ngón tay, còn thanh đoản kiếm của
anh rơi lanh canh xuống đất.

“Chúng ta là Spartoi. Một bộ ba mươi hai. Luôn luôn là ba
mươi hai. Chúng ta chiến đấu giỏi hơn con người bọn mi, người bất tử ạ. Chúng
ta nhanh nhẹn hơn bọn mi rất nhiều. Ta nhìn mi và thấy mi di chuyển như một con
ốc sên. Ta có thể nhìn thấy cơ bắp mi căng lên rất lâu trước khi chúng chuyển
thành hành động. Mi tưởng mình im lặng, nhưng từng hơi thở của mi đều là tiếng
khò khè ầm ào và mi giậm chân loanh quanh nặng nề như một con voi đi trên cỏ.”

Bàn tay Niten cử động và đầu thanh katana gãy lởm chởm cắm
trúng giữa ngực con Spartoi. Hai mắt mở lớn, miệng há hoác kinh ngạc, nó loạng
choạng bước trở vào màn sương. “Mi nói nhiều quá đấy,” Niten thì thầm.

 

CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM

Virginia Dare di chuyển xuống con hẻm tối cách Dee một
quãng, vừa đi vừa xé miếng lá cọ gói bên ngoài. Nép trong hai bàn tay ả là một
phiến đá dẹp hình chữ nhật màu xanh ngọc lục bảo. Ả cảm thấy một nguồn năng
lượng thô đang rung rung xuyên qua phiến đá xanh kia và tức thì nhận ra cảm
giác đó ngay: chiếc ống sáo của ả cũng tỏa ra cơn rùng mình như vậy khi ả sử
dụng nó.

Mảnh ngọc lục bảo khoảng chừng mười phân, dài hai mươi phân.
Ả lật qua lật lại nó trong hai bàn tay. Cả hai bên đều phủ đầy những nét khắc,
những chữ tượng hình mơ hồ giống với vài kiểu chữ viết của người cổ đại có
nguồn gốc từ thung lũng Indus. Luồng điện màu xanh lục nhàn nhạt của Virginia
kết từng búi rỉ ra khỏi mấy ngón tay ả lan khắp phiến đá, và mùi hương cây xô
thơm tràn ngập con hẻm. Virginia lấy lại hơi thở, chăm chú nhìn trong lúc chữ
viết chảy trên mặt đá, xếp thành hình này hình kia, những bức tranh nhanh chóng
sống động: bầy kiến bò, cá lội, chim vỗ cánh, vầng mặt trời quay tròn.

Lâu lắm rồi ả chưa từng nhìn thấy chữ viết thế này bao giờ.

Những chữ tượng hình run rẩy, rồi nhạt đi không còn gì, chỉ
để lại duy nhất một dải kí hiệu bí ẩn ngay giữa phiến đá. Sau đó chúng biến
đổi, trườn bò và xếp thành một từ duy nhất bằng tiếng Anh: CROATOAN.

Virginia Dare gục xuống chân tường như vừa bị ai đánh trúng.
Rồi ả từ từ tuột phịch xuống đất.

CROATOAN.

Ả còn là một đứa bé, không hơn hai mươi bốn hoặc ba mươi
tháng tuổi, đang chăm chú quan sát cha khắc từ ngữ ấy vào cây cột hàng rào gỗ
bên ngoài căn nhà của họ ở Roanoke.

CROATOAN.

Không phát ra tiếng, môi ả chuyển động thốt lên từ ngữ ấy.
Những chữ cái đó, một từ duy nhất đó, là thứ đầu tiên ả được nhìn thấy. Từ ngữ
đó là thứ đầu tiên ả biết. Đó là bí mật ả cất sâu tận đáy lòng mình. Một bí mật
chỉ duy mình ả biết. Những giọt nước mắt màu xanh lục nhạt chảy dài xuống hai
má.

Những con chữ rùng rùng và vỡ ra từng mảnh. Những hình ảnh
tiêu biểu như những vết cào xước nhỏ xíu xuất hiện trên mặt đá: rùa và mây, một
con cá voi, tất cả các kì trăng và một vòng bánh xe mặt trời lăn khắp phiến đá
ngọc lục bảo thành những đường ngang hẹp. Virginia ấn ngón tay trỏ vào góc cuối
bên trái và di chuyển chầm chậm sang bên phải, môi ả cử động khi nhớ lại một ngôn
ngữ từ lâu ả nghĩ mình đã quên.

Tôi là Abraham của Danu Talis, đôi khi được gọi là Pháp sư,
xin gửi lời chào đến cô, Virginia, con gái Elenora, con của Ananias.

Bằng từ ngữ này, Croatoan, một từ mà ý nghĩa của nó chỉ có
mình cô biết, sẽ cho cô biết rằng mọi lời tôi nói với cô bây giờ đều là sự
thật. Vì thế khi tôi nói với cô rằng tôi đã dõi theo cô tất cả mọi ngày trong
đời cô, cô sẽ biết đó là sự thật. Khi tôi nói với cô rằng tôi đã bảo vệ và chăm
sóc cho cô, cô sẽ biết đó cũng là sự thật. Tôi đã hướng dẫn cô đến hang động
trong vùng Grand Canyon nơi cô khám phá ra chiếc ống sáo quý giá ấy. Và tôi đã
để cho cô ra tay giết chết Elder chủ nhân của cô và bảo vệ cô khỏi mọi hậu quả
phát sinh.

Tôi biết cô là ai, Virginia Đare, và quan trọng hơn, tôi
biết cô là người thế nào. Tôi biết cô tìm kiếm gì, thứ cô tìm hơn hẳn mọi thứ
khác trên thế giới.

Và hôm nay cô có thể đạt được hoài bão của mình.

Hôm nay, cô có thể tạo nên một khác biệt.

Cô sẽ không bước đi trên Vương quốc Bóng Tối Trái Đất trong
hơn chín thiên niên kỉ. Dù chính hôm nay cô nhận phiến đá này từ nơi tôi. Cô sẽ
giữ nó trong hai bàn tay mình chỉ vài giờ rồi nó lại là của tôi. Lần đầu tiên
khi tôi bắt đầu dõi theo đường đời cô, tôi không bao giờ hình dung nó sẽ vòng
trở lại và cả hai chúng ta sẽ kết thúc trên cùng một lục địa trong cùng một
dòng thời gian thế này.

Cô là một phụ nữ xuất sắc, Virginia Dare ạ.

Cô sống sót khi mọi người chung quanh đều chết. Mà còn hơn
cả sống sót, cô phát triển mạnh mẽ. Cô sống cô độc, hoang dã giữa rừng. Nhưng
cô không bao giờ thật sự cô đơn. Có bao giờ cô tự hỏi tại sao bọn sói không bao
giờ săn đuổi cô, bọn gấu tránh né cô, tại sao cô chẳng bao giờ không chịu nổi
vì bệnh tật, hoặc cảm thấy đau đớn vì thức ăn hư thối hay nước tù hãm ứ đọng?
Và sâu thẳm trong mùa đông, khi tuyết phủ dày trên đất, chẳng bao giờ cô bị
bệnh. Không bao giờ cô thiếu thực phẩm, không bao giờ phải đói, không bao giờ
gãy một cái xương hoặc mẻ một cái răng nào. Khi dịch bệnh tàn phá các bộ lạc
thổ dân, cô vẫn hoàn toàn không bị tổn thương. Khi kẻ thù đến tìm kiếm cô,
chúng lại bị lạc lối trong rừng. Khi những người đánh bẫy săn lùng cô để lấy
thưởng, chúng lại chịu những kết cục bất ngờ và bí hiểm.

Quả thật, cô đã sống một cuộc đời dường như có phép màu phù
hộ.

Và trong khi tôi canh chừng cô thì, Marethyu, người đàn ông
có bàn tay móc câu, lo bảo vệ cô. Ông ấy là chiếc bóng của cô, người bảo vệ cô.
Cùng nhau, chúng tôi giữ cho cô được an toàn, bởi vì chúng tôi biết rằng một
ngày kia chúng tôi sẽ cần đến cô.

Chúng tôi cần cô hôm nay, Virginia Dare, đúng như cô luôn
muốn được người ta cần đến.

Bị bỏ rơi và mồ côi khi còn là đứa trẻ, bị bỏ mặc một mình
nhiều năm trời chạy trốn chui nhủi, đáng lẽ phải biến cô thành ích kỉ, tham
lam, và thậm chí có thể là một kẻ hơi tưng tửng nữa kia.

Song cô vẫn không phải là những loại người đó.

Đây là phép thử cho lòng can đảm của cô, cho sức mạnh ý chí
của cô, tính toàn vẹn của cô.

Khi có thức ăn để chia sẻ, cô chia sẻ hết với các bộ lạc thổ
dân. Thậm chí khi chỉ còn vừa đủ cho bản thân mình, cô vẫn để những gói thực phẩm
treo trên cành cây. Cô bảo đảm sao cho bẫy và lưới của họ luôn chứa đầy. Cô
chăm sóc họ theo những cách thức mà bản thân cô chưa bao giờ được hưởng. Các
thổ dân biết điều đó và chính vì thế mà họ đã tôn vinh cô.

Cô chấp nhận đặc tính bất tử từ một Elder cô rất coi thường,
đơn giản chỉ vì cô sẽ có nhiều thời gian hơn để giúp đỡ những người cần đến. Và
suốt nhiều thế kỉ nay, cô che giấu lòng khao khát công bằng đằng sau một vẻ
ngoài thờ ơ, thiếu quan tâm. Ít ai biết cô, và nhiều người cho rằng cô chỉ quan
tâm đến bản thân cô thôi. Thậm chí cả tay Pháp sư người Anh, kẻ nghĩ mình quen
biết cô rõ hơn bất cứ ai còn sống, cũng chẳng biết gì về cô cả. Hắn không hề
biết một Virginia Dare thực thụ.

Tôi mới là người biết cô.

Tôi biết cô luôn phẫn uất trước vẻ ngạo mạn của kẻ có quyền.
Cô luôn bước tới nói thay cho những người không có tiếng nói riêng. Và lúc này
cô bắt gặp chính mình đang ở trên một miền đất nơi mà cả một tầng lớp đều không
có tiếng nói, nơi mà chỉ một số ít Elder, nhiều kẻ trong số họ đã bị Biến đổi
đến nỗi gần như không nhận ra, tiếp tục nắm giữ quyền lực. Tệ hơn, họ không hề
có ý định buông tay. Họ dự định tiêu diệt hoặc nô dịch hóa giống người. Họ kiên
quyết buộc thế giới mà cô biết, thế giới nơi cô lớn lên, sẽ phải ngưng không
được tồn tại nữa.

Cư dân Danu Talis cần một tiếng nói, Virginia Dare. Họ cần
một người nói thay cho họ.

Họ cần cô.

Nước mắt Virginia kêu xì xì và bốc hơi ra khỏi phiến đá.

Một hình dáng mặc áo choàng trắng di chuyển trong con hẻm,
cô nhanh nhẹn chớp mắt cho nước mắt tan đi. Chưa một người nào nhìn thấy ả
khóc. Ả nhét phiến đá dưới áo sơ mi của mình. Cảm thấy hơi lạnh áp vào da.

“Tôi cũng có một phiến,” Marethyu nhẹ nhàng nói. “Abraham đã
để chúng lại cho những người ông yêu quý hoặc kính trọng. Dee không có,” ông ta
nói thêm, mắt nheo nheo.

“Tôi đâu có biết ông Abraham này,” ả nói, đôi mắt to lên sau
những giọt nước mắt chưa tan hết.

“Ông ấy biết cô đấy,” Marethyu đáp.

“Ông ấy nói ông cũng canh chừng tôi hồi ở trong rừng.”

“Đúng.”

“Tại sao?”

“Để giữ cô được an toàn. Abraham giữ cô khỏi mọi phiền phức,
bảo đảm cô được ăn, được mặc. Tôi... ừm, tôi thì bảo vệ cô.”

“Tại sao?”

“Đã có lần cô đối xử tử tế với tôi... hoặc đúng hơn là, cô
sẽ tử tế với tôi trong tương lai.”

“Tôi biết ông, đúng không nào?” Virginia thì thầm. “Trước
đây tôi đã gặp ông.”

“Vâng.”

“Thần Chết đâu phải lúc nào cũng là tên ông,” ả nói

“Tôi từng có nhiều tên lắm.”

“Tôi sẽ phát hiện ra ông là ai,” ả cam đoan. “Tôi sẽ khám
phá ra tên thật của ông.”

“Cô cứ việc thử. Có lẽ cô sẽ thành công đấy.”

“Tôi sẽ thôi miên ông bằng ống sáo của tôi,” ả dọa, có phần
nào nghiêm túc. “Rồi ông sẽ nói cho tôi nghe.”

Marethyu lắc đầu. “Không một thứ đồ tạo tác nào gây được tác
dụng trên tôi cả.”

“Tại sao?”

“Bởi vì tôi là thế,” ông ta nói giản dị. “Nhưng tôi cần phải
biết cô sẽ ủng hộ chúng tôi chứ, Virginia? Cô có chịu chiến đấu cho cư dân Danu
Talis và tương lai thế giới của cô không?”

“Ông còn phải hỏi sao?”

“Tôi cần nghe cô nói đồng ý.”

“Đồng ý,” ả nói đơn giản.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3