09. Chim sáo đá

CHIM SÁO ĐÁ

Billy ngồi thừ ở đầu giường. Tất cả mọi người trong phòng ngủ chung hình
như đều đã ngủ say, nhưng Billy lại chưa bao giờ thấy tỉnh táo hơn thế này.
Trước cuộc trạm chán hãi hùng với Manfred, nó đã có một cuộc chuyện thú vị với
Rembrandt.

Con chuột đen này đã kể về ngôi nhà đầy ắp tiếng cười và ánh sáng lấp lánh.
Một ngôi nhà của sách vở, âm nhạc, và của những bức tranh, nơi trước kia từng
có một gia đình hạnh phúc. Ở đó từng có một cậu bé tên là Oliver, một tài năng
thổi sáo. Mọi người trông đợi cậu sẽ bộc lộ một tài phép ( thậm chí lớn hơn)
như tài phép của cha và anh trai cậu, là có thể biến đá thành lửa. Nhưng cậu
được gửi đi học xa và không bao giờ trở về nhà nữa.

Billy nhớ lại Ollie
Sparks. Cậu này học ở khoa nhạc, và đã từng ở lại với một người bạn vào những
ngày cuối tuần. Ollie là một cậu bé vô cùng tò mò, và điều này từng làm nhiều
người bực bội. Ollie hay gặp rắc rối vì hay mò tới những nơi mà nó không nên
tới.

Rembrandt bảo với
Billy rằng Ollie vẫn còn ở trong Học viện này. Con chuột đen ngửi thấy mùi của
Ollie, và đã lần kiếm ra được cậu bé sống trên một trong những căn gác mái,
nhưng không thấy được Ollie, ngoại trừ một ngón chân. Ngoài ra còn có một con
rắn ở trên khu vực cổ xưa của tòa nhà, một con vật màu xanh da trời dễ sợ. Nó
xưa đến nỗi bộ óc của Rembrandt không thể đo lường nổi.

“Thiệt kỳ quái,”
Billy lẩm bẩm một mình.

Billy tính nằm kềnh
xuống giường. Nó không nghe thấy tiếng Charlie này giờ rón rén bò lại gần
giường nó.

“Em đang nghĩ về con
Rembrandt,” Billy thì thầm. “Nó kể với em rất nhiều điều. Em không thể hiểu hết
được.”

“Cuối tuần tới em có
muốn tới nhà anh và ở lại không?” Charlie hỏi. “Em có thể mang theo con chuột
đen đó.”

Charlie kiễng chân
trở lại giường mình, trong khi Billy chui vô mền, và ngủ một giấc ngon lành
nhất từ xưa tới nay.

Trong những ngày
tiếp theo, Charlie dần nhận ra Học viện coi trọng vở kịch mùa hè đến thế nào.
Giờ giải lao nào cũng thấy Olivia bước đi loanh quanh sân chơi, lẩm nhẩm học
phần thoại của nó. Thỉnh thoảng có Emma đi kế bên, cầm theo một tập bìa cứng
chứa đầy những phông cảnh mà Manfred đã cho in ra.

Fidelio càng ngày
càng dành nhiều thời gian trong phòng hòa nhạc để tập luyện nhạc nền cho vở
kịch, và Charlie thấy rằng đám bạn đi cặp kè với nó trong giờ giải lao chỉ còn
có Gabriel Silk và Billy Raven. Chẳng mấy chốc nó cũng nhận ra là, thông qua
Rembrandt, Billy đã biết tất cả những gì có thể biết được về cậu bé vô hình.
Nhưng hình như thằng bé chưa tiết lộ thông tin này cho Manfred. Như vậy có
nghĩa là bây giờ có thể tin cậy được Billy? Có một bữa, Billy thậm chí còn đề
nghị là nó sẽ đi kiếm Ollie.

“Ban đêm em được
phép đi thăm lão Ezekiel Bloor,” Billy nói. “Vì vậy nếu em bị bắt gặp thì bà
giám thị cũng không ngạc nhiên.”

“Anh không thích như
vậy, Billy,” Charlie thú nhận. “Bà giám thị có thể sẽ trừng phạt em rất đích
đáng.”

“Ngoài ra, còn có
một con trăn đang rình mò ở đâu đó,” Gabriel thêm. “ Tụi này không muốn có hai
thằng bé vô hình bị nhốt trên gác mái.”

“Chắc con trăn đó đã
quấn cái đuôi của May Phúc,” Billy nói, vẻ tư lự. “Rembrandt nói rằng con trăn
này xưa tới nỗi nó không thể đo lường được.”

“Chuột không hiểu
thời gian,” Gabriel nói, vẻ hiểu biết.

“Em cũng không chắc
mình có hiểu không?” Charlie lẩm bẩm.

Nó vừa tính vô bên
trong tòa nhà khi hết giờ giải lao thì Olivia chụp lấy tay áo nó.

“Chờ chút, Charlie” Olivia la lên. “Tụi tớ có chút chuyện muốn nói với đằng
ấy.”

Charlie nấn ná ở lại, trong khi Billy và Gabriel bị cuốn đi cùng với đám
đông học trò đang ùa vô tiền sảnh.

“Gì vậy? Coi chừng tụi mình bị trễ giờ học kèn trumpet bây giờ.”

“Tối nay mình sẽ đi ra ngoài, để kiếm căn phòng tụi mình đã gặp Ollie,”
Emma nói nhỏ. “Và mình phải đi một mình.”

“Bồ tính sẽ bay à?”

Emma gật đầu.

“Mình sẽ nhìn từ bên ngoài nhìn vô. Hoặc mình có thể bay vô nếu có một cửa
sổ nào đó để mở. Mình nghĩ mình chưa cứu Ollie được ngay đâu. Mình chỉ muốn cho
cậu ấy biết rằng tụi mình vẫn đang cố gắng thôi.”

“Trời tối lắm,” Charlie ngại ngùng. “Làm sao bồ thấy đường.”

“Bọn này sẽ xong xuôi trước khi đèn tắt,” Olivia thì thào. “Tớ nghĩ ý đó
hay tuyệt đấy. Nhưng phải bảo đảm cho bọn này có một cửa sổ để mở ở trên lầu
của bọn này cho Emma quay trở về. Đằng ấy có làm được vậy không? Charlie? Belle
ngủ sát ngay bên tớ. Con đó sẽ đóng hết cửa sổ phòng ngủ chung lại ngay nếu tớ
mở ra. Nó canh chừng tớ như diều hâu vậy.”

Rồi con bé liếc nhìn Emma.

“Ừm, có lẽ không phải như diều hâu, mà còn hơn cả rắn độc… Việc quái gì
phải bực mình đồ rắn độc.”

Charlie cười toét. Nụ cười của nó tắt ngay khi Asa nhìn ra phía chúng và
nạt nộ.

“Ba đứa bay đang làm gì đó? Coi bộ tụi bay thư thả quá hả. Tụi bay sẽ trễ
giờ học nếu không chịu lẹ lẹ lên.”

Ba người bạn nhảy tót vô tiền sảnh và rẽ ra, mỗi đứa lao về phòng để áo
khoác của khoa mình. Charlie ráng chạy tới lớp kèn sáo của thầy Paltry ngay
trước khi ông thầy già này vô tới, ca cẩm về tất cả những công việc thầy phải
làm thêm cho vở kịch của trường.

“Trò chả cần phải lo lắng làm gì, Charlie Bone,” thầy Paltry bảo. “Phải mất
bao nhiêu năm nữa trò mới mong đạt tới tiêu chuẩn chơi cho dàn nhạc của
trường.” Ông xuống giọng nói thêm, “Chắc chắn là không bao giờ đạt được.”

Charlie chỉ nhe răng cười. Chơi kèn trumpet không phải là một trong những
mối ưu tiên của nó.

Trước bữa tối hôm đó, Charlie gặp Gabriel và Fidelio đang ra khỏi phòng hòa
nhạc. Khi nó kể cho hai thằng nghe sứ mệnh sắp tới của Emma, chúng rất sốt sắng
đòi giúp. Fidelio đề nghị cả bọn hãy mở toang tất tần tật các cửa sổ nào có
thể, nhưng Charlie lo như thế là quá lộ liễu. Bà giám thị Yewbeam và các phụ tá
chắc chắn sẽ đi quanh tòa nhà, kiểm tra tất cả mọi cửa sổ.”

“Em chỉ cần các anh che chắn cho em khi em rời phòng ngủ chung,” Charlie
bảo. “Cứ nói là em đang ở trong nhà tắm gì đó.”

“Bà giám thị không bao giờ tin tôi lấy một lời,” Gabriel ca cẩm. “ Nhưng
tụi này sẽ cố hết sức.”

Charlie chờ cho đến khi tiếng chuông đồng hồ nhà thờ lớn điểm nửa đêm. m
thanh mười hai tiếng chuông ấy không lúc nào không khiến nó lạnh toát sống
lưng. Chính vào tiếng gõ thứ mười hai, cách đây tám năm, ba Lyell của nó đã bị
đẩy vô một trạng thái hôn mê mà ông không thể nào tỉnh dậy được. Manfred Bloor
đã làm việc đó. Dù lúc ấy hắn còn nhỏ xíu, nhưng đã có quyền năng rất lớn.
Chiếc xe hơi của ba Lyell được kiếm ra dưới đáy một hầm đá sâu, và tất cả mọi
người đều tin rằng ông đã chết, nhưng Charlie biết rằng điều đó không đúng. Nội
Bone đã xóa sạch mọi hình ảnh về ba nó, và Charlie không thể nhớ ông như thế
nào, nhưng nó tin chắc, một ngày nào đó, nó sẽ dùng tài phép của mình để kiếm
ra ba Lyell và đánh thức ông dậy. Đồng thời nó sẽ làm hết sức mình để ngăn
không cho gia đình Bloor tác oai tác quái và hủy hoại cuộc sống của mọi người
nữa. Charlie ra khỏi giường và khẽ đi ra cửa. Trong hành lang tối thui tối mù,
và nó phải đi men theo tường cho đến khi tới được cầu thang dẫn lên khu phòng
ngủ chung của nữ.

Những bậc thang cũ mục rung lên cọt kẹt, cho dù Charlie đã leo bằng những
đầu ngón chân. Khi lên tới đầu cầu thang, Charlie thở phào một cái và chạy lẹ
tới khoảnh ánh sáng le lói phát ra từ một cửa sổ nhỏ. Nó mở cửa sổ đó ra, đủ
rộng cho một con chim nhỏ bay lọt vô. Nhưng nó vừa mới dợm quay trở lại cầu
thang thì một bóng đen đập vô mắt nó. Bóng đen lướt ra khỏi khoảng tối từ phía
kia của cửa sổ, và Charlie sững sờ đến nỗi không bước đi được.

“Bạn đang làm gì thế?”

Giọng nói này là của một trong những người cuối cùng mà Charlie muốn gặp.

“Belle!” Nó nói. “Tôi không thể ngủ được. Nên tôi quyết định đi dạo một
chút.”

“Ở trên lầu của con gái?” Belle tiến lại gần hơn, và Charlie có thể thấy
đốm sáng trong đôi mắt thay đổi kinh khủng của Belle.

“Có nghĩ gì đâu,” Charlie làu bàu.

“Chậc chậc. Cửa sổ mở toang thế này. Hèn chi mà lạnh quá chừng.” Belle đóng
sầm cửa sổ và chốt lại. “Tốt hơn nên trở về giường trước khi Manfred bắt gặp
bạn.”

“À, ừ.”

Charlie bước trở lại cầu thang. Khi nó ngoái lại nhìn, Belle vẫn còn đứng
đó. Nó cần phải kiếm một cửa sổ ít gây nghi ngờ hơn mới được.

Tới phòng vẽ, Charlie nghĩ. Lúc kiếm đường lên cầu thang đã khó rồi, nhưng
quay trở xuống thậm chí còn khó hơn. Charlie ước gì nó còn cây đèn pin mà bà
bếp trưởng cho nó hồi học kỳ trước. Bà giám thị Yewbeam đã tịch thu cây đèn
rồi. Chắc chắn bà ta đang giữ nó ở Ngách Tối, Charlie nghĩ. Còn khuya mới có cơ
may lấy lại được cây đèn khỏi nơi đó.

Cuối cùng, nó cũng kiếm ra đúng cửa và lẻn vô phòng vẽ. Nếu không có ánh
sao nhợt nhạt luồn qua những cửa sổ dài, chắc hẳn Charlie đã đâm sầm vô một
đống giá vẽ rồi. Quả tình, nó đã kịp đi vòng qua đống giá vẽ, hướng ra cửa sổ.
Tại đây, Charlie nhận ra là chỉ có thể mở được cái khung nhỏ, nằm tuốt trên
cùng của mỗi cửa sổ. Nhưng nó không tài nào với tới được cao đến như vậy.

Ở một góc xa, có một cầu thang xoáy trôn ốc dẫn xuống phòng điêu khắc. Hy
vọng sẽ kiếm được một cửa sổ dễ mở hơn dưới đó, Charlie mò mẩm đi giữa những
giá đỡ và những thùng màu vẽ, và nó vừa tính đi xuống thì chợt nghe thấy một
tiếng soạt, rồi một tiếng chít. Nó nhận ra hình hài đen đen của Rembrandt, đang
đứng nhổng trên những thanh lồng.

“Không sao đâu, Rembrandt, tao đây mà.”

Charlie ước gì nó có thể nói được ngôn ngữ chuột giống như Billy. Nhưng
Rembrandt có vẻ nhận ra giọng nói của Charlie và trở lại tỉ mẩn rỉa mấy hạt lúa
mì.

Charlie nhón chân đi xuống những bậc thang xoáy ốc bằng thép, lạnh băng.
Khi xuống đến chân cầu thang, nó nghe có tiếng búa gõ và nhận thấy có đốm sáng
nhỏ xíu phát ra từ một góc xa. Có người nào khác ở trong phòng điêu khắc!
Charlie tê cứng người. Thầy Mason, thầy giáo dạy điêu khắc, là một người lạnh
lùng. Đáng lý ra Charlie phải không ngạc nhiên khi thấy thầy làm việc vào giữa
khuya mới phải.

Một giọng nói vang lên:

“Ai đó?” Và một tia sáng chĩa về phía Charlie. “Charlie hả? Em làm gì ở
đây?”

“A… Ai đó?” Charlie
hoảng hồn.

“Anh đây, Tancred.
Có cả Lysander ở đây nữa.”

“Phùùù!”

Charlie bước tới chỗ
phát ra ánh sáng. Nó thấy Lysander đang ngồi bên cạnh một khúc gỗ, trong khi
Tancred đứng phía sau, tay cầm đèn pin. Cả hai đều mặc áo chùng xanh lá cây
khoác ra ngoài bộ đồ ngủ.

“Các anh đang làm gì
thế?” Charlie hỏi.

Lysander giải thích
là nó đang thí nghiệm.

“Gabriel có nói cho
anh biết về Ollie Sparks,” nó nói. Nghĩ coi, nếu anh… ừm… khắc một bức tượng
giống như Ollie, thì anh có thể gọi hồn xin tổ tiên của anh và cho cậu bé vô
hình ấy một cơ thể… Hiểu chưa?”

Charlie không hiểu.
Nó không thể hiểu Lysander đang nói về cái gì.

“Anh có biết Ollie
trông như thế nào không?”

“Biết chứ,” Lysander
nói. “Anh nhớ thằng bé này rất rõ. Một cậu bé dễ thương, nhưng hay tọc mạch.
Quá tọc mạch. Anh có thể trông thấy nó rõ như mới hôm qua.”

“Sander làm được
mà,” Tancred nói, vẻ thán phục. “Nó có thể nhớ như in từng chi tiết. Nó sẽ đẽo
mẩu gỗ này cho đến khi trông hệt như thật, tới mức em thấy như đang thở vậy.”

“Vậy à?”

Khúc gỗ đã rõ hình một
cậu bé, tuy nhiên, Charlie chưa hiểu cái tượng này sẽ giúp Ollie kiểu gì. Tài
phép của anh Lysander quả là tuyệt chiêu nếu anh ấy có thể biến một khúc gỗ
thành một người sống, hít thở được. Nhưng Ollie thật thì đang bị kẹt trên gác
mái. Thêm một Ollie nữa thì sẽ làm được gì cho Ollie kia?

“Chúng ta không cần
tới hai Ollie,” Charlie bảo.

Lysander giải thích
rằng một khi tổ tiên tâm linh của nó trông thấy một hình hài giống hệt Ollie,
thì họ có thể phả vô cậu bé vô hình kia một hình hài và linh hồn. Tức là, họ có
thể làm cho Ollie hữu hình trở lại.

“Chao!” Charlie thốt
lên. “Tuyệt thật!”

“Nào, bây giờ thì
tụi anh hỏi tại sao em lại ở đây?” Tancred nói.

“Tối nay Emma sẽ ra
ngoài,” Charlie kể với hai anh lớn. “Các anh biết đó… nó sẽ bay đi kiếm phòng
của Ollie, để báo cho Ollie biết là chúng ta vẫn đang cố tìm cách cứu nó.”

“Tốt hơn hãy khoan
nói cho nó biết về thầy B.,” Tancred cảnh báo.

“Phải,” Charlie tán
thành. “Có điều Emma không thể trở lại qua những gác mái cũ kỹ đó. Nó sẽ lạc
trong đêm tối mất. Cho nên em đang tìm cách để một cửa sổ mở.”

Rồi nó kể cho hai
anh lớn về Belle.

“Hừm.”

Tancred nhìn những ô
cửa sổ. Chúng cũng hệt một kiểu như những cửa sổ ở trong phòng vẽ, chỉ những
khoảnh nhỏ ở trên cùng mới có thể mở được, và vào lúc này tất cả đều đóng chặt
lại.

“Thỉnh thoảng thầy
Mason mở chúng ra bằng một cây sào,” Tancred nói. “Nhưng ở đây không có sào.”

Cậu bé tóc vàng, cao
lớn liền sải bước quanh phòng, Charlie có thể cảm nhận có một luồng gió xoáy
quanh bàn chân Tancred. Những mẩu gỗ, mảnh giấy, những mẩu đất sét và những cái
đục nhỏ bắt đầu lăn đi và xê dịch trên sàn nhà lót ván.

“Coi chừng, Tanc!” Lysander nhắc.

“Rồi, rồi. Mình sẽ chú ý,” Tancred nói. “Bắt đầu nào!”

Kiếm được một khoảng trống ở giữa phòng, Tancred quay tròn, áo chùng của nó
xòe ra, quay tít như một bánh xe màu xanh là cây. Charlie nhìn, ngây ra trước
những hạt bụi xoay tít, thấm đẫm ánh sao, cho tới khi thân hình quay tròn của
Tancred thình lình ngừng lại. Tancred giơ một cánh tay cao lên, chỉ vô đỉnh cửa
sổ, và một luồng gió lạnh buốt phóng vuột khỏi những ngón tay nó, xé không khí
lướt tới. Rồi một tiếng “rắc” thật sắc, một tấm kính rớt ra. Nó rớt gọn gàng
xuống vạt áo chùng đang tung lên của Tancred.

“Thấy sao?” Tancred
nói, đầy tự hào.

“Tuyệt diệu,”
Lysander bảo.

“Lạ lùng,” Charlie
suýt xoa.

Tancred giấu tấm
kính bể vô một đống ván dựng ở bức tường cuối phòng.

“Thầy Mason sẽ không
phát hiện ra đâu,” nó nói.

Charlie nhìn lên
khung cửa sổ trống rỗng.

“Phải chi tụi mình
nhìn thấy Emma,” nó lầm bầm. “Em chưa bao giờ thấy nó bay hoặc thậm chí lúc
biến thành chim.”

“Có những điều nên
làm trong bí mật thì tốt hơn,” Lysander nói vẻ huyền bí. “Thôi, tụi mình nên
thu dọn và trở về ngủ đi, không thì sáng mai sẽ không thể mở mắt ra được.”

Tancred cầm đèn pin
dẫn đường leo lên cầu thang thép xoáy ốc, và đi qua phòng vẽ. Phòng ngủ chung
của Charlie ở quãng giữa hành lang này. Với giọng thì thào “Chúc ngủ ngon,” hai
anh lớn đi về phòng ngủ chung của họ ở cuối hành lang.

Vào lúc đó, Emma
đang ở một cửa sổ trong hành lang bên ngoài phòng ngủ chung của nó. Trước khi
bay đi, con bé đã phải trải qua những khoảnh khắc sợ hãi đến kinh khủng. Nó
không bao giờ chắc được cánh tay mình có trở thành cánh không, hoặc đôi cánh có
nâng được mình lên khỏi mặt đất hay không. Nó phải nhắm nghiền mắt lại và nghĩ
về một con chim, sau đó phải tin vào chính mình và vào tổ tiên đã ban cho mình
tài phép kỳ lạ này.

Tối nay, Emma chọn
hình hài một con chim sáo đá. Được một cái tủ đựng chén dĩa che kín đáo, con bé
bắt đầu nhăn quắt lại và teo rút đi, nhỏ dần, nhỏ dần, trong khi những sợi lông
bóng mượt lăn tăn dần phủ khắp cơ thể. Emma ngậm mẩu giấy gởi cho Ollie vô
miệng, và khi việc biến hình đã hoàn tất, nó nâng cánh lên. Nhưng đúng lúc nó
bay vụt qua cửa sổ thì có ai đó khoác áo ngủ nhờn nhợt bước về phía nó. Emma
lao vô bầu trời đầy sao ngay khi cửa sổ đóng lại đánh sầm phía sau lưng.

Emma cố không nghĩ
tới chuyện sẽ trở về như thế nào, mà chỉ tập trung vô việc kiếm căn phòng gác
mái nơi Ollie Sparks bị giam hãm. Đã hai lần nó bay vòng quanh tòa nhà dữ tợn,
buồn thảm, thỉnh thoảng đậu lên một rìa cửa sổ, một trán tường hay một máng xối
dưới mái nhà. Nhưng những căn phòng đen ngòm bên trong các cửa sổ của tầng gác
mái nhỏ xíu chẳng để lộ thứ gì. Không thấy một ngọn đèn, cũng không thấy một
bóng đen, không thấy giường nhàu nhì, không thấy hũ mứt hay ngón chân hồng.

Vì vậy, Emma bay
thấp xuống bên dưới tầng gác mái, và ở đây nó trông thấy vài thứ: một căn phòng
thắp nến, nơi có một lão già được một núi gối đệm chống đỡ, ngồi chìm trong một
chiếc giường bốn cọc. Trước kia Emma đã trông thấy gương mặt khô héo, đáng sợ
này rồi, lúc nó cũng bị giam giữ trên gác mái. Lão Ezekiel Bloof lúc này đang
đội một cái nón ngủ ôm sát đầu, mặc áo ngủ nhung đen cẩn những hạt đen bóng.
Lão bật cười một mình khi một ngón tay xương xẩu của lão lần khắp một trang
sách khổng lồ. Emma vội bay đi.

Ở tầng lầu bên dưới
nữa, Emma thấy bà giám thị Lucretia Yewbeam, choàng áo ngủ màu tím, đang chải
mớ tóc dài màu xám trắng. Và xa hơn một chút, Emma nhận ra Manfred Bloor, mặc
áo dài đen, mái tóc đen xõa khỏi đuôi ngựa, lòa xòa vài lọn quanh mặt hắn. Hắn
đang quay lưng lại cửa sổ, nhưng Emma có thể thấy hình phản chiếu của hắn trong
chiếc gương dài mà hắn đang nhìn vô chằm chằm. Và rồi, hắn trông thấy Emma.

Manfred chỉ trông
thấy một con sáo đá, đậu trên gờ cửa sổ bên ngoài phòng hắn. Nhưng hắn dòm
trừng trừng vô hình phản chiếu của con chim và rồi quay ngoắt lại. Emma bay vụt
đi, tim nó đánh loạn xạ. Nó há mỏ ra và thét lên một tiếng kêu sợ hãi. Và mẩu
giấy bị cuốn theo gió, trôi đi mất.

Hắn biết đó là mình,
Emma nghĩ. Hắn đã thấy mẩu giấy. Bây giờ hắn sẽ làm gì?

Báo cáo nội dung xấu