Yêu nữ - Chương 08 - 09 - 10 - 11

CHƯƠNG TÁM

Hóa ra cảm nhận cái chết là thế này đây.

Tiến sĩ John Dee nằm xuống mặt cỏ mịn màng trở lại, siết
chiếc áo lông cừu đỏ sát vào người. Hắn lạnh, quá, quá lạnh, một cơn lạnh buốt
thăm thẳm làm tê cóng hết ngón tay ngón chân và thấm sâu vào dạ dày. Nghe buốt
buốt trên trán, như thể đã ăn quá nhiều kem lạnh, và thật sự hắn cảm nhận trái
tim mình bắt đầu đập chậm dần, tiếng đập yếu ớt và không đều.

Hắn lăn người nằm ngửa, mặc dầu thị lực đã mờ nhòe, hắn vẫn
có thể nhận ra màu xanh lơ sang sáng rất lạ của bầu trời, và ngay nơi khóe mắt
mình, cỏ vẫn một màu xanh sửng sốt.

Đôi khi phải đi trên những con đường tồi tệ, hắn nghĩ.

Hắn đã sống cuộc đời ồn ào huyên náo trong những thời kì
nguy hiểm liên tiếp. Đã sống sót trong chiến tranh, dịch bệnh, mưu đồ chốn
triều đình và phản bội này nối liền phản bội nọ. Đã du hành khắp thế giới, có
mặt gần như ở mọi đất nước trên trái đất này - ngoại trừ Đan Mạch, một nơi hắn
luôn mong muốn được đến tham quan - và thám hiểm nhiều Vương quốc Bóng Tối
trong mạng lưới mênh mông bao la ấy.

Hắn đã tạo dựng và cũng đã đánh mất nhiều của cải cơ đồ, đã
gặp gỡ gần như mọi nhà lãnh đạo, nhà phát minh, anh hùng và cả bọn côn đồ hung
ác đi trên hành tinh này. Đã khuyên can các vua và hoàng hậu, xúi giục chiến
tranh, phá vỡ hòa bình, và là một trong số ít đã đôn đốc thúc đẩy giống người
tiến đến nền văn minh. Hắn đã định hình thế giới này, thoạt tiên là vào thời Elizabeth và sau đó là
vào thế kỉ hai mươi mốt. Đó là những thành quả đáng tự hào.

Hắn đã sống gần năm trăm năm trong Vương quốc Bóng Tối Trái
Đất, chí ít cũng lặp lại chừng ấy quãng đời trong vài Vương quốc Bóng Tối khác.
Vì thế hắn thật sự không phải phàn nàn gì nhiều. Nhưng vẫn còn quá nhiều thứ
hắn muốn làm, quá nhiều nơi cần tham quan, quá nhiều thế giới phải thám hiểm.

Hắn cố nhấc hai cánh tay mình lên, nhưng lúc này chúng không
có cảm giác gì hết. Hai cẳng chân cũng không có cảm giác, và thị lực của hắn
bắt đầu lờ mờ không rõ. Các chủ nhân Elder của hắn chắc hẳn đã làm cho thân thể
hắn già cỗi, nhưng bộ não vẫn minh mẫn y như trước giờ. Có lẽ đó là sự tàn nhẫn
thâm độc nhất của họ. Họ đã để cho hắn minh mẫn trong một vỏ bọc vô dụng. Bất
chợt hắn nghĩ đến Mars Ultor, đã bị giam giữ nhiều thiên niên kỉ trong luồng
điện đông cứng sâu tận dưới lòng Paris, thân thể ông ta trơ ì chậm chạp nhưng
trí não vẫn sống, và lần đầu tiên trong nhiều thế kỉ, tay Pháp sư người Anh mới
trải nghiệm được cảm xúc thương cảm lạ lẫm này.

Dee tự hỏi không biết liệu
hắn sẽ còn sống được bao lâu nữa.

Màn đêm đã buông, và đây là Danu Talis, một thế giới nơi mà
các sinh vật đã tuyệt chủng rất lâu trên Vương quốc Bóng Tối Trái Đất cùng với
loài quỷ sứ kéo đến từ vô số các Vương quốc Bóng Tối khác tha hồ được tự do
lang thang.

Hắn không muốn bị lũ quỷ sứ ấy ăn thịt.

Lâu nay khi hình dung cái chết của mình - hắn thường nghĩ
đến lúc ấy, âu cũng là tự nhiên qua những việc hắn làm và tâm trạng thất thường
của các chủ nhân hắn phục vụ - hắn luôn hi vọng đó sẽ là giây phút vinh quang.
Hắn muốn cái chết ấy có ý nghĩa. Hắn luôn khắc khoải khi quá nhiều tác phẩm của
hắn được thực hiện trong bí mật và thế giới này vẫn chưa quan tâm đến tài năng
của hắn. Suốt Thời Elizabeth, mọi người đều biết đến tên hắn. Thậm chí Nữ hoàng
cũng phải kiêng sợ và kính nể hắn. Khi đã trở thành người bất tử, hắn nhạt nhòa
thành cái bóng, và hắn sống ẩn thân kể từ đó.

Chẳng có ý nghĩa gì mấy khi nằm co quắp, già cỗi bên triền
đồi Danu Talis thế này.

Hắn nghe có tiếng động, thùi thụi đùng đục. Gần lắm. Phía
bên phải hắn.

Dee cố quay đầu, nhưng hắn
không thể cử động được nữa rồi.

Một chiếc bóng.

Con quỷ sứ đến ăn thịt hắn đây mà.

Vậy ra số phận hắn là thế này: bị ăn thịt khi vẫn còn sống,
cô đơn một mình, không bạn bè thân quen.

Hắn cố triệu hồi luồng điện. Nếu quy tụ được chỉ vừa đủ
thôi, biết đâu hắn có thể khiến sinh vật kia sợ hãi bỏ đi. Hoặc hắn sẽ tự thiêu
đốt mình giòn rụm trong quá trình cố gắng này. Điều đó sẽ không quá tệ. Chí ít
hắn cũng tránh được việc bị ăn thịt.

Chiếc bóng kia di chuyển đến gần hơn.

Nhưng tại sao lại muốn làm cho sinh vật kia sợ hãi bỏ đi?
Rồi nó sẽ quay lại. Đơn thuần hắn chỉ trì hoãn một việc chắc chắn xảy ra mà
thôi. Tốt hơn hết là đầu hàng, là nhớ lại tất cả những việc tốt đẹp hắn đã làm
trong suốt quãng đời dài dằng dặc của mình... nhưng những việc đó sao mà ít ỏi
quá.

Chiếc bóng ấy che tối sầm.

Và bây giờ là lúc hồi kết đổ lên mình hắn, những nỗi sợ hãi
xưa cũ và những mối nghi ngờ gần như đã chìm vào quên lãng nay lại tràn ngập
khắp người. Hắn tự thấy mình đang ngân nga vài câu trong một bài hát. “Tiếc
quá, tôi chỉ có một ít...” Đúng, nhưng hắn đã có nhiều hơn một ít ấy chứ. Chắc
hẳn hắn có thể - nên - là một người cha tốt hơn đối với con cái và là một ông
chồng tử tế hơn đối với vợ. Có lẽ hắn không nên quá tham lam như thế - không
chỉ về tiền bạc, mà cả về kiến thức - và chắc chắn là không bao giờ nên nhận
món quà, đúng ra là lời nguyền, bất tử.

Nhận thức được điều này khiến hắn như trúng phải một cú đấm,
hơi thở nghèn nghẹn trong lồng ngực. Sự bất tử đã kết tội hắn.

Chiếc bóng đổ dài qua người hắn và thoáng nghe có mùi kim
loại.

Vậy thì không phải súc vật. Một con người chăng. Một kẻ cướp
chăng. Hắn tự hỏi không biết có bọn ăn thịt người trên Danu Talis không nữa. “Làm
nhanh đi,” hắn thều thào. “Ban cho ta lòng thương xót ấy đi.”

“Đó là lòng thương xót ông đã ban cho những người khác đấy
hả?” Đột nhiên hai cánh tay mạnh mẽ xốc hắn lên. “Song tôi sẽ không giết ông
đâu, Tiến sĩ Dee ạ. Tôi có việc cần đến ông.”

“Ông là ai?” Dee hổn hển,
cố nhận ra gương mặt của người đàn ông bên trên mình.

“Tôi là Marethyu. Tôi là Thần Chết. Nhưng hôm nay, Tiến sĩ,
tôi là cứu tinh của ông đấy.”

 

CHƯƠNG CHÍN

Đã đến lúc dì Agnes phải chết.

Bà lão đứng trước tấm gương trong phòng tắm, nhìn vào hình
phản chiếu của mình. Một người già cỗi đang nhìn trả lại, một khuôn mặt tất cả
đều là góc cạnh và mặt phẳng, khung xương gò má cao, cằm nhô và mũi nhọn. Mái
tóc xám như sắt chải tém sát khuôn mặt được giữ bằng một búi tóc chặt sau gáy.
Đôi mắt màu đá xám hõm sâu trong khung xương đầu. Trông bà như một phụ nữ tám
mươi bốn tuổi. Nhưng bà là Tsagaglalal, Bà Canh Giữ, và tuổi của bà vượt quá
mọi khả năng tính toán.

Tsagaglalal cải trang thành dì Agnes đã gần hai mươi thế kỉ.
Dần dà bà thấy yêu thích thân thể này, và thật uổng khi phải để nó mất đi. Bà
đã từng đội nhiều lốt người qua các thiên niên kỉ. Mưu mẹo giỏi là biết khi nào
sống tiếp, khi nào phải chết.

Tsagaglalal đã trải qua những thời đại khi mà bất cứ ai khác
biệt - bằng cách nào đó - đều đáng ngờ. Loài người có nhiều đặc điểm tuyệt vời,
nhưng họ luôn và sẽ tiếp tục nghi ngờ, sợ hãi những ai không thuộc về đám đông.
Thậm chí trong những thời kì tốt đẹp nhất, lúc nào họ cũng đề phòng sợ sẽ có gì
đó bất ổn, hoặc cảnh giác với những ai có vẻ hơi bất thường. Từng có thời người
nào giữ được nét thanh xuân lâu dài thì người đó luôn bị ngờ vực.

Tsagaglalal đã sống suốt những thập kỉ vào thời mà đàn ông
và phụ nữ bị đem thiêu như phù thủy đơn giản chỉ vì họ trông kì quặc hoặc thẳng
thắn và không phụ thuộc. Nhưng rất lâu trước những năm kinh khủng ấy, ở châu
Âu, và sau này, gần đây thôi, ở Mỹ, bà đã biết được rằng nếu muốn sống sót, bà
phải hòa mình, phải trở thành một phần của loài người đến mức trở thành như vô
hình.

Tsagaglalal đã học cách già đi tương xứng với tuổi tác.

Mỗi thế kỉ đều có một nhận thức về những giá trị đúng đắn và
chính đáng, Có những kỉ nguyên cho rằng ba mươi là già và bốn mươi là xưa cổ.
Trong một số nền văn hóa xa xưa và tách biệt hơn, tuổi già lại được kính trọng
như một dấu hiệu của sự thông thái, bà có thể trở nên người sáu mươi hoặc bảy
mươi trước khi “chết” và sống tỉếp.

Và khi đã già, bà làm cho nó thật trọn vẹn, thay đổi nước
da, dáng điệu, thậm chí cả cơ bắp, bắt chước dấu ấn thời gian. Nhiều thế hệ
trước - ở Ai Cập, hay phải gọi là Babylon
- bà đã hoàn thành kĩ thuật tạo ra những khớp tay, cổ tay và đầu gối sưng phồng
để cho thấy chứng viêm khớp. Sau này bà đã biết được cách điều chỉnh da thịt
mình để những đường gân máu dày lên và màu xanh nổi rõ trên làn da mỏng như
giấy. Bà từng bậc thầy trong các kĩ thuật làm cho lớp da cổ mềm đi và chảy xệ,
thậm chí còn cố khiến hàm răng ngả vàng. Để hoàn tất quá trình lừa lọc này, bà
đã cố tình để cho thính giác mình cùn nhụt và thị lực mờ nhòe. Bà đã bị già, và
vì thế không mất một giây phút nào phải giả vờ. Chính đó mới là cách an toàn
hơn cả.

Chằm chặp nhìn hình phản chiếu của mình trong tấm gương ở
phòng tắm. Tsagaglalal đưa tay lên đầu, rút ra mấy cây kẹp giữ búi tóc bà nằm
yên và lắc lắc cho mái tóc bạc xổ bung.

Nửa sau của thế kỉ hai mươi là thời gian dễ sống nhất. Đây
là kỉ nguyên của sản phẩm trang điểm và phẫu thuật tạo hình. Đây là thời đại
người ta ra sức làm việc để đừng bị già, các ngôi sao điện ảnh và ca nhạc trông
trẻ hơn so với nhiều năm trước.

Tsagaglalal nhấc bộ tóc giả ra khỏi đầu. Bà thả đống tóc bạc
vào bồn tắm và mạnh tay xoa khắp khung xương sọ láng bóng. Bà ghét tóc giả, nó
luôn gây ngứa ngáy.

Tất nhiên là thế kỉ này cũng có những mối nguy hiểm riêng.
Đây là kỉ nguyên của máy quay phim chụp ảnh - máy quay phim chụp ảnh dùng cho
cá nhân, dùng trên đường phố, dùng trong an ninh, và bây giờ hầu hết các điện
thoại di động cũng đều có chức năng quay phim chụp ảnh. Đây cũng là thời đại
của việc chụp hình nhận dạng: hộ chiếu, bằng lái xe, thẻ chứng minh. Cái gì
cũng có hình, và người bất tử trong những tấm hình đó phải thay đổi, phải biến
đổi dần dần và già đi. Một sai lầm nhỏ cũng khiến nhà cầm quyền chú ý, và người
bất tử đặc biệt dễ bị tổn thương trước bất kì cuộc thẩm vấn nào hỏi về quá khứ
của họ. Tsagaglalal chưa từng rời khỏi đất nước này nhiều thập kỉ nay và hộ
chiếu Mỹ của bà đã hết hiệu lực. Tuy nhiên, có một người bất tử làm việc ở New York từng là chuyên
gia về tác phẩm giả mạo thời Phục hưng. Ông ta có một vụ làm ăn ngoài lề nho
nhỏ về hộ chiếu và bằng lái xe giả. Bà cần phải đến thăm ông ta khi chuyện này
chấm dứt. Nếu bà còn sống sót.

Tsagaglalal mở vòi nước nóng, rồi nước lạnh, hứng đầy bồn
nước. Cúi gập người, bà vốc nước vào hai bàn tay, rửa mặt bằng xà bông L’Occitane
Shea Butter, chùi sạch những thứ bà đã trang điểm dịp các Elder và người bất tử
đến họp mặt ăn uống ngoài trời ở sân sau nhà bà sớm ngày hôm nay.

Chết luôn là phần thật khó khăn. Lúc nào cũng có quá nhiều
việc phải làm trong những tuần, những tháng gần thời điểm chết: bảo đảm là tất
cả các hóa đơn đã được thanh toán, bảo hiểm nhân thọ đã gia hạn, hủy đăng kí
đặt mua báo, tạp chí dài hạn, và đương nhiên là phải lập di chúc để lại mọi thứ
cho một “người họ hàng”. Những người đàn ông bất tử thường để lại cho cháu
trai, phụ nữ bất tử thường để lại cho cháu gái. Các người khác, như Tiến sĩ
John Dee, di chúc mọi thứ cho công ty, và Tsagaglalal biết Machiavelli đã để
tất cả của cải của mình trên thế gian này cho “con trai” y. Nhà Flamel để di
chúc cho nhau và một người cháu trai tên Perrier, mà bà nghi ngờ không biết có
tồn tại bao giờ không.

Tsagaglalal nhìn vào gương lần nữa. Không có tóc và với
gương mặt đã chùi sạch các thứ trang điểm, bà nghĩ mình thậm chí trông còn già
hơn bình thường. Chồm sát vào mặt kính, bà để cho chút luồng điện hiếm khi dùng
đến nở sâu trong lồng ngực. Thoang thoảng mùi hương hoa nhài tràn ngập phòng
tắm nhỏ, trộn lẫn vào hơi ấm nồng của cây hạt mỡ. Hơi nóng chảy tràn lên thân
mình, lan tỏa lên cổ, lên mặt bà. Bà nhìn chăm bẳm vào đôi mắt xám. Màng cứng
mắt - hai tròng trắng - vàng chạch, giăng đầy những mạch máu, con mắt bên phải
hơi có màu trắng sữa vì bệnh đục nhân mắt nhẹ. Bà luôn nghĩ chi tiết đó thật sự
rất tinh tế.

Mùi hương hoa nhài mạnh hơn lên. Hơi nóng tràn vào cổ họng,
vào miệng Tsagaglalal, lên khắp hai bên má, vào mắt và màng cứng mắt trắng ra.

Người phụ nữ hít không khí vào đầy phổi, rồi giữ hơi lại. Da
mặt bà khẽ dao động và lớp thịt láng mướt, mềm mại phúng phính chảy dọc theo
đường xương thô cứng nơi cằm, lấp đầy mũi, làm cằm tròn lại. Những đường nhăn
biến mất, vết chân chim lấp đầy, bóng mắt sâu hoắm tím bầm dưới mắt không còn
nữa.

Tsagaglalal bất tử, nhưng bà không phải là người. Bà là đất
sét. Bà được sinh ra tại Thành phố Vô Danh trên bờ rìa thế giới khi luồng điện
nảy lửa của Prometheus dội tràn sinh khí và ý thức trên những pho tượng đất sét
cổ xưa. Sâu tận bên trong mình, bà mang một phần rất nhỏ luồng điện của Elder
ấy: nó giữ bà được sống. Bà và em trai, Gilgamesh, là người đầu tiên trong số
những Người Nguyên thủy được sinh ra hoặc đạt được ý thức. Mỗi lần làm mới lại
mình, bà có thể nhớ rất rõ ràng giây phút bà mở mắt và hít vào hơi thở đầu
tiên.

Bà bật cười. Tràng cười bắt đầu bằng tiếng ho khò khè của
một bà lão già cỗi và kết thúc bằng âm thanh trong trẻo cao cao của một cô gái
trẻ hơn rất nhiều.

Được làm mạnh lên bởi luồng điện của bà, quá trình biến tính
tiếp tục. Lớp thịt cứng lại, xương thẳng ra, răng trắng, thính giác và thị giác
trở nên sắc sảo một lần nữa. Một mái tóc đen nhánh hơi xoăn được trùm lên vùng
xương sọ, rồi được làm dày lên và buông xuống hai vai. Bà đóng và mở bàn tay,
ngoe nguẩy mấy ngón tay, xoay cổ tay. Đặt hai bàn tay lên hông, bà vặn người từ
bên này sang bên kia, cong gập thắt lưng, chạm lòng bàn tay tới mặt sàn.

Đứng trước gương, Tsagaglalal quan sát tuổi già rời khỏi
thân thể mình, nhìn thấy chính mình trẻ ra và xinh đẹp trở lại. Bà đã quên trẻ
trung là thế nào, và từ khi bà xinh đẹp tính đến nay đã lâu lắm rồi. Lần cuối
cùng bà trông như thế này là vào ngày Danu Talis nhấn chìm hồi mười ngàn năm
trước.

Và nếu ngày hôm nay thế giới kết thúc, bà quyết định sẽ
không trải qua vài giờ ít ỏi cuối cùng trên trái đất dưới dáng dấp một bà lão
đâu.

Tsagaglalal đi xuống sảnh tới căn phòng ngủ nhỏ để không nằm
cuối ngôi nhà trên Đường Scott. Bà sải bước uyển chuyển và dễ dàng, vui thích
với cử động tự do mới mẻ. Bà quay người đi vào giữa đầu cầu thang hoàn toàn vui
mừng vì đã có thể lướt xoay tròn.

Gần như từ khi mua nhà, phòng ngủ để không này được dùng làm
kho chứa. Nó chất đầy những thứ bừa bộn cả trăm năm: va li, sách, tạp chí, mấy
mẩu đồ gỗ, một cái ghế da nứt gãy, một cái bàn viết có trang trí và một tá bao
tải đen nhét đầy quần áo cũ mà có lần bà đã nghĩ đến việc vất bỏ vào thùng rác
cho tới khi nhận ra rằng có thể chúng sẽ thành thời trang trở lại. Có một lá cờ
Mỹ cổ trên đó các ngôi sao xếp thành vòng tròn bên cạnh một tấm áp phích được
đóng khung quảng cáo phim King Kong bản gốc do Edgar Wallace kí. Nơi cuối
phòng, ném vào một góc, một nửa đã bị chôn đằng sau một đống tạp chí National
Geographic gáy màu vàng, là một cái tủ bằng gỗ anh đào xấu xí kiểu của vua
Louis XV từ thế kỉ mười tám.

Tsagaglalal băng qua phòng, cố kéo đống tạp chí qua một bên
để đến được cái tủ. Cánh cửa tủ đang khóa và không có cái chìa nào trong lỗ
khóa tròn bằng kim loại. Đứng nhón chân, Tsagaglalal với tới cánh cửa nằm sau
một vòng cuộn trang trí bằng gỗ và những ngón tay dò dẫm của bà tìm thấy chiếc
chìa khóa lớn bằng đồng thau treo trên một cái đinh cong vòng. Nhấc chìa khóa
ra khỏi đinh, một luồng kí ức bất chợt ùa về: lần cuối cùng bà mở cái tủ này là
khi bà từ Berlin trở về vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nước mắt ứa ra
lích chích đằng sau mắt, nung đốt cổ họng bà. Trên đường trở về New York, bà đã
dừng chân ở London và gặp em trai, Gilgamesh. Ông ấy không biết mình là ai,
thậm chí còn không nhớ mình có một người chị, mặc dù cũng nhận ra là có quen
biết bà. Bà đã ngồi với ông ta nơi đống đổ nát của một ngôi nhà bị thả bom
trong khu East End của London và xem qua mười ngàn trang giấy ông đang cất ở
đó. Họ đã trải qua buổi chiều hồi tưởng về quá khứ, đi từ giấy thường đến giấy
da, rồi giấy da bê, và cuối cùng tiếp tục đến vỏ cây và những tờ giấy mỏng tang
gần như bằng vàng trong suốt, cho tới khi bà có thể chỉ ra tên mình được viết
bằng chữ in và bằng ngôn ngữ mà con người vẫn chưa khám phá ra. Họ đã cùng khóc
khi bà nhắc cho ông nhớ họ đã từng là người thế nào. “Em sẽ không bao giờ quên
chị,” ông ta nói khi bà đứng lên đi. Bà quan sát ông nguệch ngoạc viết tên bà
trên những mẩu giấy nhưng biết rằng ông sẽ chẳng thể còn nhớ mặt nhớ tên bà
trong vòng một giờ tới. Tsagaglalal đã bị nguyền rủa sẽ có một kí ức không quên
một thứ gì, còn Gilgamesh lại bị kết tội không bao giờ nhớ.

Tra chìa vào ổ khóa, bà mở cánh cửa tủ.

Không khí chớm mùi meo mốc, chút mùi da thuộc cũ kĩ, mùi gia
vị đăng đắng, mùi băng phiến khô lâu ngày và thoang thoảng hương hoa nhài.

Bộ đồng phục y tá đang treo trên mắc áo đối diện Tsagaglalal,
bà với tay chạm lấy, rà rà ngón tay khắp mặt vải mỏng. Kí ức bộ đồ gợi lên
khiến bà run rẩy. Bà đã từng làm y tá trong cả hai cuộc thế chiến, và gần như
trong mọi cuộc chiến tranh hàng trăm năm trước đây. Bà là một trong ba mươi tám
tình nguyện viên làm y tá với Florence Nightingale trong khu trại Scutari ở
Crimea. Tsagaglalal đã nhìn thấy - và đã gây ra - quá nhiều cái chết qua các
thế kỉ, phục vụ trong vai trò y tá là phương cách nhỏ nhoi để cố sửa chữa phần
nào thương tổn bà đã gây ra.

Đằng sau bộ đồng phục là quần áo của cả sáu thế kỉ nay: y
phục bằng da thuộc và vải lanh, lụa tơ tằm và sợi tổng hợp, lông thú và len. Ở
đây là những đôi giày do Marie Antoinette tặng, bộ đầm đính ngọc trai bà đã may
cho Catherine thời nước Nga Vĩ đại, chiếc áo lót Anne Boleyn bà mặc ngày cưới
Henry. Những quãng đời kí ức. Tsagaglalal mỉm cười, phô ra hàm răng hoàn hảo.
Các viện bảo tàng và các nhà sưu tập sẽ trả cả một gia tài cho những bộ quần áo
này cho xem.

Nơi lưng tủ là một cái túi dày may bằng vải bao bì.

Chẳng cần phải cố gắng Tsagaglalal giật mạnh cái túi và kéo
từ phòng để không vào phòng ngủ của mình. Bà nhấc cái túi đặt lên giường và
giật mạnh sợi dây rút bằng da thuộc. Nó khựng lại một chút, sau đó dải da cũ
đứt phựt và tan thành bụi còn chiếc túi mở bung.

Thò tay vào trong, Tsagaglalal nhấc ra một bộ giáp bằng sứ
trắng, đặt xuống giường. Trang nhã nhưng không tô điểm, bộ giáp được thiết kế
vừa khít với thân hình bà như lớp da thứ hai. Bà rà rà ngón tay khắp miếng che
ngực láng mướt. Bộ giáp cổ xưa, sáng loa lóa như còn mới. Lần cuối cùng bà mặc,
nó đã bị kim loại chém phải và móng vuốt rạch vào, nhưng bộ giáp có thể tự chữa
lành và liền khít lại. “Pháp thuật ư?” bà đã hỏi chồng mình, Abraham.

“Công nghệ của Thần Đất đấy,” ông giải thích. “Chúng ta sẽ
không nhìn thấy thứ nào như nó nữa trong nhiều thiên niên kỉ tới, hoặc hi vọng
là chẳng bao giờ.”

Nơi đáy túi, bà tìm thấy hai vỏ kiếm một bằng gỗ có trang
trí và một bằng da thuộc. Mỗi bao chứa một thanh kopesh kim loại, một dạng kiếm
cong như lưỡi liềm mà người Ai Cập rất ưa thích, dù thanh kiếm nguyên bản còn
xưa hơn nhiều. Bà kéo một thanh kopesh ra khỏi vỏ. Lưỡi kiếm sắc lẻm kêu vèo
vèo khi bà múa kiếm trong không trung.

Tsagaglalal rà rà những ngón tay có móng trắng bóng khắp bộ
giáp không có nét gì đặc biệt. Mười ngàn năm trước, chồng bà, Pháp sư Abraham,
đã tặng bà hai món vũ khí và bộ giáp này. “Để giữ bà an toàn,” ông ấy nói,
những lời lầm bầm líu ríu. “Bây giờ và mãi mãi. Khi bà mặc vào, hãy nghĩ đến
tôi.”

“Ngay cả khi không mặc, tôi vẫn sẽ nghĩ đến ông,” bà đã hứa
như vậy, và không bao giờ một ngày trôi qua mà bà không nghĩ đến người đàn ông
đã làm việc quá chăm chỉ và hi sinh quá nhiều để tạo ra và giải cứu thế giới
này.

Kí ức về ông thật sinh động.

Abraham dáng cao ráo mảnh mai đứng trong một gian phòng tối
trên đỉnh tháp pha lê, ngọn Tor Ri. Đứng chìm vào vùng tối, người ngoảnh đi
hướng khác vì thế bà không nhìn thấy Quá trình Biến đổi gần như hoàn tất kia đã
lấy đi da thịt ông, biến toàn bộ thành vàng. Bà nhớ mình đã xoay người ông ra
ánh sáng để có thể nhìn rõ vì biết có thể đây chính là lần cuối cùng. Sau đó bà
đã ôm chầm lấy ông, áp lớp da thịt lẫn kim loại của ông vào da bà, và khóc ròng
trên vai ông. Khi bà nhìn vào mặt ông, một giọt nước mắt duy nhất, một giọt
vàng ròng, lăn xuống trên má ông. Nhón chân, bà đã hôn giọt nước mắt ấy, nuốt
vào. Tsagaglalal ấn bàn tay nơi dạ dày. Giọt nước mắt ấy vẫn còn náu mình trong
người bà.

Bà Canh Giữ từng mặc bộ giáp trắng này vào ngày cuối cùng
của Danu Talis. Nay đã đến lúc mặc lại bộ giáp này lần nữa.

 

CHƯƠNG MƯỜI

Chiều dần buông, sương mù trườn vào San Francisco.

Vài búi sương xoắn trôi vào rồi dạt ra vịnh. Chúng cuộn trên
mặt nước như những sợi hơi nước, sau đó biến mất ngay. Vài phút sau sương mù
lại xuất hiện trở lại, từng dải sương hơi trong trong màu trắng xám rập rờn
băng qua làn nước.

Sương mù dày đặc.

Một hồi còi báo hiệu cho tàu bè đi trong sương mù rống vang.

Một đám mây mờ đục tụ tập bên trên vùng biển Thái Bình
Dương, mặt đáy tối sẫm - gần như đen - thấy rõ là đang lao nhanh về phía đất
liền như một bức tường hoàn toàn bằng sương mù. Màn sương bình lưu dày đặc sôi
sùng sục trên mặt đất, chảy tràn xuống cầu Cổng Vàng, rồi nở ra nuốt chửng lấy
cây cầu, vươn cao hơn cao hơn nữa, cho tới khi ánh sáng màu hổ phách dọc theo
mấy ngọn tháp nhạt đi thành những điểm màu nhỏ xíu. Những ngọn đèn hiệu đo đỏ
nhấp nháy trên đỉnh tháp, cao gần hai trăm ba chục mét so với mặt nước biển,
thắp sáng màn sương bằng những đốm loa lóa đỏ như màu máu, nhưng ánh sáng ấy
quá nhạt trở thành những đốm đùng đục. Và khi màn sương liền lạc lại thì những
đốm sáng kia hoàn toàn biến mất.

Đèn nhà và đèn đường tỏa sáng. Chỉ trong chốc lát, ánh đèn
màu đỏ màu trắng của những chiếc xe hơi rọi sáng màn sương và các tòa cao ốc có
vẻ như rộn ràng bừng sáng. Màn sương ấy tiếp tục lan ra và tối thẫm lại, làm mờ
đục những ngọn đèn kia, che phủ, cướp đi hết vẻ rực rỡ của chúng. Chưa tới ba
mươi phút - từ lúc những búi sương đầu tiên uốn éo giăng ngang qua vịnh đến lúc
đám sương mù không thể xuyên thủng xuất hiện - tầm nhìn từ gần mười mét rơi xuống
còn chưa đầy một mét.

Âm thanh nghe như nghèn nghẹn, và từ từ, toàn bộ thành phố
chìm vào im lặng. Chỉ còn lại tiếng rền rĩ của hồi còi báo hiệu cho tàu bè đi
trong sương mù, và đó thật là một âm thanh khổ sầu, cô độc.

Màn sương không có mùi biển, không có mùi muối mà nhuốm đầy
mùi hôi thối của thứ gì đó đã chết và tàn rữa lâu ngày.

 

CHƯƠNG MƯỜI MỘT

Sophie kêu thét.

Một người đàn ông da sẫm to bè chắc nịch mặc áo chùng trắng
từ trong một con hẻm lao ra, túm lấy tóc, kéo cô bé giật ngược ra sau, gần như
ngã ngửa. Đòn tae kwan do của Sophie đã phát huy tác dụng. Cô bé chụp lấy bàn
tay đó, ghì thật chặt, khóa cứng vào một chỗ, rồi chuyển trọng tâm, xoay người
chín mươi độ, và đá tung cẳng chân phải thành đòn yeop chagi - một cú đá bổng
bên hông. Gót chiếc giày bốt chạy bộ nặng trịch đá trúng tên tấn công vào ngay
xương bánh chè bằng một lực tàn sát.

Hai con mắt tên kia lồi ra, miệng há ra ngậm lại, để lộ hàm
răng xấu ghê gớm, nhưng gã chưa kịp lấy hơi để thét thì Josh đã phóng vào, đấm
một cú trời giáng bằng bốn khớp ngón tay. Cậu giáng ngay giữa thân mình gã đàn
ông, và khi gã gập người xuống phía trước, cậu liền nện một nắm đấm như búa bổ
vào ngay sau ót, khiến gã gục rũ xuống đất.

“Được rồi, ấn tượng nhỉ,” Virginia Dare nói thầm. “Tôi bảo
đảm hai cô cậu khỏi cần tôi bảo vệ.”

Josh nhìn Sophie. “Chị có sao không?”

Cẩn thận, cô bé rà bàn tay run run lên đỉnh đầu, chỗ tóc bị
giật. Mấy sợi tóc vàng hoe rơi khỏi ngón tay cô bé. “Có vẻ như những năm tập
luyện võ thuật hoàn toàn không uổng phí nhỉ.” Cô bé mỉm cười e ngại. “Cám ơn em
vì đã... ừm, em biết đó, đã cứu chị.”

Josh xua tay. “Không cần thế đâu. Cú đá này đã đủ, nhưng em
sẽ không để bất cứ một ai đặt ngón tay lên bà chị của em hết.”

“Cám ơn nhé,” cô bé nói lần nữa.

“Đã bảo em sẽ bảo vệ chị mà,” cậu nói, hai má ửng hồng.

“Ừ, em đã nói thế. Nhưng lần cuối cùng chị nhìn thấy em...”

Màu má hồng tối sầm, cậu nhún vai khó chịu. “Em biết rồi.”
Lần cuối cùng cậu nhìn thấy cô chị mình, cậu đã quan sát thấy cô bé tấn công
Coatlicue xinh đẹp rất dã man. Cậu đã quay người bỏ chạy khỏi cô bé một cách
kinh sợ. Cậu lắc đầu. “Em vẫn không biết phải suy nghĩ...”

Sophie thở ra một hơi thật dài. “Chị hiểu. Chị cũng không
biết nữa.”

“Nhưng ở đây - tại nơi này - chỉ có chị với em thôi, bà chị
ạ.”

“Lúc nào mà chẳng chỉ có chị với em,” cô bé nhắc. “Ngay cả
khi lớn lên trên Trái Đất... hồi ở nhà... bất cứ đâu cũng vậy, luôn luôn chỉ có
hai chị em mình chống lại thế giới.”

“Em biết.” Rồi đột nhiên Josh toét miệng cười, nụ cười nhắc
Sophie nhớ đến một cậu em lâu nay cô bé từng biết. “Và bây giờ chính miệng chị
nói hai chị em mình chống lại thế giới đấy nhé.”

Cô bé gật đầu. “Rất mừng khi gặp lại em, Josh.”

“Em cũng thấy vậy khi gặp chị,” cậu nói.

“Chị đã rất lo lắng cho em.”

“Mọi thứ thật...” Cậu dừng lại một chút, tìm từ thích hợp.

“Điên khùng hả?” Sophie gợi ý.

Cậu gật đầu. “Tuy nhiên, phải có một từ hay hơn cơ. Điên
khùng vẫn chưa sát ý lắm.”

“Hết thảy chuyện này đều mủi lòng ghê nhỉ,” Virginia nói. “Nhưng
tôi có thể đề nghị chúng ta nói chuyện này sau được không?” Ả lấy mũi giày bốt
thúc vào người đàn ông nằm sóng soài. Hắn rên rỉ. “Rõ ràng những kẻ này không
phải là người hâm mộ cha mẹ cô cậu. Và anh chàng đáng tiếc này chắc chắn là có
bạn bè.”

Sophie nhìn cậu em trai. “Họ có phải là ba mẹ của tụi mình
không?” cô bé hỏi.

“Em biết. Họ trông giống như ba mẹ nhưng...”

Cô bé gật đầu. “Nhưng họ không phải là ba mẹ mình.”

“Vậy thì họ là ai?” cậu em trai hỏi.

Sophie lắc đầu. “Chị nghĩ câu hỏi quan trọng bây giờ phải
là: tụi mình là ai?”

“Thì như Osiris đã nói: rồi sẽ được xem thấy phần còn lại,”
Josh nói.

Báo cáo nội dung xấu