17. Cây Gậy Phép - Phần 1

Cây Gậy Phép

Charlie quyết định
dùng phòng vẽ làm nơi gặp thầy phù thủy. Bức tranh Skarpo sẽ không bị nổi bật
lên giữa những bài vẽ khác, và nếu như bị ai đó bắt gặp, Charlie sẽ giải thích
là Emma rủ nó tới xem tranh phác thảo của con bé.

Ngay khi giờ làm bài
tập kết thúc, nó quày quả về thẳng ngay phòng ngủ chung.

“Làm gì vội vàng
vậy, Charlie Bone?” Một giọng hỏi giật đằng sau nó.

Charlie quay lại thì
thấy Manfred đang lừ lừ tiếng về phía nó.

“Có vội gì đâu.”
Charlie ráng trả lời tỉnh bơ.

“Anh muốn nói chuyện
với mày.” Manfed bảo.

“Bây giờ?”

“Ừ. Bây giờ.”
Manfred đến gần Charlie và nhìn trừng trừng vô mặt nó.

Charlie vội ngoảnh
đi ngay. Nó không thể để bị thôi miên trong khi đang phải khẩn cấp đi cứu Henry.

“Nhìn tao đây?”
Manfred ra lệnh.

“Em không muốn.”
Charlie nói. “Với lại, anh biết mà, em có thể chơi trò đấu trí với anh.”

“Hừ.” Manfred xoa
xoa cái cằm lún phún vài sợi lông tơ đang bắt đầu nhú ra.

“Anh có một bộ râu
quai nón đẹp sắp mọc kìa, Manfred.” Charlie nói.

Manfred không thể
xác định được là Charlie vô lễ hay nịnh bợ mình.

“Thôi, mày đi đi.
Nhưng cố tránh xa rắc rối đấy.”

“Vâng, thưa anh
Manfred.” Charlie chuồn lẹ.

Tại sao Manfred lại
ngăn nó? Hình như hắn đang cố tình làm chậm bước nó thì phải.

Khi Charlie bước vô
phòng ngủ chung, Billy Raven vội quay phắt ra khỏi tủ âm tường bên cạnh giường
Charlie. Tay thằng bé cầm bức tranh Skarpo.

“Mày đang làm gì
vậy?” Charlie nổi sùng.

“Em đang kiếm đồ của
em.” Billy nói, ra vẻ ngây thơ. “Em nghĩ biết đâu nó lạc vô tủ của anh. Cho nên
em kiếm thôi, xong thấy cái này rớt ra nè.”

“Sao lúc nào anh
cũng nghi ngờ em vậy?” Billy phẫn nộ. “Em nói thật mà”

“Đưa nó đây!”
Charlie gằn giọng.

“OK. OK”

Khi Billy trao bức
tranh cho Charlie, nó chỉ vô con dao găm nằm trên bàn của Skarpo.

“Nhìn con dao găm đó
kìa. Sáng quắc. Em chắc là nó sắc lắm. Em chắc là nó phải giết mấy mạng rồi.”

“Tao cũng chắc.”
Charlie ậm ừ, giật lấy bức tranh. “Mai mốt đồ đạc của tao để đâu phải để yên
đấy.”

“Xin lỗi, Charlie.”
Billy mỉm cười. “Em đâu có ý tò mò đâu.”

Charlie vội ra khỏi
phòng ngủ chung. Nó cứ chờ vài giây để chắc chắn là Billy không bám đuôi, sau
đó nó chạy xuống hành lang dẫn tới phòng vẽ.

Nó ngạc nhiên khi
thấy đám bạn đều đang chờ nó. Ngay cả Lysander cũng tới.

“Gabriel báo cho anh
biết em sắp sửa làm gì.” Lysander nói. “Anh sẽ đứng cạnh để đề phòng ai đó xộc
vô trong khi em… xuất thần.”

“Cảm ơn, anh
Lysander.” Charlie cảm kích.

Chúng chọn khoảng
trống đằng sau một trong những bức tranh sơn dầu lớn của thầy Boldova. Charlie
ngồi bệt xuống sàn, để bức họa trước mặt. Olivia và Emma quỳ hai bên nó, trong
khi Gabriel và Fidelio ngồi trên một băng ghế trước mặt nó.

Bất chợt, Charlie
bắt đầu có cảm giác nghi ngời. Nó chưa hề làm chuyện như thế này bao giờ. Nó sẽ
ra khỏi bức tranh bằng cách nào? Quả là nó chưa nghĩ ra rốt ráo về việc này.
Nhưng giờ thì đã quá trễ để rút lui.

Charlie hít một hơi
sâu.

“OK. Mình vô đây.”

“Khoan đã, Charlie.”
Gabriel bảo. “Tụi này chỉ muốn biết là… cậu sẽ đem cái ông quái dị đó vô phòng
này hả?”

“Skarpo hả? không,
em hy vọng là không. Em sẽ chỉ hỏi xin lời khuyên của ông ta thôi. Có lẽ em sẽ
mượn một cái gì đó.”

Charlie đã bắt đầu
cảm thấy quay cuồng.

“Em không…” Nó định
nói, nhưng rồi Skarpo nhìn nó, và nó nghe thấy tiếng áo chùng của thầy phù thủy
kêu sột soạt, cùng với tiếng phấn cạ kin kít vô đá.

“Vô đi.” Một giọng
nói.

Bạn bè của Charlie
mờ dần. Một màn sương trắng trôi lảng bảng quanh nó, che kín tất cả mọi thứ,
trừ gương mặt góc cạnh của thầy phù thủy, với đôi mắt vàng chói, lạ lùng.

Khi màn sương tan, Charlie
thấy mình ở trong một căn phòng lạnh buốt, thắp nến. Nó ngửi thấy mùi sáp cháy,
mùi lá thông, mùi gia vị, và mùi của những đồ vật cổ xưa đang ải mục đi. Tài
sản của thầy phù thủy không còn những đồ vật vẽ trong hình nữa, mà bây giờ
chúng rất thật: những trang giấy thô thám và lem mực, những cái lông chim mỏng
mảnh, mượt như nhung, những cái tô bằng đất sét, rỗ lỗ chỗ và mẻ sứt, những sợi
dây thắt lưng và dây đai trông sờn bóng.

Mắt Charlie dừng lại
ở con dao găm. Con dao nằm trước một cuốn sách to để mở, ngay mép chiếc bàn
dài. Ánh nến càng khiến con dao lung linh, sống động. Lưỡi dao mảnh sắc đến nỗi
trông như một luồng ánh sáng rực chói.

“Đó là thứ mi muốn
hả, thằng bé?”

Charlie giật nảy
mình. Nó đã quên bẵng là thầy phù thủy cũng có thể nhìn thấy nó.

“Mi biết thứ vũ khí
đó là cái gì không? Nó có phép đấy, nhóc.” Đôi mắt như nam châm của thầy phù
thủy lóe lên.

“Ông có thể trông
thấy cháu.” Charlie thở gấp.

“Ta thấy gương mặt
mi. Mi đã lén nhìn ta suốt mấy ngày, thằng ranh con.”

Giọng nói của thầy
phù thủy có âm điệu trầm bổng, nhưng rõ ràng không phải là tiếng xứ Wales.

“Cháu đến để xin ông
trợ giúp.” Charlie run run nói.

“Thế à?” Skarpo mỉm
cười quạu cọ. “Thế thì, chính con dao găm kia là thứ mày theo đuổi. Nó có thể
đâm vô tim và rút ra không để lại dấu vết gì. Ngay cả một vết kim châm cũng
không.”

“Cháu không muốn
giết ai cả” Charlie nói.

Skarpo chẳng màng
tới lời Charlie.

“Chỉ một cái chạm
nhẹ và thế là xong.” Hắn ta vẫn thao thao.

Billy Raven đã từng
hướng sự chú ý của Charlie đến con dao găm này. Nhưng Billy không phải là bạn
của Henry, và nếu như Charlie phải chọn thì con dao găm là thứ hạng chót.

“Cháu không muốn con
dao găm đó.” Charlie lập lại. “Cháu muốn cứu một người bạn.”

“Luôn có người muốn
nó.” Thầy phù thủy thì thầm. “Luôn có người rất muốn nó. Chúng luôn cố sức để
đoạt nó cho bằng được, nhưng không thành… Làm sao ta có thể trao nó cho được?
bọn chúng đâu phải là hạng phù thủy hoàn hảo.”

Lão Ezekiel Bloor,
Charlie nghĩ. Nó đảo mắt khắp mặt bàn. Cái gì có thể dùng để cứu Henry ra khỏi
hầm ngục được đây? Làm sao nó biết được nó phải chọn cái gì? Skarpo xem ra đang
thoái thác một cách tinh vi.

“Thảo mộc vậy nhé?”
Thầy phù thủy đề nghị. “Một liều độc dược vậy?”

“Không , xin cảm
ơn.”

“Hãy bỏ một trong
những chiếc lông thanh mảnh này vô ủng của kẻ thù của mày, và hắn sẽ đi cà thọt
cả năm.” Skarpo cười khùng khục đầy hiểm ác.

“Cháu không muốn làm
ai cà thọt cả.” Charlie bắt đầu cáu tiết. “Cháu chỉ muốn giải cứu một người
thôi.”

“Cứu người? Cứu
người không phải là mối quan tâm của ta. Ta thích hủy hoại hơn. Nếu mày muốn ai
đó bị tàn tật, bị thương chí mạng, bị đầu độc, bốc cháy, biến mất, teo túm lại,
hay phát điên, thì…”

“Tất cả những thứ đó
nghe có vẻ hữu ích đấy.” Charlie nghĩ nó nên lễ phép để lôi kéo Skarpo về phía
mình. “Nhưng ngay lúc này cháu chỉ cần một thứ gì đó mà có thể… di chuyển một
tảng đá.”

Đúng lúc đó thì
Charlie trông thấy cây gậy phép. Nó phải là một cây gậy phép thôi, bởi vì nó
không thể là bất cứ thứ gì khác được. Một cây gậy mảnh màu trắng nằm khuất sau
một trong những cuốn sách bự chảng. Nó dài khoảng nửa mét, với một đầu bịt bạc.
Charlie cầm lên.

“Mày không thể lấy
cái đó được.” Skarpo rít lên. “Nó không phải là của tao.”

“Vậy thì nó là của ai?” Charlie hỏi.

Cậy gậy phép này mát và trơn láng; và hình như nó nằm vừa vặn trong tay
Charlie, như thể nó thuộc về bàn tay ấy.

“Tao đã đánh cắp nó.” Skarpo bảo. “Nó là của một tên thầy pháp xứ Wales. Nó
sẽ chẳng có tích sự gì cho mày đâu.”

“Nhưng cháu nghĩ là có tích sự đấy.” Charlie nói, đầy kích động. “Cháu nghĩ
nó là thứ cháu cần.”

“KHÔNG!” Skarpo tính giật lấy cây gậy phép.

Charlie liền chạy quanh bàn. “Cháu sẽ đem trả lại mà. Cháu hứa.”

“Đưa nó cho ta mau.” Skarpo gầm vang. “Nếu không tao sẽ biến mày thành một
con cóc.”

“Không, cháu cần nó.” Charlie lùi xa khỏi cánh tay dài của thầy phù thủy.

“Đồ ôn dịch. Đồ ăn cướp. Mày chết này?” Skarpo vớ lấy một ngọn giáo vào
vung về phía đầu Charlie. Giấy, lông và lá cây bay tóe khỏi bàn.

Charlie lao ra môt cánh cửa thấp ở cuối căn phòng. Nó lính quýnh
vặn nấm đấm cửa nhưng cửa kẹt ngay lại, rất lẹ. Khi Charlie hụp
xuống, né cú đấm thứ hai của Skarpo, nó nhắm mắt lại và nghĩ đến
đám bạn đang ở trong phòng vẽ.

“Tôi muốn ở đó… NGAY!” Nó hét to lên.

Không có tác dụng. Nó vẫn còn ở trong căn phòng kín mít của
thầy phù thủy. Và giờ, Skarpo đang thét vang khi nâng ngọn giáo lên,
chuẩn bị phóng vô Charlie.

“Thằng lưu manh, trộm cắp hèn hạ. Tao sẽ thiêu rụi trái tim mày!”

Charlie rúc mình vô bức tường. Vô phương chạy thoát. Benjamin đã
cảnh báo nó về điều này. Tại sao nó lại không nghe Benjamin?

“Cứu tôi với!” Nó rên rỉ.

Đầu ngọn giáo sáng rực lên như một thanh sắt bị nung đỏ, rồi
thình lình bốc lửa. Trong lúc ngọn giáo đang bay về phía Charlie, Charlie
cúi gập đầu xuống và quấn áo chùng quanh cây gậy phép.

Ngọn giáo cháy rực không bao giờ chạm được tới Charlie. Khi Charlie
ngẩng lên, nó trông thấy có hai bàn tay chụp lấy ngọn giáo và phóng
nó trở lại thầy phù thủy. Đôi bàn tay đó màu nâu, có đeo những vòng
xuyến bằng vằng lấp lánh ở cổ tay; ngoài những vòng xuyến bằng
vàng lấp lánh ở cổ tay; ngoài những vòng ấy thì không có gì hết,
không hề có dấu hiệu của thân mình đâu cả.

Ngọn giáo đâm trúng bức tường rồi nảy rơi xuống chân thầy phù
thủy. Hắn thét lên khi lửa bén vô vạt áo chùng dài. Charlie không
thấy điều gì xảy ra tiếp theo, bởi vì có những cánh tay vô hình ôm
chặt quanh người nó và kéo nó ra xa. Lùi lại, lùi lại, xuyên qua
những màn sương khói đang tràn ngập căn phòng.

“CHARLIE, TRỞ LẠI MAU!”

Charlie chớp mắt. Mắt nó vẫn còn cay xè vì lửa, nhưng căn phòng
của thầy phù thủy trông nhỏ xíu xa xăm. Nó đang nhìn vô căn phòng chứ
không còn ở trong căn phòng đó nữa. Bức hình Skarpo được cầm trên hai
bàn tay màu nâu. Đôi bàn tay này đã cứu nó. Charlie nhìn lên và thấy
gương mặt thảng thốt của Lysander.

“Em làm bọn anh
đứng tim, Charlie.” Lysander bảo.

“Là bàn tay của
anh.” Charlie lẩm nhẩm. “Anh đã cứu em.”

“Không phải anh.”
Lysander nói. “Anh đã phải gọi hồn tổ tiên của anh. Mừng em đã trở
lại, Charlie.”

“Chuyện gì xảy
ra… ở đây vậy?” Charlie hỏi.

“Quá tuyệt chiêu.” Olivia thò đầu vô ngay trước mặt Charlie. “Đằng
ấy cứ lắc qua lắc lại rồi la thét. Tụi này cứ la lên, ‘Tỉnh lại!
Charlie, ra mau”

“Nhưng em không ra.” Fidelio ló mặt qua vai Olivia kể tiếp. “Cho nên
anh Lysander phải dùng tiếng châu phi để gọi tổ tiên của anh ấy. Và
sau đó thì đột nhiên, em thôi không cà giật nữa, xong có cái gì đó
xuất hiện trong tay em. Giống cái này này. Nhìn coi.”

Charlie thấy mình vẫn đang cầm cây gậy phép. Cây gậy nằm vắt trên
đùi nó, láng và trắng ngà, phía đầu bịt bạc nhấp nháy trong ánh
đèn sáng trưng của phòng vẽ.

“Nó là cái gì vậy?” Emma hỏi.

“Gậy phép.” Gabriel nói. “Tôi chắc chắn đó là một cây gậy phép.”

Charlie gật đầu.

“Skarpo không muốn em lấy cây gậy. Hắn đã đánh cắp từ tay một
thầy pháp người xứ Wales. Em biết bây giờ mình cần phải làm gì rồi!
Em sẽ phải dùng đến một trong những từ trong cuốn sách của Ông cậu
em.”

“Đằng ấy không có thời gian đâu, Charlie.” Olivia thúc giục. “Chủ
nhật này họ sẽ chuyển Henry đi, sau đó thì chúng ta sẽ không bao giờ
tìm thấy cậu ấy nữa.”

“Làm sao tụi mình vô khu bỏ hoang được?” Fidelio hỏi, kèm theo một
tiếng thở dài. “Họ trông chừng tụi mình như lũ diều hâu vậy.”

“Giá mà có Tancred thì tuyệt quá rồi, nhưng tụi mình không thể
chờ anh Tancred được.” Charlie nói. “Nhưng cũng cần phải đến thứ Bảy,
lúc đó có sự giúp sức từ bên ngoài.”

Nó đứng lên và cố giấy lấy cây gậy phép vô ống tay áo chùng,
nhưng cây gậy quá dài nên thò qua khỏi cổ tay.

“Đưa nó cho anh.”
Lysander bảo. “Tay anh dài hơn.”

Charlie đưa cây gậy
phép ra và Lysander cất nó vừa khít vô ống tay áo của mình.

“Chúng ta phải đi ngay.” Emma hối. “Bà giám thị sắp đi tuần rồi.”

Charlie giấu bức hình Skarpo trong áo chùng và sáu đứa trẻ chen
chúc nhau ra khỏi phòng vẽ.

Khi chúng bước trở lại phòng ngủ chung, bà giám thị lao sầm sập
về phía chúng, quát om.

“Chúng mày vừa đi đâu về, hả? Đèn tắt được năm phút rồi.”

“Xin lỗi, bà giám thị.” Lysander nói, nhoẻn miệng cười. “Tụi con đi
xem tranh của Emma. Và cả tranh của con nữa.”

Bà giám thị đã viết sẵn chữ “cấm túc” lên mặt bà. Bọn trẻ chờ
nghe số phận của mình. Nếu chúng bị cấm túc vô thứ Bảy, thì làm
sao chúng có thể cứu được Henry? Bà giám thị cười đắc thắng.

“Tất cả chúng mày… ” bà vừa mở miệng.

Thì một giọng nói đằng sau nhóm trẻ vang lên.

“Đó là lỗi của tôi, bà giám thị. Tôi đã cho phép chúng đấy.
Thật tình là tôi đã bảo chúng đến phòng vẽ. Cứ đổ lỗi cho thầy
giáo dạy vẽ đi được không?”

Nụ cười chiến thắng của bà Lucretia Yewbeam tắt lịm khi thầy
Boldova bước lên phía trước nhóm trẻ.

“Tôi xin lỗi vì việc này, thưa bà giám thị.” Thầy giáo dạy vẽ
tiếp. “Tôi quên mất giờ giấc.”

Rồi thầy quay qua lũ trẻ:

“Các trò nên chạy về lẹ đi. Cám ơn cái trò về những lời bình
luận tuyệt vời nhé.”

Cả sáu đứa trẻ tản như đám bụi khi thầy Boldova hỏi xin bà giám
thị lời khuyên về một vết bầm rất tệ mà thầy đã bị khi chơi bóng
bầu dục.

“Thầy Boldova thật tuyệt.” Gabriel thì thào khi ba đứa lỉnh vô
phòng ngủ chung của chúng.

“Các anh nãy giờ ở đâu vậy?” Billy dò hỏi.

“Mày sẽ không muốn biết đâu.” Charlie đáp.

Tancred và cái cây

Ở lầu trên cùng
của Ngôi Nhà Sấm, Tancred Torson đang xem xét mức độ hư hỏng của căn
phòng ngủ. Nó đá một đống giày ra khỏi lối đi và ngồi lên giường,
hay nói cho đúng là những gì còn lại của chiếc giường. Cái nệm đã
bay tuốt vô góc phòng đằng kia, tấm trải giường thì nằm một nùi rối
tung dưới chiếc tủ quần áo đổ kềnh.

Tancred đang mặc
mỗi chiếc quần ngủ với áo chùng màu xanh lá cây. Hầu hết quần áo
của nó đã rách bươm hoặc bị lấm lem đồ ăn. Mỗi khi giận dữ nó đều
phát mệt, nhưng nó chẳng làm sao kềm được. Những đợt sóng thịnh nộ
cứ thế trào ra, khiến không khí xung quanh rơi vào hỗn loạn.

Bà Torson thò đầu
qua cửa phòng.

“Con xuống ăn tối
chứ, con?” Bà hồi hộp hỏi.

“Mẹ có tin con
không?” Tancred ủ ê nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.

“Ừm, suốt ngày
nay yên ắng hơn một chút rồi.” Bà Torsson nói.

“Mẹ, con xin lỗi
vì làm mẹ nhức đầu.” Tancred lầm rầm.

“Tại con không kềm
được được thôi mà. Mẹ biết.”

Mẹ của Tancred
chạy vội xuống lầu. Có những ngày bà chỉ ước ao được sống ở nơi
nào đó khác, bên một ông chồng dễ thương bình thường và một cậu con
trai bé nhỏ, lặng lẽ. Nhưng bà yêu cái gia đình bão tố của mình, và
bất chấp những cơn nhức đầu, bà biết mình không bao giờ có thể hạnh
phúc được như vậy với bất cứ ai khác.

Tancred theo mẹ
xuống lầu và ngồi vô chỗ của mình bên bàn bếp. Ông Torsson đang đào
bới dở một suất thịt băm hấp khoai tây thật bự.

Bà Torsson đặt
một chiếc dĩa nhựa trước mặt con trai. Độ rày bà đành phải từ bỏ
đĩa sứ.

“Đây con.” bà nói,
và múc một ít bánh bột nướng nhân thịt vô dĩa của Tancred.

“Đã tới lúc con
bình tĩnh được rồi.” ông Torsson bảo con trai. “Chầu bão này kéo dài
quá lâu đấy.”

Cái ly giấy của
Tancred bay lên. May thay, đó là cái ly không.

“Con không kiềm
được, ba à.” Tancred rù rì. “Con cố kềm, nhưng không được.”

“Theo ba thì cái
thằng thôi miên ấy có liên quan tới vụ này.” ông Torsoon nói ầm ầm. “Thằng
Manfred Bloor. Thằng đó đẩy cho con bực bội thực sự, đúng không?”

“Con không muốn
nhắc tới chuyện ấy.” Tancred nói, cùng lúc chiếc mũ áo chùng đột
nhiên bay trùm lên đầu nó.

“Tự kiềm chế
coi.” Ông Torsson gầm như sấm.

Ngọn đèn bên trên
bàn ăn lắc dữ dội từ bên này qua bên kia.

“Đấy, ba cũng
chẳng khá hơn mấy.” Tancred nhận xét.

“Ba có thể điều
khiển được cơn cuồng phong.” ông Torsson nói oang oang. “Thứ chúng ta có
là một tài phép rất hữu ích, nhưng tài phép cần phải được làm cho
tập trung lại.”

“Vâng, thưa ba.”
Tancred nghiến răng lại, nhưng cửa sổ đằng sau nó bật mở ra đánh
“cạch” một tiếng thật lớn.

“Xin lỗi.” Nó lí
nhí.

Thế rồi, qua cánh
cửa sổ vừa mở, có một âm thanh rất kỳ dị. Gần như không hơn một
tiếng thì thầm, nhưng lại có tác động lạ lùng đến Tancred. Nó nhận
thấy mình đang lắng nghe tiếng nhạc mà chẳng giống thứ âm nhạc nào
khác trong thế giới thực. Nó đứng dậy, vuốt thẳng áo chùng, và cẩn
thận đẩy chiếc ghế ra sau.

“Gì vậy, Tancred?”
Ông Torsson hỏi, ngạc nhiên vì cách cư xử điềm tĩnh khác thường của
con.

“Con cần phải đi.”
Tancred nói nhẹ nhàng.

“Đi đâu?” Người cha
hỏi.

“Ra ngoài kia!”
Tancred chỉ qua cửa sổ, tới những hàng cây tối trong rừng. Nó sải
bước dài qua ba mẹ đang sững sờ, và rời khỏi nhà trước khi họ kịp
hỏi thêm bất cứ câu nào.

Mặt trăng lưỡi
liềm thả một dải ánh sáng mỏng qua rừng cây, nhưng Tancred không hề
lưỡng lự. Nó biết phải đi đường nào. Sâu vào trong rừng, nó tìm
thấy thứ mà nó đang tìm - nguồn phát ra tiếng nhạc hút hồn kia.

Đó là một cái
cây.

Cái cây màu đỏ.
Phủ đầy trên những cành nhánh mảnh mai là những chiếc lá dường như
có lửa cháy bừng bừng bên trong, và trảng trống nơi Tancred đứng được
một quầng vàng chói chiếu sáng. Những vết lằn khứa sâu vào vỏ cây,
từ nước rịn ra, nhỏ chầm chậm xuốn thân. Nhìn gần hơn, Tancred thấy
rằng thứ nước đó cũng màu đỏ, đỏ như máu vậy.

Khi Tancred lắng
nghe bài hát lặng lẽ của cái cây, nó cảm thấy một sự tĩnh lặng lạ
thường bao trùm lấy mình. Những cơn bão vẫn còn đó, sâu thẳm bên
trong. Tancred, nhưng nó biết mình có thể khống chế chúng. Phép thuật
kỳ lạ của nó đã mất quyền làm chủ.

Tancred rời khỏi
cái cây, nhưng khi gần ra khỏi khu rừng, nó ngoái nhìn lại. Luồng ánh
sáng chói lói đã biến mất, và bài hát cũng đã ngưng.

“Mẹ ủ nóng đồ ăn
cho con đấy.” Bà Torsson nói khi Tancred đi vô bếp.

“Chuyện gì ngoài
đó vậy?” Ông bố hỏi.

“Có một cái cây,
ba à. Một cái cây màu đỏ; hình như nó hát, nhưng không giống như bất
cứ bài hát nào con nghe trước giờ.”

Ông Torsson nhíu
mày.

“Ba đã từng nghe
nói về một cái cây đỏ.” Ông trầm ngâm. “Hồi ba còn nhỏ, bà nội của
con có kể cho ba nghe một câu chuyện. Khỉ thật, phải như bây giờ ba
còn nhớ được. Bà nội bảo cái cây đó là Vua Đỏ.”

“Ông tổ của chúng
ta!” Tancred kêu lên.

“Mẹ hết nhức đầu
rồi!” Bà Torsson khẽ nói.

Tancred mỉm cười.
“Ngày mai con sẽ đi gặp các bạn con.”

“Cũng tới lúc
rồi. “ Ông Torsson đáp.

Sau bữa tối, lúc
Tancred đang dọn dẹp phòng mình thì mẹ nó xuất hiện, mang theo một
chồng quần áo và tấm trải giường sạch. Như mọi lần, bà đã giấu kỹ
chúng đi trong lúc Tancred đang bị những cơn bão của mình điều khiển.

 

“Trông con khá hơn
nhiều rồi.” Bà nói nhỏ nhẹ. “Ngay cả tóc con cũng đang xẹp xuống
đấy.”

“Con khỏi rồi,
mẹ” Tancred nói.

Đêm đó nó ngủ
một giấc ngon lành nhất trong đời. Khi nó tỉnh giấc, tấm đệm vẫn
còn ở nguyên trên giường, cả tấm trải và mền gối cũng vậy. Nó mặc
đồ thật nhanh và xuống dùng một bữa sáng cực kỳ lịch sự với gia
đình. Bà Torsson thậm chí còn dọn thịt heo xông khói và trứng lên đĩa
sứ cho con.

Báo cáo nội dung xấu