Vợ phi công - Chương 11 phần 1

HAI

CHƯƠNG 11

Đôi khi cô cảm thấy như mình đã sống ba, bốn năm trong mười
một ngày. Lại có khi cô cảm thấy như chỉ mới vài phút trước Robert Hart đứng ở
cửa và thốt lên hai tiếng - Cô Lyons? - làm thay đổi cuộc đời cô. Cô không nhớ
thời gian lại xoay vòng theo cách như thế trước đây, ngoại trừ một hoặc hai
ngày thăng hoa khi cô mới gặp Jack Lyons và biết yêu, và cuộc sống lúc đó được
đo bằng phút chứ không phải bằng giờ.

Cô nằm trên giường trong phòng dành cho khách, hai tay duỗi
ra, đầu gác lên gối, nhìn thấy chiếc ghế sơn mài đỏ và biển bên ngoài. Khi cô
lái xe về nhà, trời có nắng, nhưng bây giờ bầu trời đã kéo mây, chỉ là những
cụm mây mỏng, như những giọt sữa trong ly nước. Cô tháo một chiếc kẹp bướm sau
đầu ra rồi ném xuống sàn nhà, chiếc kẹp trượt trên ván gỗ bóng rồi dừng lại tại
tấm ván lót chân tường. Sáng hôm đó cô đã quyết tâm quay về nhà, bắt đầu quá
trình dài dọn dẹp và vứt bỏ tất cả những dấu vết của mười một ngày qua để
Mattie và cô có thể dọn về từ nhà bà Julia và bắt đầu cuộc sống trở lại. Thiện
ý đó thật đáng ngưỡng mộ, Kathryn thầm nghĩ, nhưng lòng can đảm của cô đã suy
giảm và tiêu tan khi cô bước chân vào nhà bếp và trông thấy chồng báo đăng hình
Jack, cô và Mattie trên trang nhất, một tờ báo rơi vung vãi trên sàn nhà. Trên
bàn có những chiếc bánh vòng cứng như đá đựng trong túi giấy và khoảng sáu lon
nước ngọt không đường trên quầy bếp, dù ai đó đã có nhã ý đổ rác khỏi thùng,
nên ngôi nhà không bốc mùi tởm lợm như Kathryn hình dung. Leo lên cầu thang, cô
mở cửa phòng làm việc của Jack rồi liếc nhìn những ngăn kéo bị tháo ra và giấy
tờ vương vãi trên sàn nhà, sự trần trụi kỳ lạ của chiếc bàn làm việc khi không
còn thiết bị máy tính. Cô đã biết là FBI sẽ đến cùng với lệnh khám xét và tài
liệu, nhưng cô không biết chính xác là khi nào. Từ hôm làm lễ tưởng niệm trước
Giáng sinh hai ngày đến nay, cô chưa về nhà. Cũng như Robert, anh ta đã quay
lại Washington ngay sau buổi lễ. Đóng cửa phòng làm việc của Jack, Kathryn đi
hết hành lang, vào phòng nghỉ của khách, và nằm xuống giường.

Cô nghĩ mình thật ngốc khi quay lại sớm như vậy, nhưng cô
không thể bỏ mặc căn nhà mãi được. Phải dọn dẹp nó. Kathryn biết bà Julia sẽ
đến làm việc đó thay cô, nhưng cô không thể để bà làm thế. Julia đã kiệt sức,
gần như suy sụp, không chỉ vì buổi lễ tưởng niệm và phải chăm sóc cho mẹ con
Kathryn, mà còn vì tinh thần trách nhiệm cao cả của bà: Julia đã quyết tâm thực
hiện các đơn giao hàng Giáng sinh khẩn cấp ở cửa hàng. Trong lòng, Kathryn thầm
nghĩ nỗ lực sai lầm này có thể khiến bà cô gục ngã, nhưng Kathryn không thể thuyết
phục bà từ bỏ nghĩa vụ. Vì vậy hai bà cháu họ, thỉnh thoảng với sự giúp đỡ của
Mattie, đã dành ra những đêm dài để làm hộp, gói quà, rồi gạch bỏ những cái tên
và địa chỉ trong danh sách. Và Kathryn nghĩ công việc đó cũng có tác dụng chữa
trị. Bà Julia và cô đã đi ngủ khi mắt không còn nhìn thấy gì nữa, nhờ vậy họ
không gặp phải chứng mất ngủ chắc chắn khó tránh khỏi.

Tuy nhiên, sáng nay Kathryn đã kiên quyết bảo bà Julia phải
ngủ, và không ngạc nhiên khi bà cuối cùng cũng ưng thuận. Mattie cũng đi ngủ muộn
và có thể nằm trên giường đến đầu giờ chiều, như đã làm trong mấy ngày qua. Kỳ
thực, Kathryn chỉ ước sao con bé sẽ ngủ li bì suốt nhiều tháng trong một cơn
hôn mê bình yên rồi tỉnh lại với một ý thức bị thời gian mài mòn, để nó không
còn phải chịu đau đớn một cách phi lý và lặp lại hết lần này đến lần khác.
Kathryn nghĩ vì vậy mà Mattie ngủ quá nhiều, để trì hoãn khoảnh khắc nhận biết
đáng sợ đó.

Kathryn ước gì bản thân cô cũng làm chủ được cơn hôn mê như
vậy. Nhưng không, cô cảm thấy như mình đang ở trong một hệ thống thời tiết
riêng, lúc nào cũng bị ném vào người những mẩu tin tức và thông tin, đôi khi
lạnh toát trước những ý nghĩ về điều đang đợi ngay trước mắt, tan chảy trước
lòng tốt của những người khác (bà Julia, Robert và những người lạ), thường xuyên
bị ngập ngụa trong những ký ức dường như không xác định được tình huống cũng
như địa điểm, rồi sau đó đương đầu với sức nóng không thể chịu nổi từ các phóng
viên, thợ chụp ảnh, và những người qua đường tò mò. Đó là một hệ thống thời
tiết không có logic, cô nghĩ như vậy, không có đặc điểm, không có tiến triển,
không có hình dạng. Đôi khi cô không thể ngủ hoặc ăn hoặc, kì lạ nhất là, không
thể đọc nổi đến hết một bài báo. Và không phải do đề tài nói về Jack hoặc vụ
nổ, mà vì cô không thể tập trung nổi. Những lúc khác, khi nói chuyện với bà
Julia hoặc Mattie, cô không thể nói hết câu mà không quên đoạn đầu là gì, hoặc
đôi khi cô không thể nhớ mình đang làm công việc gì. Có khi cô nhận ra mình
đang áp điện thoại vào tai, một số điện thoại đang kết nối, nhưng lại không
biết mình đang gọi cho ai hoặc để làm gì. Đầu óc cô cảm thấy chật chội, như có
một sự thật quan trọng đang trêu ngươi cô ở vùng ngoại biên não, một chi tiết
mà cô phải suy nghĩ, một ký ức mà cô phải nắm bắt, một giải pháp cho một vấn đề
có vẻ như nằm ngoài tầm với của cô.

Nhưng tệ nhất là những khoảnh khắc từ tương đối bình lặng
bỗng chuyển sang tức giận, và những khoảnh khắc ấy càng khiến cô bối rối hơn vì
không phải lúc nào cô cũng liên hệ cơn nóng giận được với một người hoặc một
việc thích hợp. Nó giống như được tạo thành từ những mảnh vụn, những mẩu đá bé
xíu của một bức tranh màu xấu xí: nỗi bực dọc với Jack, tựa như anh đang đứng
cạnh cô, vì một chuyện tầm thường nhỏ nhặt như anh đã không buồn cho cô biết
tên nhân viên bảo hiểm của họ (dù cô nhận ra cô có thể dễ dàng lấy được, và đã
lấy, bằng cách gọi điện đến công ty), hoặc vì sự thật hết sức vô hại nhưng vô
cùng đau đớn rằng anh đã bỏ cô đi mãi mãi. Hoặc cơn bực tức với Arthur Kahler,
người đã chơi tennis cùng Jack trong nhiều năm trời, vì đã đối xử với cô như
thể cô là người xấu vào lần ông ta gặp cô ở cửa hàng Ingerbretson. Thậm chí
nhác thấy một đôi tình nhân tiến đến cửa hàng của bà Julia (họ vẫn sánh đôi
trong khi Jack và cô thì không) đã khiến Kathryn nổi đóa đến nỗi không buồn nói
chuyện với họ khi họ bước vào.

Kathryn biết rằng có những mục tiêu thích hợp và rõ ràng hơn
để cô chĩa cơn nóng giận của mình, nhưng, thật khó hiểu, cô thường câm như hến
hoặc bất lực trước mặt họ: truyền thông, hãng hàng không, các cơ quan toàn chữ
viết tắt, và những người hỏi han – những người hỏi han phiền toái và đáng sợ
trên điện thoại, trên đường, trên tivi, khi một phụ nữ, được hỏi có bình luận
gì trong mục phỏng vấn người qua đường về cuộc điều tra vụ tai nạn, đã quay
sang ống kính và cáo buộc Kathryn tội giấu giếm thông tin quan trọng về vụ nổ.

***

Không lâu sau cuộc thẩm vấn giữa Kathryn và nhân viên điều
tra của Ban An toàn, Robert đã đề nghị họ đi dạo. Họ rời khỏi nhà, tiến về phía
chiếc xe. Anh mở cửa cho cô, và chỉ sau khi cánh cửa đóng lại, cô mới nhớ ra là
phải hỏi xem họ sẽ đi đâu.

“Nhà thờ Thánh Joseph,” anh đáp nhanh.

“Tại sao?” cô hỏi.

“Tôi nghĩ đã đến lúc cô nên nói chuyện với một linh mục.”

Họ lái xe qua Ely, băng qua con đường cắt ngang đầm lầy muối
dẫn đến Ely Falls, ngang qua những nhà máy bỏ hoang và những cửa hàng có biển
hiệu giữ nguyên từ những năm 1960. Robert đỗ xe ngay trước nhà linh mục, một
dinh thự bằng gạch tối tăm cần được cọ rửa. Kathryn chưa bao giờ đặt chân đến
đây. Lúc còn bé, cô thường đi xe buýt vào Ely Falls với các bạn vào chiều thứ
bảy và cùng đi xưng tội với họ tại nhà thờ Thánh Joseph. Ngồi một mình trên
hàng ghế tăm tối, cô bị mê mẩn trước những bức tường đá trông có vẻ ẩm ướt,
những gian phòng gỗ chạm khắc tinh xảo nơi bạn bè cô đang ngồi xưng tội phía
sau những tấm rèm màu mận chín (các tội đó là gì, bây giờ Kathryn cũng chẳng
nhớ nổi), những bức tranh Đàng Thánh Giá[2]
đáng sợ khó rời mắt (cô bạn thân Patty Regan đã cố gắng giải thích một lần với
Kathryn về ý nghĩa những bức tranh ấy, nhưng cô vẫn không nhớ nổi), và những
quả cầu thủy tinh đỏ chói cắm những ngọn nến lập lòe mà Patty thường trả tiền
mua rồi thắp lên trên đường đi ra khỏi nhà thờ. So với nhà thờ này thì nhà thờ
tuổi thơ của Kathryn, Nhà thời Hội giám lý Thánh Matthew nằm trên Phố High ở
Ely, lại buồn chán đến khủng khiếp, một nhà thờ lợp ván màu nâu, trang trí bằng
gỗ màu vàng, có những cửa sổ ván ghép dài đón ánh mặt trời chói chang vào những
buổi sáng chủ nhật, như thể kiến trúc sư đã đặc biệt lưu ý để đưa ánh sáng và
không khí của Thanh giáo vào thiết kế của mình. Bà Julia thường dẫn Kathryn đến
lớp học giáo lý ngày chủ nhật, nhưng mật độ chuyên cần đã giảm từ lớp năm trở
đi, ở độ tuổi mà những câu chuyện trong Kinh thánh không còn khiến cô mê mẩn
như trước đó nữa. Và sau thời gian đó, Kathryn hầu như không còn đặt chân đến
nhà thờ nữa, trừ Lễ Giáng sinh và Lễ Phục sibà Julia. Đôi khi, Kathryn cảm thấy
lương tâm cắn rứt khi không cho Mattie đi học lớp giáo lý ngày chủ nhật, không
cho con gái cô cơ hội để tìm hiểu về Công giáo rồi sau đó tự quyết định giá trị
của tôn giáo cho bản thân nó, như Kathryn đã được phép làm. Kathryn nghĩ Mattie
hiếm khi nào nghĩ đến Chúa, dù trong việc này cô biết mình có thể sai.

[2] Đàng Thánh Giá: Con đường khổ nạn gồm 14 trạm thánh giá
mà Chúa Jesus đã trải qua, từ khu vườn Gethsemane, nơi Chúa Jesus bị kết án,
đến nơi Chúa Jesus được táng xác trong mồ. (Những chú thích trong sách là của
người dịch)

Trong những năm đầu mới cưới, Jack luôn tỏ thái độ hằn học
với nhà thờ Công giáo. Anh từng đi học trường dòng ở Chelsea, và có những kỷ
niệm vô cùng tồi tệ mà học sinh các trường học thuộc nhà thờ thường gặp phải,
trong đó có những hình phạt bằng đòn roi. Trước đó Kathryn cứ ngỡ không trường
học nào tệ hơn trường của cô, nó tồi tệ đến mức mỗi khi Kathryn nhớ về những
năm tháng học tại trường tiểu học Ely, hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu cô
là lớp bụi dày trên hành lang. Tuy nhiên, về sau này, sự hằn học của Jack đối
với nhà thờ dường như đã thuyên giảm, và cô tự hỏi phải chăng anh đã thay đổi
suy nghĩ. Vì anh không bao giờ nói về chuyện này, nên cô không thể nào biết
được.

Họ bước xuống xe rồi gõ lên cánh cửa gỗ lớn. Một người đàn
ông rất cao có mái tóc xoăn màu đen mở cửa.

“Mới có một người chết rất thảm,” Robert nói ngay.

Vị linh mục từ tốn gật đầu rồi nhìn từ Robert sang Kathryn.

“Đây là Kathryn Lyons,” Robert nói. “Chồng cô ấy vừa qua đời
hôm qua trong một vụ rơi máy bay.”

Kathryn cảm thấy như khuôn mặt của vị linh mục trở nên trắng
bệch trong một tích tắc rồi trở lại bình thường.

“Tôi là Cha Paul LeFevre,” ông nói với cả hai người, chìa
tay ra. “Mời vào.”

Họ đi theo linh mục vào một gian phòng rộng có những cửa sổ
hai cánh bằng thủy tinh chì và hàng nghìn quyển sách. Cha Paul ra dấu cho họ
ngồi xuống quanh một lò sưởi nhỏ màu đen. Ông khoảng bốn chín năm mươi tuổi, và
sau lớp áo màu đen là một cơ thể có vẻ cường tráng khác thường. Cô nghĩ vẩn vơ
khi ngồi ở đấy về việc các linh mục làm gì để rèn luyện cơ thể, nếu họ được
phép đi đến phòng thể hình và cử tạ.

“Con muốn tưởng niệm chồng,” Kathryn nói khi Cha Paul đã an
tọa. Ông đặt một tập giấy và một cây bút trên đùi.

Kathryn cố nghĩ đến những từ dứt khoát hơn nhưng không tìm
ra được. Cha Paul chậm rãi gật đầu tỏ vẻ thông hiểu. Kỳ thực, Kathryn có cảm
giác mơ hồ, trong suốt buổi trò chuyện, rằng vị linh mục Công giáo này biết cô
cần gì và tương lai trước mắt của cô ra sao rõ hơn cả bản thân cô.

“Con không phải là tín đồ Công giáo,” cô giải thích. “Nhưng
chồng con thì đúng là con chiên của Chúa. Anh ấy từ bé đã theo đạo Công giáo,
đi học ở các trường Công giáo. Con rất tiếc phải nói rằng đã lâu anh ấy không
đi nhà thờ.”

Có một sự im lặng khi vị linh mục tiếp nhận thông tin này.
Kathryn tự hỏi tại sao cô lại cảm thấy xin lỗi cho Jack là cần thiết.

“Còn con thì sao?” Cha Paul hỏi.

“Con từ nhỏ đã theo Hội Giám lý, nhưng con cũng không đi nhà
thờ nhiều lắm.”

Cô nghĩ cô và Jack chưa đến nhà thờ vào sáng Chủ nhật lần
nào. Những sáng chủ nhật, khi Jack ở nhà, là để dành cho giây phút thức dậy
trên giường khi vẫn còn ngái ngủ, cho khoảnh khắc với tay chạm vào nhau uể oải
dễ chịu – không một lời xen giữa, không một ngày xen giữa, những giấc mơ vương
vấn thay cho trách nhiệm - và rồi sau đó, cho lúc nằm trong vòng tay Jack khi
anh đã ngủ say.

nào khác để báo tin không?” vị linh mục hỏi.

Kathryn lưỡng lự rồi liếc nhìn Robert.

“Thưa không,” cô đáp, lúng túng nhận ra cô đang nói dối với
một linh mục trong một nhà thờ Công giáo.

“Hãy kể cho cha nghe về chồng của con,” linh mục nhẹ nhàng
nói.

“Anh ấy qua đời hôm qua do nổ máy bay. Anh ấy chính là phi
công.”

Cha Paul gật đầu. “Cha có đọc tin này trên báo,” ông nhẹ
nhàng nói.

Kathryn nghĩ xem nên mô tả về Jack thế nào.

“Anh ấy là người tốt. Làm việc chăm chỉ. Yêu thương vợ con.
Anh ấy rất thân thiết với con gái...”

Kathryn bặm môi lại, và nước mắt trào lên trong mắt cô.
Robert rướn người qua đặt tay lên tay cô. Vị linh mục kiên nhẫn chờ đợi cô bình
tâm lại.

“Anh ấy là con một,” Kathryn nói ngập ngừng. “Mẹ mất khi anh
ấy chín tuổi, bố mất khi anh ấy học cao đẳng. Anh ấy lớn lên ở Boston và đi học
ở trường Holy Cross. Anh ấy từng đi lính ở Việt Nam. Con gặp anh ấy sau đó, khi
anh ấy là phi công lái máy bay chở hàng hóa. Giờ anh ấy làm cho...”

Cô dừng lại, lắc đầu.

“Anh ấy thích câu cá và lên mạng,” cô kể khi đã có thể nói
tiếp. “Anh ấy chơi tennis. Anh ấy dành rất nhiều thời gian cho Mattie, con gái
của chúng con.”

Đây là những sự thật, cô nghĩ, nhưng còn Jack thực sự, Jack
mà cô đã biết và đã yêu, không có trong những sự thật đó.

“Anh ấy thích mạo hiểm,” cô nói đột ngột, gây ngạc nhiên cho
vị linh mục. “Anh ấy không thích những ngày mưa gió. Anh ấy vặn bánh pizza để
vắt dầu ra. Phim anh ấy thích xem là Nhân chứng. Con từng thấy anh ấy khóc khi
xem xong những bộ phim buồn. Anh ấy không chịu nổi kẹt xe. Anh ấy thà đi đường
vòng xa hơn tám mươi cây số để tránh kẹt xe trên đường cao tốc. Anh ấy ăn mặc
không cầu kỳ lắm. Anh ấy mặc đồng phục đi làm và chẳng bao giờ bận tâm nhiều
đến chuyện quần áo. Anh ấy có một chiếc áo khoác da mà anh ấy rất thích. Anh ấy
có thể rất dịu dàng và ân cần...”

Cô nhìn đi nơi khác.

“Còn con thì sao?” linh mục hỏi. “Con thấy thế nào?”

“Con ư?” Kathryn hỏi lại. “Con cảm thấy như vừa bị nhừ đòn.”

Linh mục gật đầu vẻ hiểu biết. Giống như phản ứng của chuyên
gia trị liệu, cô nghĩ.

“Còn cuộc hôn nhân của con? Nó như thế nào?”

Kathryn liếc nhìn Robert.

“Nó rất tốt đẹp,” cô đáp. “Chúng con rất mặn nồng. Con có
thể nói rằng chúng con yêu nhau trong một thời gian rất dài, dài hơn đa số
những cặp vợ chồng khác. Mà con cũng không biết người khác thế nào. Con chỉ
đoán như vậy thôi.”

“Rồi sau đó, chuyện gì xảy ra?” linh mục hỏi.

“Rồi sau đó?” cô lặp lại. “Rồi sau đó chúng con lại yêu
nhau. Chúng con chuyển từ giai đoạn yêu đương nồng thắm sang chỉ yêu thôi.”

“Chỉ yêu thôi, đó là những gì Chúa mong muốn từ các con,”
linh mục nói.

Chưa một lần nào trong cuộc hôn nhân của mình Kathryn nghĩ
đến chuyện Chúa muốn gì.

“Chúng con kết hôn mười sáu năm rồi,” cô nói.

Linh mục gác chéo chân. “Cơ trưởng Lyons đã được đưa về
chưa?”

“Được đưa về?” cô hỏi, thoạt đầu không hiểu.

“Thi thể,” linh mục đáp.

“Không có thi thể,” Kathryn nói nhanh. “Thi thể chồng con
chưa được tìm thấy.”

“Vậy thì cha đoán là con đang nói đến lễ tưởng niệm.”

Kathryn nhìn sang Robert cầu cứu. “Con nghĩ là vậy.”

“Xem nào,” Cha Paul nói, “chúng ta có thể làm một trong hai
việc. Chúng ta có thể làm lễ tưởng niệm cho Cơ trưởng Lyons, trong trường hợp
đó cha khuyên con nên tổ chức trước Lễ Giáng sinh để kỳ nghỉ lễ có thể trở
thành một phần trong quá trình chữa lành thay vì trở thành bi kịch cho cả con
lẫn con gái.”

Kathryn nghĩ ngợi về đề xuất này, cô không cảm thấy nhiều hi
vọng về nó lắm.

“Hoặc,” linh mục nói tiếp, “chúng ta có thể đợi cho đến khi
tìm thấy chồng con.”

“Không,” Kathryn kịch liệt phản đối. “Vì con gái con, vì
con, vì Jack, chúng ta cần tưởng nhớ Jack ngay lúc này. Người ta đang đóng đinh
anh ấy trên báo chí và tivi.”

Cô nghe thấy từ đóng đinh và cảm thấy ngượng ngùng vì dùng
nó trước mặt một linh mục. Nhưng đó không phải chính là điều đang thực sự xảy
ra sao? cô nghĩ. Họ đang đóng đinh danh dự của Jack, ký ức của Jack.

“Người ta nói anh ấy tự sát, anh ấy giết một trăm lẻ ba
người,” Kathryn nói. “Nếu Mattie và con không tưởng nhớ Jack, thì con không
biết còn ai làm chuyện đó.”

Linh mục quan sát cô.

“Tưởng nhớ anh ấy,” cô nói thêm, dù không thể giải thích
được hơn nữa.

“Mà con...”

Cô hắng giọng và cố gắng ngồi thẳng.

“Con rất nghi ngờ khả năng tìm thấy xác anh ấy,” cô nói.

***

Đêm hôm đó, đi đi lại lại thao thức trong nhà bếp của Julia sau khi bà và Mattie đã đi ngủ rất lâu, Kathryn bắt đầu tự hỏi liệu cô có nên báo với Cha Paul rằng còn một người thân còn sống - mẹ của Jack. Và Kathryn có sai không khi đã không báo tin cho bà biết rằng con bà đã chết? Cô nghĩ rằng mình đã sai, nhưng ý nghĩ về việc mẹ của Jack còn sống, hình ảnh một bà lão trông giống như Jack ngồi trong một viện dưỡng lão khiến Kathryn cảm thấy một tiếng động khó chịu trong không khí, như tiếng muỗi vo ve phiền toái không dứt mà cô chỉ muốn biến quách đi. Kathryn khó chịu không chỉ vì phát hiện ra Jack nói dối cô; mà chính sự tồn tại tiếp diễn của bà, một người phụ nữ mà Kathryn không biết phải làm thế nào. Không định trước, Kathryn với tay lấy điện thoại rồi gọi đến tổng đài.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3