Vợ phi công - Chương 09 phần 1
CHƯƠNG 9
Trong đời cô chưa từng thấy cái gì như thế - kể cả trên tivi
hoặc phim ảnh, khi sự chú ý, giờ thì cô đã hiểu, mất đi tính gần gũi, sự hào
nhoáng sặc sỡ, vẻ uy hiếp. Dọc đường bờ biển, trước cả khi cô và Robert về đến
đường mòn vào nhà, rất nhiều xe ô tô và xe tải đã đỗ chật kín, bánh xe tải cắm
xuống lớp cát ở vệ đường. Kathryn nhìn thấy tên của các đài truyền hình trên xe
tải, WBZ, WNBC, CNN, một người đàn ông đang vừa cầm máy quay phim vừa chạy với
một cái giá đỡ máy phức tạp trên vai. Mọi người bắt đầu đổ dồn ánh mắt về chiếc
xe, cố nhìn cho được người bên trong. Robert ngồi thu mình trước vô lăng, tựa
như họ sẽ bị tấn công bất cứ lúc nào. Kathryn cưỡng lại cảm giác thôi thúc quay
đầu đi nơi khác hoặc đưa tay lên che mặt.
“Anh nhắc giúp tôi tại sao chúng ta làm việc này?” cô hỏi,
giọng đanh lại, môi gần như không cử động.
Các phóng viên và quay phim đã chen chúc nhau trước cánh
cổng gỗ quấn kẽm gai. Cô và Jack không hề chọn cánh cổng đó; nó là vật còn sót
lại từ thời tu viện. Kỳ thực, Kathryn còn thấy bất ngờ khi cánh cổng vẫn còn
dùng được: Jack và cô chưa bao giờ có ý định gắn chặt nó lại.
“Chúng tôi sẽ cử người đến nhà bà của cô,” Robert nói.
“Bà Julia sẽ không thích thế đâu.”
“Tôi e trong trường hợp này bà cụ không có lựa chọn. Sau
này, có lẽ cụ sẽ cám ơn tôi vì đã làm thế.”
Anh ra dấu về phía đám đông bên ngoài chiếc xe.
“Bọn họ sẽ tràn lên bãi cỏ nhà Julia trước khi bà cụ kịp
chớp mắt.”
“Tôi không muốn họ bén mảng đến gần Mattie,” Kathryn nói.
“Trông cụ Julia rất đáng sợ,” Robert đáp. “Tôi nghĩ mình
không dám đi qua trước mặt cụ ấy.”
Một người đàn ông đập mạnh vào cửa kính xe, khiến Kathryn
giật bắn mình. Robert cho xe tiến về trước, cố gắng đến gần cánh cổng. Anh nhìn
qua kính chắn gió, tìm kiếm một cảnh sát, và gần như ngay lập tức, chiếc xe bị
bao vây, tiếng đàn ông đàn bà hét ầm ĩ qua lớp kính.
“Bà Lyons, bà có nghe đoạn băng chưa?”
“Có phải là bà ấy không? Wally, có phải là bà ấy không?”
“Tránh ra, để tôi thấy rõ mặt bà ấy nào.”
“Bà có bình luận không, thưa bà Lyons? Bà có nghĩ đó là tự
sát không?”
“Ai đang đi cùng bà ấy vậy? Jerry, đó có phải là người của
hãng hàng không không?”
“Bà Lyons, bà giải thích thế nào...?”
Kathryn cảm thấy những giọng nói như tiếng chó sủa. Những
cái miệng trông như bị phóng to, nhễu nhão nước dãi, những sắc màu xung quanh
cô trồi lên rồi hạ xuống. Cô chợt nghĩ phải chăng mình sắp ngất. Làm sao cô có
thể trở thành tâm điểm của quá nhiều sự chú ý, trong khi cô chỉ là một con
người sống cuộc đời bình thường nhất trong những hoàn cảnh bình thường nhất?
“Chúa ơi,” Robert thốt lên khi một ống kính máy quay phim va
mạnh vào cửa xe. “Gã đó vừa tự làm vỡ máy quay của mình.
Ngồi thẳng lên để nhìn rõ đám đông phía trước, Kathryn trông
thấy Burt Sears, người đàn ông có tướng dong dỏng cao thời trai trẻ, nhưng nay
lưng đã còng, đang đi đi lại lại phía sau cánh cổng. Ông ta chỉ mặc nửa bên
trên của bộ đồng phục, có vẻ như không kịp tìm thấy cả bộ trong lúc vội vã ra
khỏi nhà. Kathryn vẫy tay qua lớp kính xe, cố làm ông ta chú ý, nhưng trông
Burt như bị choáng, hai mắt không tập trung, và chẳng thể làm gì khác ở bên này
cánh cổng như Kathryn và Robert đang bất lực ở bên kia. Ông ta chậm chạp vung
tay thành hình tròn với vẻ thiếu tự tin, như đang điều khiển giao thông nhưng
lại không giỏi việc này.
“Là Burt đấy,” cô nói. “Ông ấy đang đứng sau cánh cổng. Ông
ấy về hưu rồi, nhưng được gọi lại để làm việc này.”
“Cô lái đi,” Robert nói. “Nhớ khóa cửa sau khi tôi xuống.
Ông ấy họ gì?”
“Sears.”
Với một chuyển động thuần thục, nhanh đến mức chưa nhìn thấy
đã kết thúc, Robert bước ra khỏi xe và đóng sầm cửa lại. Kathryn lóng ngóng
trườn qua bộ cần số sang ghế tài xế và khóa cửa lại. Cô nhìn Robert đút tay vào
túi áo choàng rồi len lỏi qua đám phóng viên và quay phim. Anh gọi tên Burt
Sears to đến nỗi mọi người đều dừng lại để nhìn người đang rẽ đám đông bước
tới. Kathryn bắt đầu cho xe tiến vào khoảng trống mà Robert đã tạo ra khi anh
đi về phía trước.
Điều gì sẽ xảy ra, cô tự hỏi, nếu bức tường người trước mặt
cô không chịu tách ra?
Cô nhìn Robert mở cổng. Nhìn đâu cô cũng thấy máy quay phim,
đàn bà mặc vest, đàn ông mặc áo gió màu sắc sặc sỡ, song cô vẫn nhích từng chút
một về trước, tiến đến cánh cổng theo bàn tay kiên quyết của Robert. Cô thoáng
lo đám đông sẽ theo cô vào nhà, giống như một đoàn đưa tang - một đoàn đưa tang
ghê tởm với bà góa kẹt trong xe, như con bọ dưới kính hiển vi. Nhưng một quy
tắc bất thành văn, quy tắc mà cô không biết đến và cũng chẳng hiểu nổi, đã
khiến đám đông dừng lại sau cánh cổng trong khi họ hoàn toàn có thể tràn qua
Burt và Robert. Sau khi đã vào trong sân, cô dừng
“Đi,” Robert ra lệnh, chui vào xe.
Hai tay run rẩy, cô nổ máy và bắt đầu cho xe nhích về trước.
“Không, ý tôi là ra khỏi xe,” Robert nói cộc lốc.
***
Cô đã nghĩ, khi mới nhìn thấy đám đông trước cổng, rằng ngôi
nhà sẽ là nơi trú ẩn nếu Robert và cô có thể đến được đó. Nhưng cô nhanh chóng
nhận ra sự thật không phải như vậy. Có bốn chiếc xe mà cô chưa thấy trước đó
đang đỗ trên đường mòn vào nhà, một chiếc đỗ cẩu thả, cửa còn mở, tiếng chuông
báo hiệu kêu inh ỏi trong xe. Bốn chiếc xe đồng nghĩa với ít nhất từng ấy người
lạ.
Cô tắt máy xe.
“Cô không cần phải làm việc này bây giờ,” anh ta nói.
“Nhưng sớm muộn gì cũng phải làm thôi,” cô đáp.
“Có thể.”
“Tôi có nên gọi luật sư không?”
“Liên đoàn đang lo chuyện này.” Anh ta đặt tay lên vai cô.
“Chỉ cần đừng đưa ra những câu trả lời mà cô tuyệt đối không chắc chắn.”
“Tôi chẳng chắc chắn về chuyện gì cả,” cô đáp.
Họ đang ở trong nhà bếp và phòng khách, những người đàn ông
mặc đồng phục đen và vest màu tối, Rita mà cô đã gặp hôm qua đang mặc vest màu
xám nhạt. Một người đàn ông cao to đeo kính gọng oval và vuốt gel ướt tóc tiến
đến chào Kathryn trước tiên. Cô nhận ra cổ áo đâm vào cổ của ông ta, và mặt ông
ta rất xúc động. Ông ta di chuyển lắc lư, như những người nặng nề, bụng đi
trước người bước theo sau.
“Chào chị Lyons,” ông ta nói, chìa tay ra. “Tôi là Dick
Somers.”
Cô để ông ta nắm tay cô. Cái bắt tay của ông ta rất quyết
đoán và ẩm ướt. Điện thoại đổ chuông, và cô thấy nhẹ nhõm khi Robert không phải
để cô trả lời.
“Ông đến từ...?” Kathryn hỏi.
“Tôi là điều tra viên của Ban An toàn. Cho phép tôi nói rằng
tôi rất lấy làm tiếc, tất cả chúng tôi đều lấy làm tiếc, trước sự mất mát khủng
khiếp của chị.”
Kathryn nghe thấy một giọng nam trầm đều trên tivi ở phòng
khách.
“Cám ơn ông,” cô đáp.
“Tôi biết đây là thời điểm khó khăn cho chị và con gái chị,”
ông ta nói tiếp.
Khuôn mặt cô hẳn đã hiện lên vẻ cảnh giác trước từ con gái,
vì cô thấy ông ta nhanh chóng nhìn lướt khắp người cô.
“Nhưng tôi phải hỏi chị một số câu,” ông ta nói.
Trên quầy bếp có những cốc cà phê bằng nhựa xốp, hai hộp
bánh donut Dunkin màu hồng tươi trên bàn. Kathryn chợt thèm ăn donut khủng
khiếp, một chiếc donut trơn nhúng vào cà phê nóng, tan ra trong cà phê khi cô
đưa vào miệng. Cô nhớ lại mình chưa ăn gì trong ba mươi sáu giờ qua.
“Đồng nghiệp của tôi, Henry Boyd,” Somers nói, giới thiệu
một người đàn ông trẻ hơn, có ria mép màu vàng.
Cô bắt tay người đồng nghiệp.
Bốn người đàn ông khác tiến đến để được giới thiệu, họ mặc
đồng phục Vision, mũ kẹp dưới cánh tay, bộ đồng phục, với những chiếc nút mạ
vàng và sự quen thuộc của nó, khiến Kathryn khó thở. Họ đến từ hãng hàng không,
từ văn phòng cơ trưởng, họ nói, và Kathryn nghĩ những lời chào hỏi này thật kỳ
lạ, những sự tử tế này, những lời chia buồn này, những lời chia buồn đầy thận
trọng, trong khi tất cả họ đều hiện lên sự chờ đợi căng thẳng rõ mồn một.
Một người có tóc cắt ngắn tiến lên cao hơn những người còn
lại.
“Chị Lyons, tôi là Cơ trưởng Bill Tierney,” ông ta nói.
“Chúng ta có nói chuyện một chút trên điện thoại hôm qua.”
“Vâng,” cô đáp.
“Cho phép tôi lần nữa bày tỏ sự đau buồn sâu sắc của tôi và
toàn thể hãng hàng không về sự ra đi của chồng chị, về sự mất mát của riêng
chị. Anh ấy là một phi công xuất sắc, một trong những phi công giỏi nhất của
chúng tôi.”
“Cám ơn ông,” cô đáp.
Những từ đau buồn sâu sắc dường như trôi bồng bềnh trong
không khí nhà bếp. Cô tự hỏi tại sao tất cả những từ ngữ biểu thị sự chia buồn
đều nghe có vẻ quá uể oải, quá giống nhau. Chẳng lẽ không còn cách nói nào khác
để bày tỏ sự đau buồn sao? Hay sự trịnh trọng mới là điểm mấu chốt? Cô nghĩ đến
chuyện cơ trưởng đã phải hình dung bao nhiêu lần cảnh ông ta nói những lời này
với vợ góa của các phi công, có lẽ đã phải tập nói trước ở nhà. Từ trước đến
nay, hãng hàng không còn khá mới này chưa bao giờ xảy ra chết người.
“Ông có thể nói gì với tôi về đoạn băng?” cô hỏi cơ trưởng.
Tierney bặm môi và lắc đầu.
“Chưa có thông tin nào về đoạn băng được tiết lộ một cách
chính thức,” Somers đáp, tiến lên một bước.
“Tôi hiểu điều đó,” Kathryn nói, quay sang điều tra viên.
“Nhưng ông biết chuyện gì đó, phải không? Ông biết trong băng có gì.”
“Không, tôi e rằng tôi không biết,” ông ta đáp.
Nhưng sau gọng kính, ánh mắt của điều tra viên lộ vẻ lẩn
tránh và ma mãnh.
Kathryn đứng ở giữa nhà bếp, mặc quần jean, áo khoác và mang
bốt, trở thành đối tượng bị soi mói. Cô cảm thấy thoáng ngượng ngùng, như vừa
phạm phải một sai lầm ứng xử nghiêm trọng.
“Trong các ông có một người quên đóng cửa xe,” cô nói, ra
dấu về hướng đường mòn vào nhà.
“Sao chúng ta không ra phòng khách ngồi nhỉ?” Somers đề
nghị.
***
Cảm thấy lạ lẫm với chính ngôi nhà của mình, Kathryn bước
vào phòng khách và nheo mắt trước ánh sáng rọi vào từ sáu chiếc cửa sổ hình
thuôn. Chỉ còn một chỗ ngồi, một chiếc ghế bành khổ lớn nhìn ra cửa sổ, ghế của
Jack, không phải của cô, và cô cảm thấy bé nhỏ khi đứng trước hai tay vịn của
chiếc ghế. Bấy giờ cô mới nhận ra tivi đã được tắt có vẻ như Somers là người
chủ trì. Ông ta đứng trong khi tất cả mọi người đều ngồi.
“Tôi sẽ chỉ hỏi chị một hoặc hai câu thôi,” ông ta vừa nói
vừa đút tay vào túi quần. “Sẽ mất không đến một phút. Chị có thể cho chúng tôi
biết chồng chị cư xử thế nào trước khi ra sân bay vào hôm chủ nhật được không?”
Kathryn thấy không ai lấy máy ghi âm ra hoặc viết gì xuống
cả. Phong cách của Somers có vẻ cực kỳ thoải mái. Vậy đây không thể là cuộc vấn
đáp chính thống, phải không nhỉ?
“Cũng chẳng có gì nhiều để kể,” cô đáp. “Như thường lệ. Jack
đi tắm lúc khoảng bốn giờ chiều, mặc đồng phục, đi xuống cầu thang, rồi đánh
bóng giày.”
“Lúc đó chị ở đâu?”
“Tôi gặp anh ấy trong nhà bếp. Để chào tạm biệt.”
Hai tiếng tạm biệt làm dấy lên một nỗi buồn, cô cắn môi. Cô
cố gắng nhớ lại ngày chủ nhật, ngày cuối cùng Jack ở nhà. Thỉnh thoảng cô có
những ký ức rời rạc, những giấc mơ đứt quãng, như những ánh bạc lóng lánh trong
đêm tối. Cô có cảm giác như đó là một ngày bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Cô nhìn thấy Jack đặt chân lên hộc tủ kéo ra, tay cầm chiếc khăn kẻ ca rô màu
xanh đã cũ khi cô đi ngang qua nhà bếp để đến phòng giặt. Cánh tay anh, như dài
hơn dưới sức nặng của chiếc túi khi anh đi từ nhà ra xe. Anh đã nói câu gì đó
từ xa. Lúc đó cô đang cầm chiếc khăn. Nhớ gọi điện cho Alfred nhé. Hẹn ông ta
thứ sáu.
Anh đã đánh bóng giày. Anh đã rời khỏi nhà. Anh sẽ về nhà,
như anh nói, vào thứ ba. Cô đang đứng bất động tại cửa, cảm thấy hơi khó chịu
vì anh không tự làm việc ấy. Gọi điện cho Alfred.
“Theo chị biết, hôm đó Jack có gọi điện cho ai không?”
Somers hỏi. “Có nói chuyện với ai không?”
không biết,” cô đáp.
Cô tự hỏi: Liệu Jack có thể nói chuyện với ai khác vào hôm
đó không? Tất nhiên là có thể lắm. Không biết chừng anh có thể đã nói chuyện
với hai mươi người.
Robert khoanh tay trước ngực. Trông như anh đang thích thú
săm soi chiếc bàn cà phê. Trên bàn có những quyển sách nghệ thuật, một chiếc
đĩa bằng đá mà Jack và cô đem về từ Kenya, một chiếc hộp tráng men từ Tây Ban
Nha.
“Thưa chị Lyons,” Somers nói tiếp. “Chồng chị có biểu hiện
cáu bẳn hoặc trầm cảm trong ngày hôm đó hoặc đêm hôm trước không?”
“Không. Không có gì bất thường cả. Tôi chỉ nhớ là hôm đó vòi
sen bị rỉ nước, và chuyện đó có làm anh ấy bực mình một chút, vì chúng tôi mới
sửa lại. Tôi nhớ anh ấy dặn tôi gọi điện cho Alfred.”
“Alfred là ai?”
“Alfred Zacharian. Thợ sửa ống nước.”
“Và anh ấy dặn chị gọi điện cho Alfred khi nào?”
“Thật ra là hai lần. Một lần ở trên lầu, khoảng mười phút
trước khi anh ấy đi làm. Lần thứ hai là khi anh ấy đi ra xe.”
“Jack có uống rượu trước khi lái xe ra sân bay không?”
“Đừng trả lời câu đó,” Robert nói, hơi chồm về trước trên
sofa.
Kathryn bắt chéo chân và nhớ lại chai rượu vang cô và Jack
đã uống trong bữa tối thứ bảy rồi uống tiếp sau khi ăn tối, và cô nhanh chóng
tính toán số giờ từ lần cuối cùng anh uống rượu đến khi bay. Ít nhất mười tám
giờ. Như vậy thì không sao. Người ta hay nói thế nào nhỉ? Mười hai giờ từ l đến
lúc lái xe?
“Không sao đâu,” cô nói với Robert. “Chẳng uống gì cả,” cô
nói với Somers.
“Chẳng uống gì cả?”
“Chẳng uống gì cả.”
“Chị có xếp quần áo vào vali cho anh ấy không?” ông ta hỏi.
“Không, tôi không bao giờ làm việc đó.”
“Còn túi bay của anh ấy?”
“Không. Tuyệt đối không. Thật tình là tôi chưa bao giờ nhìn
xem trong túi có gì.”
“Chị có thường lấy quần áo ra khỏi vali anh ấy không?”
“Không. Đó là nhiệm vụ của Jack. Anh ấy tự lo vali túi xách
của mình.”
Cô nghe những từ đó, tự lo. Thì hiện tại.
Cô nhìn quanh một lượt những người đàn ông trong phòng, họ
đều đang quan sát cô chăm chú. Cô tự hỏi phải chăng hãng hàng không cũng muốn
thẩm vấn mình. Cô nghĩ có lẽ nên mời luật sư đến lúc này. Nhưng nếu đúng là
vậy, thì chẳng phải Robert đã nói rồi sao?
“Chồng chị có bạn bè thân thiết ở Vương quốc Anh không?”
Somers hỏi. “Anh ấy có thường xuyên nói chuyện với ai ở đó không?”
“Ở Vương quốc
“Ở Anh.”
“Tôi biết Vương quốc Anh nghĩa là gì,” cô đáp. “Tôi chỉ
không hiểu câu hỏi đó có liên quan gì thôi. Anh ấy quen biết rất nhiều người ở
Anh. Anh ấy bay cùng họ mà.”
“Chị có nhận thấy những khoản rút hoặc gửi tiền bất thường
nào trong tài khoản của chị không?” Somers hỏi.
Cô thắc mắc họ đang muốn lái câu chuyện đến đâu, tất cả
những điều này có ý nghĩa gì. Cô cảm thấy mặt đất dưới chân chuyển động, tựa
như bất cứ lúc nào cô cũng có thể bước hụt chân xuống vực thẳm.
“Tôi không hiểu,” cô nói.
“Trong vài tuần vừa qua, hoặc vào bất cứ lúc nào, chị có
nhận thấy khoản rút hoặc nạp tiền bất thường nào trong tài khoản ngân hàng của
chị không?”
“Không.”
“Trong vài tuần qua chị có nhận thấy hành vi bất thường nào
ở chồng chị không?”
Cô phải trả lời câu hỏi này, vì Jack. Cô muốn trả lời nó.
“Không,” cô đáp.
“Không có gì bất bình thường à?”
“Không có gì.”
Rita, từ hãng hàng không, bước vào phòng, và những người đàn
ông ngước lên nhìn cô ta. Dưới lớp áo vest của cô ta là một chiếc áo lụa cổ
tròn. không nhớ nổi lần cuối cùng mình mặc vest là khi nào. Ở trường, hầu như
lúc nào cô cũng mặc quần tây và áo len, thỉnh thoảng áo khoác, đôi lúc mặc quần
jean và mang bốt khi trời xấu.
“Chị Lyons?” Rita nói. “Con gái chị gọi điện. Nó nói phải
nói chuyện với chị ngay.”
Hoảng hốt, Kathryn lao ra khỏi ghế và đi theo Rita vào nhà
bếp. Cô liếc nhìn đồng hồ trên bồn rửa: chín giờ mười bốn.
“Mattie,” cô nhấc điện thoại lên.
“Mẹ à?”
“Có chuyện gì? Mọi chuyện ổn cả chứ con?”
“Mẹ, con gọi cho Taylor khi nãy. Vì con muốn có người để nói
chuyện. Và thái độ cậu ấy rất kì lạ?”
Giọng Mattie cao và đanh lại, kinh nghiệm cho Kathryn biết
đó là biểu thị cho sự kiềm nén cực độ trước một cơn bộc phát tức thời. Kathryn
nhắm mắt lại, áp trán vào tủ.
“Nên con hỏi cậu ấy là có chuyện gì,” Mattie nói tiếp, “và
Taylor bảo trên tivi người ta nói đó là tự sát?”
Kathryn có thể hình dung khuôn mặt Mattie ở đầu dây bên kia,
đôi mắt ngờ vực mở to hoảng hốt. Kathryn có thể tưởng tượng tin tức đó đã làm
tổn thương Mattie thế nào, con gái cô hẳn rất ghét phải nghe tin đấy từ Taylor.
Còn Taylor, chỉ là một cô gái mới lớn, hẳn đã cảm thấy hí hửng khi là người
tiết lộ tin này với Mattie. Rồi sau đó Taylor hẳn sẽ cảm thấy thôi thúc phải
gọi điện cho hết thảy bạn bè của hai đứa để kể lại chi tiết phản ứng của
Mattie.
“Ôi, Mattie à,” Kathryn nói. “Chỉ là tin đồn thôi con.
Truyền thông mà, họ nghe thấy gì là đăng tin ngay mà chẳng cần kiểm chứng. Thật
kinh khủng. Thật vô trách nhiệm. Và điều đó hoàn toàn không đúng. T không đúng.
Mẹ đang ở với các cô chú trong Ban An toàn của hãng hàng không đây, và họ biết
vậy, nên họ kịch liệt phản bác tin đồn này.”
Im lặng.
“Nhưng mẹ ơi, nếu nó là thật thì sao?”
“Nó không thật đâu con à.”
“Sao mẹ biết?”
Kathryn nhận ra sự cáu gắt trong giọng nói của con gái.
Không thể nhầm lẫn. Tại sao cô không nói cho con biết sự thật khi họ đi dạo vào
sáng hôm đó?
“Mẹ chỉ biết vậy thôi,” Kathryn đáp.
Lại im lặng.
“Có thể là thật đấy,” Mattie nói.
“Mattie, con biết bố con mà.”
“Có thể.”
“Thế là sao?”
“Có thể con không biết gì về bố,” Mattie đáp. “Có thể bố
không vui.”
“Nếu bố không vui thì mẹ đã biết rồi.”
“Nhưng làm sao mẹ biết là mẹ biết về một người nào đó?” nó
căn vặn
Câu hỏi ấy lập tức chặn đứng màn hỏi đáp qua lại giữa họ,
cho phép một đợt sóng bất an dâng lên trước mặt Kathryn. Nhưng cô biết lúc này
Mattie không muốn có bất an, dù nó có thách thức mẹ bao nhiêu đi nữa. Kathryn
biết chắc như thế.
“Con có thể cảm nhận được mà,” Kathryn đáp, vẻ quả quyết hơn
là chắc chắn.
“Mẹ có cảm thấy là mẹ biết về con không?” Mattie hỏi.
“Khá rõ,” Kathryn đáp.
Và rồi Kathryn nhận ra cô đã mắc bẫy. Mattie rất giỏi việc
này, lúc nào cũng thế.
“Thật ra thì mẹ không biết đâu,” Mattie nói với một giọng
hài lòng xen lẫn lo âu. “Một nửa thời gian mẹ không biết con nghĩ gì.”
“Thôi được,” Kathryn nhượng bộ. “Nhưng chuyện đó khác.”
“Không, chẳng có gì khác.”
Kathryn ấn cườm tay lên trán, day day.
“Mẹ ơi, nếu đó là sự thật, thì có phải là bố đã giết những
người đó? Đó có phải là tội giết người không?”
“Con nghe thấy từ đó ở đâu vậy?” Kathryn hỏi nhanh, như thể
Mattie là một đứa bé mới thốt ra một từ tục tĩu nghe được ở trường hoặc một đứa
bạn. Nhưng đó là một từ thật sự thô tục, Kathryn nghĩ. Nó thật đáng sợ. Càng
đáng sợ hơn khi thốt ra từ miệng cô con gái mười lăm tuổi của cô.
“Connghe thấy ở đâu hết mẹ ạ. Nhưng con cũng biết suy nghĩ
mà, phải không?”
“Nghe này, Mattie. Con đợi một chút. Mẹ sẽ đến đó ngay.”
“Không, mẹ à. Đừng đến đây. Con không muốn mẹ đến. Con không
muốn mẹ đến đây rồi cố gắng nói với con những lời dối trá để làm mọi chuyện tốt
đẹp hơn. Vì bây giờ con không muốn nghe lời nói dối nào cả. Chuyện không thể
tốt đẹp hơn, và con không muốn giả vờ. Con chỉ muốn được yên thân.”