Bão đồng - Chương 06 - Phần 1

- 6 -

Đây không phải lần đầu xe của huyện xuống trại lợn Phương
Lưu xẩy ra xô xát. Nhưng đúng như các nhà viết sử nói: lịch sử không lặp lại
hai lần, chỉ có thể lần sau diễn ra giông giống lần trước, chứ không y hệt lần
trước. Đúng vậy.

Khác chăng là lần trước, mới cách đây hơn năm, diễn ra ngay
trong trại lợn, cũng với một chiếc xe tải của huyện xuống trước, sau đó là
chiếc u-oát đưa ông phó chủ tịch Hưởng xuống “ứng cứu”. Y hệt lần này.

Nhưng không phải vậy. Lần trước tính chất của vụ việc chỉ bé
bằng mắt muối, chỉ có một ít xã viên chăn nuôi lời qua tiếng lại mang tính bột
phát. Và cuối cùng, Hưởng vẫn chỉ đạo lấy được đủ sáu chiếc giường mang về trả
cho nhà khách uỷ ban huyện.

Còn lần này tới hàng trăm người, nếu kể cả trẻ con ở mấy lớp
học đang giờ chơi đổ ra nữa, thì chẳng biết đến những bao nhiêu trăm người.
Chẳng biết những bao nhiêu trăm người, nên mức độ cũng nghiêm trọng hơn nhiều
là cái chắc. Nhưng lý do xô xát lại mờ mịt hơn nhiều. Chứ không ư. Lần trước
chỉ là sự tức bực vì phải nằm những cái giường cọc tre kẽo kẹt, nên mấy người
chăn nuôi cố tình giữ lại những cái giường gỗ chắc, đẹp, đưa từ nhà khách huyện
xuống, dù là đưa xuống với mục đích chỉ để làm đẹp mặt cho xã, cho huyện đi
chăng nữa, thì đã đưa xuống trại cũng có nghĩa là của trại rồi còn gì. Cái lý
của mấy người chăn nuôi giữ giường là rõ ràng như thế. Còn cái lý của những
người đang đứng chắn xe ở cổng làng đây, dẫu có hỏi mấy ông già bà cả, chứ hỏi
đến ngay người đang chỉ huy tổ cờ đỏ tắc xe, vì sao các người lại ngăn trở xe
của huyện chạy vào làng? Thì họ cũng không hề hé răng lấy nửa lời, mà chỉ ư hèm
rằng chúng tôi được lệnh trên không cho bất cứ phương tiện giao thông và người
lạ mặt nào vào làng, thế thôi. Hỏi “lệnh trên” là trên nào, xã, huyện, hay đâu
nữa? Không ai hé răng. Tất cả như hũ nút. Không còn hiểu sự thể là thế nào? Làm
sao cái làng ở choi loi nơi cuối xã này, lại bỗng dưng rào chắn đường đi, lối
lại là nghĩa làm sao? Ừ, thì bây giờ đi đến đâu chả thấy những trạm kiểm soát
là kiểm soát, hết liên ngành lại công an, thuế vụ tắc xe tải, xe trâu, xe ngựa,
kể cả xe đạp, xe cải tiến. Đi xe không thì thôi, còn không, hễ trên xe có cái
gì là đều bị tắc lại hỏi giấy tờ, kiểm tra, thôi thì từ chục trúng, con gà,
buồng chuối, mớ khoai, ống gạo đến thịt thà, ngan vịt, lợn con xuất chuồng, chứ
lợn to, trâu bò thì từ lâu cấm tịt, bố ai dám mang, trừ ông mậu dịch. Tất tần
tật hàng hoá, đồ ăn thức đựng đến súc vật, đã vận chuyển trên đường, bất cứ
bằng phương tiện gì, cũng đều bị các trạm kiểm soát, mọc ra như nấm tháng ba,
trên các ngả đường dừng lại hạch sách. Vậy thì cái việc làng Phương Lưu tự
nhiên nhi nhiên dựng lên cái ba-ri-e, với một tổ cờ đỏ thường xuyên túc trực,
để ngăn không cho xe cộ và người lạ vào làng cũng là hợp trào lưu, chứ chả có
gì là sai.

Nhưng chắn gì thì chắn, xe của huyện xuống, nhất lại có cả
xe con của lãnh đạo huyện, thì cờ đỏ của làng, chứ cờ đỏ của xã cũng phải nâng
cây chắn lên cho xe đi đã. Mà xe này có chạy vào làng đâu mà không cho vào. Xe
này chỉ chạy qua làng ra trại chăn nuôi, nằm phía cuối làng kia thôi. Hưởng
xuống xe nói đến bã bọt mét, hết với ông đội phó Tinh, lại với anh em đeo băng
đỏ trên cánh tay, rồi khi nhìn thấy Điền đứng trong đám người lại cất tiếng gọi
ra, ý nhờ Điền nói hộ với họ một câu cho xe qua. Nhưng Điền chẳng biết có nghe
thấy, cứ đứng cạnh ông Tinh trố mắt nhìn hai chiếc xe. Thật chẳng bù cho lần
trước, cũng chiếc u-oát này, Hưởng vừa từ trong xe bước xuống, chí nói mỗi câu:
“Ông Lành đâu, sao lại để quân giữ giường uỷ ban huyện lại là thế nào?”. Tức
thì ông trại trưởng trại lợn Phương Lưu đã són đái ra quần, dạ dạ vâng vâng, hô
quân mau mau vào khênh giường ra xe trả chúng mày ơi! Trong khi Hưởng còn đang
nói bã bọt mép không được, thì nhìn thấy chủ nhiệm Lận dẫn mấy người, không
biết là bảo vệ hay dân quân, lại có cả súng ống, giậy gộc đang hộc tốc chạy đến.
Thế rồi trong chớp mắt, Hưởng cũng không còn biết cái gì đã xẩy ra, chỉ nghe
đánh chát một tiếng, cùng với rào rào mảnh kính vỡ và tiếng người co kéo, kêu
la. Liền đó là cuộc xô xát, ẩu đả, cùng tiếng Lận ra lệnh trói người này người
kia và tiếng mắng mỏ, chửi bới ngậu xị, tít mù. Hưởng không những không dám
đứng ra ngoài xe, mà còn ba chân bốn cẳng nhoài người vào mãi bên trong xe,
ngồi tụt xuống một góc, hét đến lạc cả giọng giục lái xe lùi xe cho nhanh cho
chóng, thoát khỏi cái đám hỗn quân hỗn quan này. Chứ không, khó mà thoát khỏi
thiên la địa võng của đám dân chúng đang ngùn ngụt nỗi bất bình và lòng căm
giận. Hơn nữa, tuy không phải người xã này Hưởng cũng hiểu, tiếng là cùng xã,
nhưng khác ba làng Phương Trà, Phương Trì, Phương La bên kia, dân Phương Lưu
đây là dân hàng trại, mà dân hàng trại thì như người xưa dặn: “trai hàng trại,
gái hàng cơm”, chớ có động vào. Hưởng ngồi tụt nữa vào phía trong xe, mắt lấm
lét nhìn ra ngoài, thấy Lận và mấy dân quân xã đang trói ông Tinh và Điền cùng
ba, bốn người nữa, bỗng trút tiếng thở dài, buồn bực và chán ngán. Hưởng lấm
lét nhìn ra ngoài. Đám dân quân trói người cùng làng xã, thậm chí cả đảng viên,
cả người từng làm chủ nhiệm xã này.

Ông phó chủ tịch huyện thấy cảnh xô xát, bắt bớ, liền giục
lái xe mau mau thoát khỏi cái đám “trai hàng trại, gái hàng cơm” này mà đi cho
nhanh cho chóng thôi.

*

Từ khi đi vào sản xuất theo quy mô lớn, đưa chăn nuôi lên
ngang tầm với trồng trọt, không chỉ xã quan tâm, mà huyện và tỉnh cũng tập
trung đầu tư đưa trại lợn Phương Lưu lên thành hình mẫu chăn nuôi của huyện,
của tỉnh. Thôi thì từ đất đai, chuồng trại chăn nuôi, rộng tới hàng mấy chục
mẫu Bắc bộ, ngoài hai dẫy chuồng chuyên nuôi lợn nái sinh sản, mỗi dẫy có năm,
sáu chục con lợn nái đẻ, trại còn có bốn dẫy chuồng nuôi lợn con giống và lợn
thịt vỗ béo. Tất cả xây toàn bằng gạch, lợp ngói móc, vì kèo sắt, chỉ có hoành
dằn bằng gỗ bạch đàn để cả cây và rui mè bằng tre núi chẻ. Khu chuồng trại
khang trang thế nào thì khu chế biến thức ăn cho lợn, hay nói nôm na như mấy bà
đội lúa thỉnh thoảng ghen tỵ với các cô ngoài đội chăn nuôi, vẫn bảo cái nhà
bếp nấu cám lợn ở trại cũng bằng mấy cái nhà kho đội tao. Khu chuồng trại khang
trang thế nào thì khu chế biến thức ăn cho lợn cũng khang trang như thế. Và còn
hơn thế, bởi hai ống khói chỗ đặt vạc nấu cám lợn xây vuông hòm sắc cạnh, mỗi
chiều hai mét rưỡi, cao vút lên trời, người lạ đi qua không biết lại ngỡ đấy là
lò luyện gang, nấu thép chăng, vì bấy giờ nhiều người đang sính cái mỹ từ “nơi
nơi nấu gang, nhà nhà luyện thép” từ một nước láng giềng lan sang. Chuồng trại
chăn nuôi và khu chế biến thức ăn khang trang thế nào, thì đối lại với nó, như
tạo hoá cố tình nặn ra nghịch cảnh để trêu ngươi, dãy nhà ăn, ngủ của xã viên
đội chăn nuôi, không ít hơn mười người, phần đông là chị em chưa có chồng, hoặc
chồng rồi nhưng còn đang quân ngũ, và cũng nhiều hơn chừng đó mươi người nữa,
toàn chị em dòng dòng con thơ cái quấn, cùng mấy ông trung niên thuộc loại cốt
cán mới được tin cậy đưa ra lãnh đạo đám đàn bà, con gái nơi đồng không mông
quạnh, ở cái nơi một thời chỉ là cái trại lẻ.

Chỗ ăn, ngủ của xã viên đội chăn nuôi, gồm hai căn nhà, mỗi
căn nhà bốn gian được ngăn làm bốn phòng, mỗi phòng cách nhau bằng một bức vách
kên bằng những tấm phên phơi thuốc lào cũ không dùng đến nữa. Trong mỗi phòng,
không phải là những chiếc giường ba xà đóng bằng gỗ, dù là Rỗ xoan hay xà cừ,
bạch đàn, mà là những đoạn tre bờ già khấc chặt ra, đóng sâu xuống nền nhà,
trên đầu cọc cũng là những đoạn tre buộc vào, dằng lại thành cái khung giường,
rồi bắc lên đấy năm, bảy đoạn tre làm rải, còn bên trên thì vãn là những tấm
phên phơi thuốc lào cũ đặt xuống làm dát giường, rồi trải chiếu lên cho xã viên
nằm. Bao nhiêu lâu vẫn nằm trên những cái giường cọc tre như thế không sao.
Bỗng lần ấy, trại vinh hạnh được đón một vị lãnh đạo trung ương về thăm. Trước
khi về, còn gửi lịch làm việc xuống ghi rõ thăm nơi ăn chốn ở của trại viên.
Thế tất không thể để những cái giường không ra giường, chõng không ra chõng của
chị em đang nằm thế kia được nữa rồi. Nhưng đóng giường mới cho chị em thì móc
đâu ra tiền, giữa lúc trại chăn nuôi tiếng là hình mẫu, lá cờ đầu, điển hình
chăn nuôi toàn huyện, nhưng thu chi đổng nào nhất nhất đều lên xã, chứ đâu được
tay hòm chìa khoá, có đồng ra đồng vào. Chẳng lẽ lại mượn mấy chiếc giường của
nhà dân mang ra trại kê làm phép khi khách đến, lúc khách đi lại mang trả dân,
như kiểu mượn lợn thịt, lợn nái ấy. Nhưng dẫu mượn giường cũng như kiểu mượn
lợn thịt, lợn nái của dân mang ra trại để làm phép, cũng phải giường ra giường,
chí ít là giường ba xà, chứ không thể là giường tre, hay gỗ bạch đàn ọp ẹp
được. Mà giường ba xà ở đâu, chứ ở cái nơi làng chưa ra làng, xóm trại không
còn là xóm trại, có bói cũng không nhà ai có. Ngay cả xã này, mượn được những
cái giường như thế, hoạ chỉ có mấy bố cán bộ xã gương mẫu đưa của nhà mình ra
chăng. Mà nhà mấy bố ấy ai còn lạ gì, lệnh ông không bằng cồng bà, làm sao dám
bỏ của nhà ra cho hàng tổng, chỉ có mang của hàng tổng về thì có. Giữa lúc bí
kế, may sao, Hưởng xuống kiểm tra công việc chuẩn bị đón đồng chí lãnh đạo
trung ương, quyết ngay tắp lự, cho xe tải chở mấy cái giường của nhà khách uỷ
ban xuống trại chăn nuôi Phương Lưu, kê vào chỗ mấy phòng nữ, cũng là nơi ăn
chốn ở của xã viên, khi nào vị lãnh đạo trung ương đến thăm xong, lại chở về
trả nhà khách huyện. Mọi việc từ đầu đến lúc vị lãnh đạo trung ương về thăm
trại chăn nuôi Phương Lưu xong, lên xe đi, diễn ra tốt đẹp, đúng lịch gửi xuống
trước cho địa phương chuẩn bị hàng tháng trời. Nhưng còn điều mà chính Hưởng,
cha đẻ của mưu kế đưa mấy chiếc giường của nhà khách huyện lên ô tô chở xuống
trại Phương Lưu, kê vào chỗ mấy phòng nữ, để vị lãnh đạo nọ đến thăm cho đẹp
mặt trại, cũng là đẹp mặt huyện, xã - như lời Hưởng nói với cô phụ trách nhà
khách khi thông báo quyết định lấy giường cho trại lợn Phương Lưu mượn- chính
Hưởng cũng không thể ngờ lúc chở giường về huyện lại rắc rối đến như vậy.

Sự việc lẽ ra không có gì rắc rối, nếu trước khi lấy giường
đi, huyện, rồi xã có động thái gì đó tỏ ra dân chủ với chị em một chút, tôn
trọng chị em một chút, quan tâm đến chị em một chút. Bởi họ là nữ giới, có
những tâm lý, những sinh hoạt ngày thường mà ngoài giới nữ ra, không ai hiểu
được ngọn ngành, gốc gác bằng chính họ. Mấy cái giường tre bao lâu nay họ vẫn
nằm, than? không ra thang, rải không ra rải, nằm còn thiếu nằm trên đám chông
chà, ê ẩm hết cả người. Đã vậy, mỗi khi lên xuống, giở mình, hoặc đùa dỡn ôm
nhau tý chút là thôi đấy, cái giường như đung đưa, một hai tưởng gẫy. Nhiều lần
giữa đêm hôm khuya khoắt, mấy cô đi xem phim về lạnh quá, oà cả ba bốn đứa lên
giường một lúc, thế là gẫy giường, đành vất ra ngoài hè, trải chiếu nằm đất với
nhau vậy. Cảnh gẫy giường, nằm đất của chị em ngoài trại chăn nuôi diễn ra như
cơm bữa, chả mấy tháng không có, đến mức từ trại trưởng đến chị em chẳng ai nhớ
nổi từ ngày đưa trại chăn nuôi hợp tác xã Phương Lưu lên thành trại chăn nuôi
của hợp tác xã quy mô toàn xã, đến khi xảy ra rắc rối về giường chõng, tất thẩy
đã có bao nhiêu chiếc giường tre bị gẫy vất ra đầu hè. Chịu. Không thể nhớ nổi.

Thế nên lần này, nhờ ơn vị lãnh đạo trung ương đến thăm trại
lợn, chị em bỗng dưng không khóc mẹ lại cho bú, được huyện đánh hẳn ô tô chở
xuống cho sáu chiếc giường một đẹp ơi là đẹp. Thì giường nhà khách uỷ ban huyện
lại chả đẹp. Khỏi nói chị em mừng rỡ đến mức nào khi nhìn thấy những chiếc
giường gỗ đánh véc ni bóng màu chanh thẫm, chuyển từ trên xe xuống. Gần chục cô
gái tíu tít hò nhau khênh vào trong dẫy nhà chị em nằm. Rồi lại tíu tít hò nhau
kê giường. Mày nằm quay ra hay quay vào? Sao dở thế. Nằm quay đầu ra, chứ đã
chết đâu mà nằm quay vào đưa đi cho thuận, hả! Thì không biết người ta mới hỏi.
Thế kê xong, sang kê hộ người ta với nhá. Đấy là cô Hồng ở phòng bên chạy sang
hỏi cô Na. Chả là hai cô cùng ở ngoài xóm Đông, muốn nằm một phòng, nhưng chị
Bảo cao to, tướng đàn ông, tiếng nói cũng như lệnh vỡ, ngoài ba nhăm rồi mà vẫn
“tư lệnh phòng không”, cấm chịu lấy ai, cứ đặt mình xuống là ngủ như chết, lại
một mực không ngủ chung với cái Hồng vì nó ngáy như kéo bễ. Thế là ông trại
trưởng dễ tính và cả nể, đành chiều chị Bảo thích đứa nào thì ông điều sang ngủ
với cho đỡ buồn, chứ nếu có điều kiện cứ để chị ngủ một mình một phòng là thuận
nhất. Thì từ cha sinh mẹ đẻ đến nay đã được đặt lưng xuống cái giường gỗ đẹp
thế này bao giờ mà biết. Thôi thế cũng bõ bao nhiêu năm phấn đấu băm bèo thái
rau, gánh nước rửa chuồng, kỳ cọ từng con lợn, rồi cám bã, phân gio… Eo ôi, cứ
nghĩ đến đận sáng ra đi đôi ủng đen bước vào chuồng lợn ngập ngụa phân và nước
giải, do những ông Chư Bát Giới phóng ra trong đêm bốc mùi nồng nặc, đã thấy
ruột gan cồn cào chỉ chực nôn thốc nôn tháo. Thế mà suốt bao nhiêu năm hai, ba
chị em chen nhau chiếc giường tre ọp ẹp, một đứa giở mình hai đứa thức giấc,
giờ mới được nếm mùi cái giường gỗ êm ơi là êm, vừa đặt mình xuống đã ngáy như
kéo bễ, thì bỗng dưng lại chiếc xe tải hôm trước chở giường xuống, lù lù đến đỗ
ngay cổng trại. Tất cả các cô ở tập thể nghỉ tay, về phòng, có cái gì thu dọn
đi, để trả giường cho huyện. Khẩn trương lên, không có là xe người ta không chờ
được lâu đâu, các cô phải tự mang lên huyện trả đấy. Tiếng ông trại trưởng nói
oang oang, sau khi tiếp hai người dáng chừng là cán bộ văn phòng uỷ ban, hay
nhà khách huyện, ra đến cửa đã vội cất lên thế. Nhung cả trại mấy chục con
người chả thấy ai động tĩnh gì. Cái kiểu ắng lặng của trời quang mây tạnh oi oi
nồng nồng, thường là báo hiệu bão giông. Khi có tiếng của một anh, dáng chừng
cũng có chức quyền gì đó ở văn phòng uỷ ban chăng, dõng dạc nói như ra lệnh cho
trưởng trại:

- Những người nằm giường không ai về, thì bác cứ cho người
vào khênh giường ra xe đi!

Tiếng anh cán bộ huyện vừa dứt, liền có tiếng một người đang
đi từ phía nhà chế biến về dẫy nhà ở, chao chát cất lên:

- Này này, cái nhà anh huyện tên là gì ơi, anh có giỏi thì
cứ vào mà khênh. Chứ đừng có chỉ tay năm ngón cho người khác như thế, nhá!

Tức thì, không biết bao nhiêu tiếng nữa rào rào cất lên:

- Ừ, có giỏi thì vào mà khênh!

- Thử bước vào, xem còn sức bước ra không!

- Giường nào của các người mà khênh ra xe chở đi, hả, hả,
hả…?

- Đúng rồi, giường nào của các người! Đây là giường của vị
lãnh đạo trung ương về thăm trại, nên chúng tôi mới có chứ!

Anh cán bộ khi nãy lại lên tiếng, lần này có phần mềm mỏng
hơn:

- Không phải giường lãnh đạo trung ương cho trại. Mà là
giường của huyện mang xuống cho chị em mượn, để đón đồng chí lãnh đạo trung
ương về thăm. Xong việc rồi lại trả về huyện, chứ có phải của trại đâu mà các
bà, các chị lại giữ, hử?

Một bà đốp ngay:

- Huyện thiếu gì! Sáu cái giường một, bất quá cũng chỉ đáng
giá bằng góc khoản chi tiếp vị lãnh đạo trung ương hôm nọ. Đòi lại của chị em
làm gì. Xem ra các chú nam giới mà còn lèm nhèm, tẹp nhẹp hơn cả cánh đàn bà
chúng tôi.

- Nhưng chúng em cũng chỉ được lệnh xuống chở, chứ không
được lệnh để giường lại cho các chị.

Nghe anh cán bộ huyện nói thế, ông trại trưởng liền bảo:

- Hay là thế này, xe và người lái cứ ở đây. Còn đồng chí lấy
xe đạp của tồi đạp về xin ý kiến lãnh đạo cách giải quyết thế nào cho ổn thoả.
Nhưng ý tôi là theo nguyện vọng chị em, lần này còn lần khác, huyện cứ để lại
cho trại chúng tôi xin sáu cái giường một cho chị em họ nằm. Lần sau nhỡ có vị
lãnh đạo nào về thăm, huyện khỏi phải chở xuống thì cũng thế.

Tức thì, những người có mặt đều nhất tề hưởng ứng. Chị Bảo
ôm chặt lấy cô Hồng, nhưng lại nhìn anh cán bộ huyện, nói:

- Trại trưởng chúng em nói thế là có tình có lý lắm đấy. Anh
cứ đạp xe về xin ý kiến lãnh đạo, em tin là được. Mấy cái giường một, đáng gì.
Mới lại lọt sàng xuống nia, huyện không dùng thì cho trại chúng em dùng, đi đâu
mà thiệt! Đến như bên An Hoà, mới dạo trước người ta còn cho bà cụ mẹ liệt sĩ
cả bộ sa lông đóng toàn gỗ nghiến, đưa từ phòng làm việc của ông bí thư huyện
uỷ xuống cho kia thì đã sao?

Cái nhà chị vợ liệt sĩ được mỗi đứa con gái đang học lớp
chín, đi đến đâu cũng đánh tiếng muốn cưới rể cho con, chỉ làm cái chân suốt
ngày luẩn quẩn trong xó bếp nấu cám lợn, thế mà cũng biết lắm chuyện. Chứ lại
không ư. Chính các chú cũng biết, nhưng gần lửa sợ rát mặt không dám nói. Chứ
chúng tôi thì…nói ra chỉ thêm vui, chứ có mất gì. ơ, thế ra các chú không biết
thật à, cả chú cán bộ văn phòng uỷ ban, lẫn chú lái xe đều không nghe ai nói
bao giờ thật ư? Thế thì lắng tai đây nói cho mà nghe, rồi có về xin ý kiến lãnh
đạo huyện thì về cũng chưa muộn, nhá. Nghe người ta đồn mới dạo tháng trước,
bên An Hoà, cạnh huyện mình đây này, cũng đón một ông gì gì ấy, to lắm, ở tận
trung ương về thăm. Làm việc xong, mấy ông lãnh đạo huyện đưa ông ấy đi thăm
vùng kinh tế mới ven biển. Trên đường về, đê chứng minh sự thay đổi từ đất đai
đến con người của huyện nhà, lãnh đạo huyện lại dẫn vị lãnh đạo trung ương vào
thăm một gia đình ở làng Am. Nhà này chỉ còn bà cụ ngoài bảy mươi và hai mẹ con
đứa con dâu, ở ba gian nhà tre cũ kỹ. Chồng và hai người con trai bà cụ đều đi
bộ đội, hy sinh ngoài mặt trận cả. Trước ngày vị lãnh đạo trung ương về thăm,
huyện cho xe chở xuống nhà bà cụ một bộ bàn ghế sa lông mới toanh, đóng toàn
bằng gỗ nghiến, với cả pích đựng nước, ấm pha chè và bộ chén sáu chiếc, đều bỏ
từ trong hộp ra còn mới nguyên. Những người đưa các thứ ấy từ huyện xuống tự
tay kê bàn ghế vào gian giữa nhà, bày đĩa chén uống nước lên bàn, đặt chiếc
pích cẩn thận trong ngăn tủ bàn trà, quay ra dặn bà cụ và cô con dâu trông nom
các thứ cẩn thận, sạch sẽ, đừng để trẻ mỏ vây bẩn vào bàn ghế, cốc chén. Ngày
mai, chưa biết giờ nào, sáng hay chiều không thể nói trước, đồng chí lãnh đạo
trung ương và lãnh đạo tỉnh, huyện đến thăm cụ và gia đình, nếu có hỏi tới các
thứ đồ vật này, thì cụ cứ bảo rằng thì là của huyện cho… mượn, à không…tặng,
đây là huyện tặng cho gia đình có ba liệt sĩ đấy ạ! Thế nhá, cụ nhá!

Thế nhá, cụ nhá, thà rằng đừng dặn đi dặn lại, chứ đã dặn kỹ
lưỡng tất bà cụ cứ thế mà nói. Và rồi đúng như người đời thường nói, sảy chân
thì gượng được, chứ sảy miệng thì không thể gượng được nữa đâu. Ngay sau hôm vị
lãnh đạo trung ương về thăm, mấy người ở huyện bữa trước mang sa lông, ấm chén
xuống kê vào nhà cho bà cụ, lại đánh xe xuống chở bàn ghế về huyện. Bà cụ
nghễnh ngãng nghe câu được câu chăng, cứ ngồi co chân, ngả người ra ghế, ngửa
cổ lên nhìn chị con dâu với đứa cháu, chẳng biết nói gì mà cứ khoa chân múa tay
như đẩy đẩy mấy người kia ra ngoài hiên. Lúc lâu, đứa cháu gái mới ghé sát vào
tai nói với bà: “Họ đến lấy ghế chở về huyện đấy, bà ạ!”. Tức thì, bà cụ như
cứng cáp hẳn chân tay, đứng ngay dậy, chỉ thẳng tay vào mấy người kia, nói đến
mất cả tiếng: “Bàn ghế nào của các người? Đây là huyện tặng cho gia đình có ba
liệt sĩ đấy chứ! Chồng con tôi phải đổ xương máu, mới được những thứ này, chứ
đâu phải bỗng dưng mà được”. Bà cụ đã nói thế cũng là thể không đừng. Mấy người
xuống lấy bàn ghế đành lẳng lặng ra xe về, chứ cấm dám nói lại lấy nửa lời.

- Đấy là mấy người xuống lấy bàn ghế ở gia đình liệt sĩ bên
An Hoà, đành lẳng lặng ra xe về, chứ còn anh cán bộ đây liệu có lấy xe của bác
trại trưởng để về xin ý kiến uỷ ban huyện không thì bảo?

Cô Hồng chành chẻ đang ôm vai chị Bảo, nghe chị kể chuyện bà
cụ bên An Hoà đến đấy, vội buông ra, đưa đôi mắt sắc như dao cau nhìn anh cán
bộ văn phòng uỷ ban hỏi, mà như giục có về không thì bảo, đây đã có phép. Anh
cán bộ uỷ ban mới nghe cái giọng đanh, rin rít qua kẽ răng và cái nhìn sắc nẹm
của cô gái chăn nuôi, đã như mất hết hồn vía, vội quay ra ngơ ngáo tìm ông trại
trưởng, hỏi lễ phép:

- Xe đạp của bác để đâu ạ?

Ông trại trưởng chưa kịp chỉ chỗ để xe, thì nghe mấy người
ào lên, nhìn ra đường cái. Chiếc xe u-oát quen thuộc của uỷ ban huyện, thường
chở phó chủ tịch phụ trách nông nghiệp, đang rẽ lên chiếc cầu con bắc qua kênh,
vào trại chăn nuôi. Nhận ra chiếc xe quen thuộc, biết chắc người ngồi trên xe
không ai khác là Hưởng, người được mệnh danh là “tư lệnh nông nghiệp” của
huyện, không những chủ nhiệm các hợp tác xã mà đến cả chủ tịch, bí thư đảng uỷ
hai mươi ba xã trong huyện đều phải phục sát đất, huống hồ cánh tép riu như
trại trưởng trại lợn Phương Lưu, thì chỉ mới nhìn thấy đã són đái ra quần. Khi
chiếc u-oát vượt qua cầu, vào sân trại lợn, mấy người xã viên chăn nuôi cũng
tản đi đâu hết, chỉ còn lại ông trại trưởng và mấy anh cán bộ, lái xe của
huyện, kẻ trước người sau rảo cẳng ra chỗ chiếc xe con vừa đỗ.

Cải đạp xe về đến huyện vẫn còn buổi làm chiều. Tuy mới hơn
bốn giờ, nhưng đi qua mấy cơ quan, nhiều cửa phòng làm việc đã đóng im ỉm. Ở
huyện, dẫu là cơ quan đầu não huyện uỷ, uỷ ban hay các phòng, ban tham mưu
tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra, nông nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, thuỷ
lợi, giao thông, tài chính, giáo dục, rồi huyện hội phụ nữ, huyện đoàn thanh
niên, huyện hội nông dân, hay gì gì đi chăng nữa, cũng đều có lối làm việc và
quan hệ giống nhau thế. Ấy là mọi quan hệ công tác, tư tác đều được trình bày,
giải quyết theo kiểu gia đình, ai đi đâu cứ đi, chẳng kể còn giờ làm việc hay
đã hết. Muốn đến cơ quan sớm muộn chỉ cần nói một câu bâng quơ với ai đó trong
bộ phận công tác “chiều mình có tý việc, đến muộn nhé”, thế đã là tử tế, còn
không, cứ lặng lẽ đến, lặng lẽ về, không phải cái chợ, nhưng cũng không khác
cái chợ là mấy. Còn nói năng, tuỳ, gặp đâu nói đấy, được thì được chẳng được
thì thôi, lúc này nói không được, có khi lúc khác nói lại “đồng ý”, “nhất trí”
rất nhanh. Cấp dưới với cấp trên trò chuyện ít khi thưa gửi, báo cáo trịnh
trọng, nhưng cách xưng hô lại thật rạch ròi, một điều cháu, hai điều chú, có
khi còn anh anh, em em rất là thân mật, người lạ mới nghe có khi lại tưởng họ
là người nhà với nhau thật. Nhưng đằng sau cách cư xử có vẻ gia đình ấy, ai mà
biết trong bụng họ nghĩ gì về nhau, lại càng không thể hiểu họ có cộng tác với
nhau thực lòng trong công việc, vẫn được gọi là phục vụ nhân dân, hay chỉ là
cái vỏ bên ngoài. Thế nên, nếu chỉ đi qua hoặc ngồi ở cơ quan này, cơ quan kia
một chốc, một lát rồi phủi quần đứng dậy, cũng khó biết nội bộ họ thế nào, yêu
thương nhau hay đang ngầm hại nhau, đoàn kết keo sơn hay phe này, phái nọ đang
lôi bè kéo cánh. Nếu có dịp vào cơ quan nào, gặp lúc có mấy người đang ngồi chè
thuốc rì rầm to nhỏ, nhưng khi anh vừa bước vào đến cửa, người ta vội im bặt,
người nào đấy đưa mắt ra hiệu cho mấy người kia, rồi cùng nhau đứng dậy. Chỉ
còn lại một hai người trong phòng, thể không đứng dậy được nữa, vì làm thế thật
khiếm nhã, đành ngồi lại tiếp anh. Thì hãy thận trọng, họ đang nói về việc gì
đó không được hay ho lắm đâu, và chưa biết chừng, lại nói về chính anh hoặc
người cộng tác gần gũi với anh cũng nên. Cải dẫu đi bộ đội, rồi chuyển ra dân
sự đã lâu, nhưng chỉ ở trên tỉnh, làm việc với cán bộ lãnh đạo cấp huyện, thị,
hoặc trưởng phó ban ngành trên tỉnh là chính, ít khi làm việc trực tiếp với cán
bộ phòng ban, đoàn thể ở huyện và cán bộ xã, hợp tác xã. Thế nên, Cải mất khá
nhiều thời gian mỗi lần về làm việc với cơ sở, hay gặp anh chị em cán bộ huyện
mới ở dưới xã ấy, xã nọ về. Thường là hỏi họ không bao giờ nói ngay, mà cứ vòng
vo, rào rào đón đón, một lúc lâu mới “nghe dư luận phản ảnh”, “một số người
nói”, “theo quần chúng cho biết”, vân vân và vân vân. Thật cứ như những tin tức
tình báo còn ở dạng tồn nghi, chứ chẳng có gì là thẳng thắn, thật thà, đáng tin
cậy…

Thế nên, khi Cải từ nhà đạp xe về đến huyện vẫn còn buổi làm
chiều, nhưng khác với ý định khi ở nhà đi là lên thẳng ban nông nghiệp gặp
Hưởng, Cải đạp xe về cơ quan.

Cô Lập vừa từ phòng đánh máy bước ra, tay cầm tập tài liệu,
chắc mới đánh máy xong, vừa nhìn thấy Cải dắt xe ngoài cổng vào, vội cất tiếng
nói, thay lời chào:

- Ơ, chú Cải về lại không có cơm rồi. Thế mà anh Thơi lại
bảo chú về qua nhà, sáng mai mới lên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3