Đêm qua anh ở đâu? - Chương 01 - Phần 1
1
Chàng trai chơi dương
cầm
Khi chuyến tàu điện ngầm rốt cuộc cũng rít lên chói tai tiến
vào ga phố Franklin, Brooke lo lắng đến nôn nao. Cô nhìn đồng hồ cả chục lần
mỗi phút và cố tự nhủ rằng đó chưa phải là cơn bĩ cực; Nola, cô bạn thân nhất
của cô, sẽ thứ lỗi cho cô, phải thứ lỗi cho cô, dù rằng cô trễ hẹn đến mức
không thể tha thứ được. Cô len lách tìm đường trong dòng hành khách đông nghẹt
giờ cao điểm đang tiến ra cửa, nín thở bản năng khi chen chúc giữa đám người đó
và để mình cuốn theo về phía cầu thang. Như được lên dây cót, Brooke và những
người đồng hành cùng lúc rút điện thoại di động từ túi xách hoặc túi áo khoác
ra, lặng lẽ đứng thành một hàng thẳng, và chẳng khác nào những xác chết nhập
tràng, họ vừa bước đều như duyệt binh lên phía bên phải những bậc thang xi măng
vừa vô cảm dán mắt vào màn hình điện thoại bé tẹo trong tay.
“Chết tiệt!” cô nghe một phụ nữ to béo phía trên kêu lên, và
ngay khắc sau cô liền biết tại sao. Không một dấu hiệu báo trước, cơn mưa quất
mạnh vào người cô ngay khi cô vừa nhô người lên khỏi cầu thang. Tiết trời tối
tháng Ba vừa mới hai mươi phút trước còn hơi lạnh nhưng vẫn ôn hòa bỗng chốc
trở nên lạnh giá và cực kỳ u ám, những trận gió táp cơn mưa xuống làm cho việc
giữ mình khô ráo trở nên bất khả thi.
“Khốn thật!” cô góp giọng vào dàn hòa âm lộn xộn của những
người đang chửi thề láo nháo xung quanh trong lúc cố lôi ô từ cặp xách ra hoặc
lấy báo che lên đầu mình. Vì sau giờ làm việc cô đã chạy về nhà thay quần áo
nên Brooke chẳng có gì ngoài một chiếc xắc màu ngân nhũ bé xíu (và phải nói là
rất xinh) để che cho mình khỏi dòng mưa xối xả. Tóc ơi, từ biệt nhé, cô thầm
nghĩ trong lúc băng mình chạy qua ba dãy phố để đến nhà hàng. Ta sẽ nhớ tiếc
mi, phấn mắt ạ. Rất vui khi được quen biết ngươi, đôi bốt da lộn cao cổ mới
tinh lộng lẫy đã ngốn mất nửa tuần lương của ta.
Brooke ướt như chuột lột khi cô đến Sotto, một nhà hàng nhỏ
khiêm tốn trong vùng, nơi cô và Nola gặp nhau vài ba lần mỗi tháng. Món mì
pasta ở đây chẳng phải loại ngon nhất thành phố - thậm chí chắc còn chưa phải
loại ngon nhất ở dãy phố này - mà không gian cũng chẳng có gì đặc sắc cả, nhưng
Sotto có những điểm hấp dẫn khác còn quan trọng hơn: rượu vang đầy bình với giá
phải chăng, bánh tiramisu ngon đến chết người, và tay chủ nhà hàng người Ý cực
kỳ gợi cảm, người luôn dành chỗ bàn kín đáo nhất ở phía sau cho Brooke và Nola
chỉ vì họ thường đến ăn ở đây đã từ lâu rồi.
“Chào Luca.” Brooke chào chủ nhà hàng trong lúc cô rũ chiếc
áo khoác len ra khỏi vai, cố tránh vẩy nước mưa tứ phía. “Cô ấy đến chưa vậy?”.
Luca lập tức đặt tay lên điện thoại và chỉ cái bút qua vai.
“Như thường lệ. Nhân dịp gì mà diện chiếc đầm gợi cảm thế cara mia (1)? Cô có
muốn hong khô trước không?”
(1) Tiếng Ý: em yêu,
em cưng, cưng.
Bằng cả hai bàn tay, cô vuốt cho phẳng chiếc đầm dệt kim màu
đen ngắn tay ôm khít thân hình và cầu mong Luca nói thật, rằng chiếc đầm rất
gợi cảm và cô trông rất ổn. Cô đã đến mức coi chiếc đầm đó là bộ trang phục duy
nhất để đi xem ca nhạc; kết hợp với giày cao gót, xăng đan hay bốt tùy thời
tiết, cô diện nó đi dự hầu hết mọi buổi biểu diễn của Julian.
“Thôi, tôi đã trễ quá rồi. Cô ấy có ca cẩm giận dỗi gì
không?” Brooke vừa hỏi vừa ép những lọn tóc trên đầu với một nỗ lực hầu như vô
vọng để giữ chúng khỏi nguy cơ bị xoăn tít lại tức thì.
“Cô ấy uống hết nửa bình rồi và vẫn chưa rời điện thoại di
động. Cô đến đó ngay thì hơn.”
Họ hôn lên má nhau ba lần - trước đây Brooke đã phản đối hôn
đủ ba cái nhưng Luca cứ một mực đòi - rồi Brooke hít một hơi sâu và cất bước về
phía bàn của họ. Nola ngồi thu mình trên chiếc tràng kỷ, áo vest của cô vắt qua
lưng ghế, chiếc áo len cashmere không tay màu nước biển vừa khoe ra đôi cánh
tay chắc nịch vừa làm nước da màu ô liu lộng lẫy của cô nổi bật lên một cách
hài hòa. Mái tóc tỉa dài đến vai của cô thật thời trang và gợi cảm, những lọn
tóc nhuộm highlight vàng sáng óng dưới ánh đèn dịu của nhà hàng, và khuôn mặt
trang điểm của cô trông trẻ trung tươi mát. Nhìn Nola, không ai có thể biết
rằng cô vừa mới ngồi làm việc mười hai giờ đồng hồ liền tại sàn giao dịch chứng
khoán, luôn miệng hò hét vào tai nghe điện đàm.
Mãi đến học kỳ hai năm cuối ở Đại học Cornell, Brooke và
Nola mới quen nhau, mặc dù Brooke - giống như tất cả những người khác trong hội
sinh viên - biết Nola và cảm thấy vừa sợ lại vừa bị cô nàng mê hoặc. So với
những sinh viên cùng trang lứa mặc áo có mũ và đi bốt bệt, cô nàng Nola mảnh dẻ
như người mẫu lại thích những đôi bốt cao gót, áo giả vest và không bao giờ
buộc tóc đuôi ngựa. Cô trưởng thành từ các trường tư thục tốt nhất ở New York, London, Hong
Kong và Dubai -
những nơi ông bố giám đốc ngân hàng đầu tư của cô làm việc - và được hưởng sự
tự do tất yếu vì là đứa con duy nhất của những bậc cha mẹ quá đỗi bận bịu.
Người ta đoán già đoán non tại sao cô đi học ở Cornell mà
không phải Cambridge, Georgetown hay Sorbonne, nhưng dễ nhận thấy
là cô chẳng mấy ấn tượng về điều đó. Trong khi những người khác còn bận đổ xô
đi tham gia các hội nữ sinh, họp mặt ăn trưa tại Phòng Ivy và say sưa ở các
quán bar trong khuôn viên trường đại học thì Nola lại khép kín. Cũng có những ý
niệm lờ mờ về cuộc sống riêng của cô - cuộc tình nổi tiếng với giáo sư khảo cổ
học, sự hiện diện thường xuyên, rồi sau đó nhanh chóng bốc hơi, của những anh
chàng bí ẩn và gợi cảm trong khu học xá - nhưng chủ yếu thì Nola đến lớp, đứng
đầu tất cả những môn cô học và chuồn thật nhanh về Manhattan ngay khi vừa đến
chiều thứ Sáu. Khi hai cô gái thấy mình được giao đọc truyện ngắn của nhau
trong môn viết sáng tác tự chọn năm cuối đại học, Brooke hoảng đến nỗi không
nói nên lời. Nola, như thường lệ, không tỏ ra đặc biệt hài lòng hay khó chịu,
nhưng một tuần sau đó, khi cô trả lại bài tập viết truyện ngắn đầu tiên của
Brooke - tác phẩm hư cấu về một nhân vật nỗ lực thích nghi với nhiệm vụ được Tổ
chức Hòa bình Mỹ giao phó tại Congo - thì bản thảo đã đầy những bình luận và
gợi ý rất thâm thúy, sắc sảo. Rồi ở trang cuối cùng, sau khi nguệch ngoạc ý
kiến phản hồi dài dòng và nghiêm túc của mình, Nola viết, “Tái bút: Nên chăng
cân nhắc cảnh sex ở Congo?”
và Brooke đã cười lăn cười lộn đến mức cô phải xin phép chạy ra khỏi lớp.
Sau giờ học Nola mời Brooke tới quán cà phê nhỏ xíu xiu ở
tầng hầm của một trong các tòa học đường, nơi bạn bè Brooke chưa bao giờ lai
vãng, và chỉ vài tuần sau đó Brooke đã đi New York với Nola vào các dịp nghỉ cuối
tuần. Thậm chí sau chừng ấy năm ròng Nola vẫn tuyệt vời không lời nào tả xiết,
song nhờ những cuối tuần đó mà Brooke biết rằng cô bạn mình nức nở khóc khi xem
bản tin về những người lính trở về sau cuộc chiến, thầm bị ám ảnh rằng một ngày
kia phải có một hàng rào cọc trắng hoàn hảo ở vùng ngoại ô mặc dù ngoài mặt tỏ
ra nhạo báng điều đó, và có một nỗi sợ vô lý đối với những con chó xù nhỏ
(Walter, con chó của Brooke, không nằm trong diện này).
“Tuyệt, tuyệt lắm. Không, tôi nghĩ rằng ngồi ở quán bar cũng
ổn rồi,” Nola vừa nói chuyện điện thoại vừa đảo mắt nhìn Brooke. “Thôi, khỏi
cần đặt chỗ ăn tối trước, cứ để tùy cơ ứng biến. Đồng ý, nghe hay đấy. Hẹn gặp
anh lúc đó nhé.” Cô gập điện thoại đánh tách và lập tức chộp lấy bình rượu vang
đỏ, rót một ly nữa cho mình trước khi nhớ ra Brooke và cũng rót một ly cho bạn.
“Cậu có giận tớ không?” Brooke hỏi trong lúc xếp áo khoác
lên ghế sát chỗ ngồi và ném cây dù ướt nhẹp xuống gầm bàn. Cô uống rượu vang
một hơi thật dài và thích thú cảm nhận vị rượu trôi qua lưỡi.
“Vì sao? Chỉ vì tớ ngồi đây một mình đã ba mươi phút rồi á?”
“Tớ biết, tớ biết, thành thực xin lỗi nhé. Một ngày làm việc
cực nhọc khủng khiếp. Hai nhân viên nghiên cứu dinh dưỡng chính thức cáo ốm hôm
nay - mà nếu cậu hỏi thì tớ cho là rất đáng ngờ - và những người còn lại chúng
tớ phải cáng đáng cả phần việc của họ. Dĩ nhiên nếu chúng mình gặp nhau ở gần
khu nhà tớ thì có lẽ tớ đã đến được đúng giờ...”
Nola giơ tay lên chặn lại. “Hiểu rồi. Tớ cảm kích vì cậu lặn
lội đến tận đây. Ăn tối ở Midtown West thật chẳng thích thú gì.”
“Cậu vừa nói chuyện với ai vậy? Daniel phải không?”
“Daniel á?” Nola có vẻ rối trí. Cô nhìn chằm chằm lên trần
nhà vẻ như cố vắt óc ra. “Daniel, Daniel... Ồ! Không phải, tớ thôi hắn rồi. Đầu
tuần trước tớ đưa hắn đến dự một sự kiện ở chỗ làm và hắn kỳ cục lắm. Cực
chuối. Không, đó là chuyện sắp xếp kế hoạch buổi hẹn hò qua trang hẹn hò
Match.com ngày mai. Buổi hẹn thứ hai trong tuần này. Sao mà tớ lại thành kẻ
thảm hại đến thế nhỉ?” Cô thở dài.
“Thôi xin đi. Cậu làm gì đến nỗi...”
“Không, thật đấy mà. Thật thảm hại khi tớ đã gần ba chục cái
xuân xanh mà vẫn coi cậu bạn trai thời đại học là mối tình ‘có thực’ duy nhất.
Còn thảm hại hơn nữa khi tớ là thành viên của một loạt trang web hẹn hò và đi
chơi với bọn đàn ông trên tất cả mấy trang đó. Nhưng thảm nhất - gần như không
thể tha thứ được - là tớ mới háo hức làm sao khi thú nhận điều này với bất kỳ
ai lắng nghe.
Brooke hớp một ngụm nữa. “Tớ đâu phải là ‘bất kỳ ai lắng
nghe’.”
“Cậu biết tớ ngụ ý gì,” Nola nói. “Nếu cậu là người duy nhất
chia sẻ bí mật về sự bẽ bàng của tớ, thì tớ còn có thể chịu được. Đằng này cứ
như là tớ trở nên chai sạn với…”
“Dùng từ đắt đấy.”
“Cảm ơn. Từ này sáng nay ở trên cuốn lịch mỗi-ngày- một-từ
(2) của tớ. Thế đây, quả thật là tớ đã chai sạn với nỗi nhục ấy đến mức tớ
chẳng màng giấu giếm gì thêm nữa. Mới hôm qua đây thôi tớ đã bỏ ra mười lăm
phút ròng gắng giải thích cho một trong những ông phó tổng giám đốc quan trọng
nhất của tập đoàn Goldman Sachs về sự khác nhau giữa đàn ông trên trang Match
và đàn ông trên trang Nerve. Thật không thể thương được.”
(2) Cuốn lịch mỗi ngày
có viết một từ với đầy đủ ngữ nghĩa, cách phát âm, v.v.
“Thế câu chuyện với anh chàng ngày mai thế nào?” Brooke hỏi,
cố thay đổi chủ đề. Theo dõi tình trạng bạn trai của Nola từ tuần này sang tuần
khác là việc bất khả thi. Không chỉ vì chẳng biết tuần này cô đi với anh nào -
tự nó đã là một câu hỏi khó - mà còn vì không hiểu giờ cô đang tha thiết muốn
có một anh bạn trai để sống ổn định hay cô đã lại căm ghét gắn kết với người
khác mà chỉ muốn sống độc thân, xả láng và ngủ lang chạ. Tình hình thay đổi
thường xuyên, không có gì báo trước, làm cho Brooke phải cố gắng liên tục để
nhớ xem anh chàng tuần này “mới tuyệt làm sao” hay “là cả một thảm họa”.
Nola cụp hàng mi xuống và bĩu đôi môi tô son bóng theo cái
cách nũng nịu đặc trưng của cô, vẻ như muốn nói, “Em nhạy cảm,” “Em ngọt ngào,”
và “Em muốn được yêu mê đắm” cùng một lúc. Rõ là cô đang chuẩn bị trả lời tràng
giang đại hải cho câu hỏi này.
“Hãy dùng mánh đó với bọn đàn ông. Với tớ thì chả nhằm nhò
gì đâu,” Brooke nói dối. Nola không đẹp theo kiểu truyền thống, nhưng điều đó
chẳng mấy quan trọng. Cô kết hợp mọi thứ ở mình mới kiều mị làm sao, và ở cô
toát ra một vẻ tự tin đến mức cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị mê hoặc.
“Chàng này có vẻ hứa hẹn,” cô trầm ngâm nói. “Tớ chắc rằng
từ giờ đến lúc anh chàng bộc lộ cái tính nào đó không thể thương nổi chỉ là vấn
đề thời gian, nhưng hiện giờ tớ nghĩ là chàng hoàn hảo.”
“Vậy chàng là người thế nào?” Brooke hối thúc.
“Hừm, xem nào. Chàng từng tham gia đội đua trượt tuyết ở
trường đại học, vì vậy mà lúc đầu tớ mới click vào xem thông tin của chàng trên
mạng, và chàng còn làm huấn luyện viên hai mùa nữa cơ đấy, đầu tiên là ở Park
City và sau đó ở Zermatt.”
“Đoạn này thì hết sảy.”
Nola gật đầu. “Ừ. Chàng chỉ cao chừng mét tám, dáng khỏe
mạnh - chí ít thì chàng tự nhận là thế - tóc vàng màu cát và đôi mắt xanh màu
lá cây. Chàng mới chuyển về thành phố này vài tháng trước và chưa quen biết ai
mấy.”
“Cậu sẽ làm tình trạng đó thay đổi thôi.”
“Ừ, tớ tin là
thế...” Nola bĩu môi. “Nhưng...”
“Có vấn đề gì
vậy?” Brooke rót rượu vào cả hai chiếc ly rồi gật đầu với bồi bàn khi anh ta
hỏi họ có muốn gọi những món họ thường ăn không.
“Ờ, vấn đề là
công ăn việc làm. Chàng nói nghề nghiệp của chàng là ‘nghệ sĩ’.” Cô phát âm từ
này nghe cứ như đang nói “kẻ làm phim khiêu dâm” vậy.
“Thế thì sao?”
“Sao với trăng gì
nữa? Đó là cái quái gì mới được chứ. Nghệ sĩ?”
“Ừm, tớ nghĩ là
nó có nhiều nghĩa lắm. Họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ, diễn viên, văn...”
Nola đưa tay lên trán. “Xin cậu. Nó chỉ có một nghĩa duy
nhất và cả hai chúng ta đều biết nghĩa đó: thất nghiệp.”
“Thời này ai mà chả thất nghiệp. Khá là hợp mốt đấy chứ.”
“Ồ, thôi đi. Tớ có thể chấp nhận chuyện thất nghiệp vì suy
thoái kinh tế. Nhưng mà một nghệ sĩ à? Khó tiêu hóa lắm.”
“Nola! Thật vớ vẩn. Có ối người - đầy ra đây, hàng vạn, chắc
phải đến hàng triệu - những người kiếm sống bằng nghệ thuật. Ý tớ là, xem
Julian kìa. Anh ấy là một nhạc sĩ. Chả lẽ tớ lại tuyệt đối không nên giao du
với anh ấy?”
Nola mở miệng định nói gì đó rồi lại thôi. Một khoảng lặng
đầy lúng túng.
“Cậu định nói gì?” Brooke hỏi.
“Có gì đâu, chẳng có gì cả. Cậu nói đúng đó.”
“Không phải. Cậu đã định nói gì đó? Cứ nói toạc ra đi.”
Nola xoay xoay cuống đế ly rượu vang, trông cô có vẻ như chỉ
muốn độn thổ khỏi đây cho rồi. “Tớ không có ý bảo Julian không thực sự tài
năng, nhưng...”
“Nhưng sao?” Brooke nghiêng người lại gần đến nỗi Nola buộc
phải nhìn vào mắt cô.
“Nhưng tớ không dám chắc rằng tớ có thể gọi anh ấy là một
‘nhạc sĩ’. Hồi mới gặp cậu anh ấy chỉ là phụ tá cho ai đó. Và đến giờ thì cậu
vẫn đang phải nuôi anh ấy.”
“Ừ thì đúng anh ấy mới chỉ là thực tập sinh khi bọn tớ mới gặp
nhau,” Brooke nói mà chẳng buồn che giấu sự bực bội. “Anh ấy thực tập tại hãng
Sony để học hỏi về ngành công nghiệp âm nhạc, tìm hiểu xem nó hoạt động ra sao.
Và cậu biết gì không? Chính nhờ những mối quan hệ anh ấy đã gây dựng ở đó mà
ban đầu người ta mới chú ý đến anh ấy. Nếu anh ấy không đến đây hằng ngày và cố
gắng làm cho mình thành người không thể thiếu được thì cậu nghĩ là ông trưởng
Ban Phát triển Tài năng có thể bỏ ra những hai giờ đồng hồ quý giá để xem anh
ấy biểu diễn ư?”
“Tớ biết. Chỉ là...”
“Sao cậu có thể nói rằng anh ấy ăn không ngồi rồi được? Có
phải đó chính là điều cậu nghĩ không? Không biết cậu có nhận thấy điều này
không, nhưng anh ấy đã dành cả tám tháng vừa qua nhốt mình trong một phòng thu
âm tại Midtown để làm một album. Nhân tiện, phải nói là đó không phải một việc
phù phiếm đâu nhé; hãng Sony đã ký hợp đồng với anh ấy với tư cách một nghệ sĩ
- cũng chính là cái từ nghệ sĩ đó đó - và tạm ứng trước cho anh ấy hẳn hoi nhé.
Nếu cậu không coi đó là một công việc đích thực thì tớ còn biết nói gì hơn với
cậu nữa.”
Nola giơ hai tay lên đầu hàng và cúi đầu xuống. “Phải, tất
nhiên rồi. Cậu nói rất phải.”
“Nghe giọng cậu không mấy tin tưởng.” Brooke bắt đầu cắn
móng ngón tay cái. Mọi niềm khuây khỏa mà cô cảm nhận nhờ rượu vang đã hoàn
toàn tan biến.
Nola dùng nĩa gảy gót món xa lát. “Ừ thì chẳng phải là họ
vẫn mời mọc ký kết, ờ, hàng đống hợp đồng thu âm với bất kỳ người nào hé lộ một
chút xíu tài năng đó sao, vì biết rằng chỉ cần một người thành công lớn là đủ
để trang trải chi phí cho tất cả những kẻ thất bại tầm thường kia phải không?”
Brooke ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cô bạn về ngành âm
nhạc. Julian luôn diễn giải chính cái lý thuyết đó khi anh khiêm tốn nói về hợp
đồng thu âm của mình và cố gắng, theo như lời anh nói, “kiềm chế ảo tưởng” về ý
nghĩa đích thực của hợp đồng đó. Dù sao chăng nữa, những lời này theo một cách
nào đó nghe lại cay nghiệt hơn khi qua miệng Nola.
“Một ‘chút xíu tài năng’ ư?” Brooke chỉ có thể thì thào
những lời này. “Có phải cậu nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế không?”
“Tất nhiên không phải là tớ nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế.
Đừng có vận vào mình như thế chứ. Là bạn của cậu nên tớ khó mà ngồi nhìn cậu tự
giết mình khi làm quần quật để hỗ trợ anh ấy đã bao nhiêu năm nay. Đặc biệt là
khi cơ hội mong manh đến nỗi chẳng biết có nên cơm nên cháo gì không.”
“Thôi được, tớ cảm kích vì cậu quan tâm tới hạnh phúc của
tớ, nhưng cậu nên biết rằng đó là tớ tự nguyện nhận thêm công việc tư vấn ở
trường tư thục để trang trải cho cuộc sống của bọn tớ. Tớ không phung phí lòng
tốt của mình đâu, tớ làm như vậy vì tớ thực sự tin tưởng vào bản thân anh ấy
cũng như tài năng của anh ấy, và tớ biết - thậm chí ngay cả khi dường như không
ai tin điều này - rằng anh ấy có một sự nghiệp rạng rỡ ở phía trước.”
Brooke đã sung sướng ngây ngất đến khó tả - thậm chí có thể
còn hơn cả Julian nữa - khi mà tám tháng trước, anh gọi cho cô báo tin về lời
mời đầu tiên của hãng Sony. Hai trăm năm mươi ngàn đô la là khoản tiền lớn hơn
thu nhập cả hai kiếm được suốt năm năm trước đó, và Julian có thể thoải mái dùng
số tiền đó làm những gì anh muốn. Khi ấy làm sao cô tiên đoán được rằng dòng
tiền ồ ạt bơm về đó sẽ làm họ ngập trong nợ nần sâu, hơn cả mức nợ của họ lúc
bây giờ? Từ khoản tạm ứng này, Julian phải thanh toán chi phí phòng thu, thuê
các nhà sản xuất và kỹ thuật viên âm thanh cao giá cũng như trang trải toàn bộ
chi phí trang thiết bị, chi phí đi lại và chi phí cho ban nhạc trợ diễn. Chỉ
trong vài tháng ngắn ngủi khoản tiền đã tiêu tan, khi họ còn chưa kịp tiêu dù
chỉ một đồng đô la lẻ để trả tiền thuê nhà, tiền điện nước sinh hoạt, hoặc thậm
chí một bữa ăn nhân ngày kỷ niệm nào đó. Và một khi toàn bộ khoản kinh phí đó
đã được dùng để giúp Julian tạo danh tiếng cho mình, thì thật vô nghĩa nếu
không theo đuổi kế hoạch này đến cùng. Họ đã tiêu thêm ba mươi ngàn đô la tiền
túi - là toàn bộ số tiền họ dành dụm được, dự tính là khoản đặt cọc để mua một
căn hộ - và mỗi ngày họ càng đốt nhiều tiền hơn. Phần đáng sợ nhất trong toàn
bộ câu chuyện này chính là điều mà Nola vừa thốt ra một cách tàn nhẫn: cơ hội
để Julian thành công sau khi tiêu tốn chừng ấy thời gian và tiền bạc - dù là có
tên tuổi của hãng Sony làm chỗ dựa - hầu như chỉ là con số không.
“Tớ đủ hi vọng anh ấy biết rằng anh ấy may mắn biết bao khi
có được người vợ như cậu,” lúc này Nola nói với giọng mềm mỏng hơn. “Tớ có thể
đoan chắc với cậu rằng tớ sẽ chẳng thể giúp đỡ cảm thông được đến mức đó. Hẳn
là vì thế mà số tớ cứ độc thân suốt đời...”
May sao món mì của họ đã tới và câu chuyện chuyển sang những
chủ đề an toàn hơn: nước xốt thịt gây béo ra sao, Nola có nên yêu cầu tăng
lương ở chỗ làm hay không, Brooke ghét bố mẹ chồng đến mức nào. Khi Brooke ra
hiệu thanh toán mà không gọi thêm món bánh tiramisu tráng miệng hoặc thậm chí
chỉ một cốc cà phê, Nola có vẻ lo lắng.
“Cậu không giận tớ đấy chứ?” cô vừa hỏi vừa cài tấm thẻ tín
dụng của mình vào tập bìa da.
“Đâu có,” Brooke nói dối. “Tớ vừa có một ngày dài vất vả
quá.”
“Thế cậu định đi đâu bây giờ? Không đi uống một chầu sau bữa
tối ư?”
“Thực ra là Julian có một... anh ấy đang biểu diễn,” Brooke
nói sau khi đổi ý vào giây cuối cùng. Cô không muốn đả động gì về sô diễn của
anh, nhưng nói dối Nola thì có vẻ kỳ cục thế nào ấy.
“Ồ, hay quá!” Nola vừa vui vẻ nói vừa uống nốt cốc rượu vang
của mình. “Có muốn tớ đi cùng không?”
Cả hai cùng biết rằng Nola không thực lòng muốn đi, mà cũng
chẳng sao vì Brooke cũng không thực lòng muốn Nola đi cùng. Bạn cô và chồng cô
khá hòa hợp với nhau, và thế là ổn rồi. Cô trân trọng sự che chở của Nola và
biết rằng đó là vì lòng tốt, nhưng thật khó chịu khi thấy bạn thân nhất thường
xuyên phán xét chồng mình - và lúc nào anh cũng là người không thành công dù nỗ
lực đến mấy.
“Thực ra Trent
đang ở trong thành phố,” Brooke trả lời. “Cậu ấy luân chuyển công tác về đây
thì phải, thế nên tớ sẽ gặp cậu ấy ở buổi biểu diễn.”
“A, Trent
già tốt bụng. Hắn vẫn thích trường y đấy chứ?”
“Cậu ấy học xong rồi; hiện giờ cậu ấy đang làm bác sĩ nội
trú. Julian bảo là cậu ấy thích Los Angeles,
ngạc nhiên thật đấy - những kẻ sinh ra và lớn lên ở New
York chẳng khi nào thích Los
Angeles cả.”
Nola đứng dậy khoác áo vest lên người. “Hắn có đang hẹn hò
ai không? Nếu tớ nhớ không nhầm thì hắn tẻ ngắt như cơm nguội nhưng được cái
rất điển trai...”
“Thực ra thì cậu ấy đính hôn rồi. Với một cô bạn bác sĩ nội
trú khoa tiêu hóa, một cô gái tên là Fern. Bác sĩ Fern, chuyên gia về dạ dày.
Tớ đến rùng mình khi tưởng tượng ra những gì họ chuyện trò với nhau.”
Nola nhăn mặt vì kinh tởm. “Cảm ơn vì hình ảnh đó nhé. Mà
nghĩ cho cùng, hắn đã có thể hoàn toàn là của cậu…”
“Hừmmmm.”
“Tớ chỉ muốn đảm bảo rằng mình vẫn được công nhận thích đáng
vì đã giới thiệu cậu với chồng cậu thôi. Nếu đêm đó cậu không đi chơi với gã Trent này thì có lẽ cậu
vẫn chỉ đơn thuần là cô gái hâm mộ đi cổ động cho Julian.”
Brooke phá lên cười rồi hôn lên má cô bạn. Cô móc ví lấy hai
tờ hai chục đô đưa cho Nola. “Tớ phải chạy đây. Nếu ba mươi giây nữa mà không
lên được tàu thì tớ trễ mất. Mai nói chuyện sau nhé?” Cô giật lấy áo khoác và
xắc, vẫy tay nhanh về phía Luca trên lối đi ra, rồi lao ra khỏi cửa.
***
Thậm chí sau chừng ấy năm trời, Brooke vẫn rùng mình khi
nghĩ đến chuyện thiếu chút nữa thì cô và Julian đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau. Đó là
vào tháng Sáu năm 2001, tháng đầu tiên sau khi cô vừa tốt nghiệp đại học, và
Brooke thấy hầu như không thể thích nghi được với chế độ làm việc sáu mươi giờ
một tuần, chia đều giữa những bài khóa luận cao học ngành dinh dưỡng, những giờ
thực tập nặng nề và ca làm việc bận bịu của một nhân viên chạy bàn trong tiệm
cà phê gần nhà. Một khi cô còn chưa hình dung ra được những nhọc nhằn vất vả
khi làm việc mười hai tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi hai ngàn đô la một
năm - ấy là cô nghĩ thế - thì cô cũng chẳng thể tiên đoán được toàn bộ áp lực
căng thẳng của những ngày làm việc dài, tiền lương không đủ xài, quá thiếu ngủ,
và hiện thực của việc thuê chung căn hộ một phòng ngủ chỉ nhỉnh hơn sáu mươi
lăm mét vuông ở khu Murray Hill với Nola và một người bạn nữa của họ. Tất cả
những điều đó chính là lý do vì sao Brooke đã từ chối thẳng thừng khi Nola nài
nỉ cô cùng đi xem biểu diễn nhạc sống vào một tối thứ Bảy.
“Đi nào, Brookie, cậu phải ra khỏi nhà đi chứ,” Nola tranh
biện trong lúc tròng chiếc áo bó hai dây màu đen vào người. “Có một nhóm tứ tấu
nhạc jazz và nghe nói họ chơi hay cực, với lại Benny và Simon nói là họ giữ chỗ
cho chúng mình. Năm đô la tiền bàn và đồ uống mua một tặng một. Cậu còn chê cái
nỗi gì nữa cơ chứ?”
“Chỉ mệt đứt cả hơi rồi.” Brooke thở dài, uể oải nhấn điều
khiển lướt qua các kênh từ trên chiếc phô tơi trong phòng khách. “Tớ vẫn còn
bài phải viết, mà mười một tiếng nữa tớ lại còn phải đi làm nữa chứ.”
“Ôi, đừng bi kịch quá thế. Vì Chúa, cậu hăm hai rồi. Đừng
lải nhải nữa và lên thay đồ đi. Mười phút nữa chúng mình khởi hành.”
“Mưa như trút ngoài kia, vả lại…”
“Đúng mười phút thôi, không thêm một giây nào nữa, hoặc
chúng mình sẽ chẳng còn bạn bè với nhau gì sất.”
Lúc hai cô đến được quán bar Rue B ở khu East Village
và ngồi ép mình bên một chiếc bàn bé tẹo cùng với các bạn học, Brooke thấy ân
hận vì sự yếu đuối của mình. Sao mà cô cứ luôn nhượng bộ Nola thế nhỉ? Việc
quái gì mà cô phải lèn mình trong cái quán bar đông nghẹt đầy khói thuốc, uống
rượu vodka pha tonic loãng thếch và chờ xem một nhóm tứ tấu chơi nhạc jazz mà
cô chưa hề nghe nói đến? Thậm chí cô còn chẳng đặc biệt thích nhạc jazz nữa
kia. Mà xét cho cùng, cô chẳng đặc biệt thích bất kỳ buổi biểu diễn nhạc sống
nào, trừ phi đó là buổi hòa nhạc của Dave Matthews hay Bruce Springsteen mà cô
có thể vui vẻ hòa giọng hát theo tất cả mọi bài hát. Đêm biểu diễn này hiển
nhiên không phải là một đêm như vậy. Chính vì thế mà cô có cảm giác bực bội pha
lẫn với nhẹ nhõm khi cô nhân viên chân dài tóc vàng ở quầy bar gõ mạnh chiếc
thìa lên ly rượu.
“Này, các bạn ơi! Này, mọi người ơi, các bạn có thể chú ý
cho tôi một phút được không?” Cô lau bàn tay rảnh rỗi của mình vào quần jean và
kiên nhẫn đợi đám đông lắng xuống. “Tôi biết tất cả các bạn đều đang nôn nóng
được nghe Tribesmen hát đêm nay, nhưng chúng tôi vừa nghe tin họ bị kẹt xe ở
đường cao tốc Long Island và chắc sẽ không đến được đúng giờ.”
Tiếng la ó và chế nhạo tức thì nổi lên ầm ĩ.
“Tôi biết, tôi biết, tệ hết chỗ nói. Xe rơ-moóc bị lật,
đường nghẽn toàn bộ, vân vân và vân vâ
“Thế thì tặng một chầu miễn phí để xin lỗi nhé?” một người
đàn ông trung niên ngồi phía sau giơ cốc của mình và hỏi vọng lên.
Cô nhân viên quầy bar bật cười. “Xin lỗi nhé. Nhưng nếu bất
kỳ ai muốn lên đây tiêu khiển cho chúng ta...” Cô nhìn thẳng vào người đàn ông
đó, anh ta lập tức lắc đầu.
“Nói thật đấy, chúng tôi có một chiếc dương cầm rất tuyệt.
Có ai chơi được không?”
Căn phòng im phắc trong lúc mọi người đưa mắt nhìn nhau.
“Này, Brookie, cậu chơi được đấy chứ?” Nola nói thầm đủ to
để cả bàn họ nghe thấy.
Brooke đảo mắt. “Tớ bị loại khỏi ban nhạc từ năm lớp sáu vì
không thể học để đọc nổi bản nhạc. Có ai bị loại khỏi ban nhạc ở trường trung
học nữa không đây?”
Cô nhân viên quầy bar không dễ gì đầu hàng. “Nào, mọi người
ơi! Ngoài đường trời đang mưa ào ào khiếp lắm, mà chúng ta thì đang có tâm
trạng để nghe nhạc nhẽo một chút. Tôi sẽ nhân nhượng thêm bia miễn phí cho cả
phòng nếu ai đó có thể tiêu khiển cho chúng ta vui vài phút.”
“Tôi chơi được chút ít.”
Brooke dõi theo giọng nói về phía một anh chàng có vẻ luộm
thuộm ngồi một mình cạnh quầy bar. Anh ta mặc quần jean và áo phông màu trắng,
đầu đội một chiếc mũ len mặc dù lúc đó đang là mùa hè. Trước đó cô không để ý
đến anh nhưng giờ cô cả quyết rằng anh có thể - có thế thôi nhé - khá bảnh nếu
anh tắm rửa, cạo râu và bỏ chiếc mũ đi.
“Vâng, xin mời...” Cô nhân viên quầy bar vung cả hai tay về
phía chiếc đàn dương cầm. “Tên anh là gì?”
“Julian.”
“Hay quá, Julian, cô nàng là của anh đây.” Cô trở về chỗ của
mình phía sau quầy bar và Julian ngồi lên chiếc ghế chơi dương cầm. Anh chơi
vài nốt, nghịch ngợm với nhịp phách và giai điệu, và cử tọa nhanh chóng mất
hứng quay lại những câu chuyện đang dở của họ. Thậm chí ngay cả khi anh lặng lẽ
chơi trọn một bài hát (một bản ballad nào đó mà cô không nhận ra) thì tiếng
nhạc lại giống như âm thanh nền hơn. Nhưng mười phút sau anh chơi những nốt dạo
đầu bản “Hallelujah” và cất tiếng hát bằng một giọng đẹp và khỏe đến kinh ngạc.
Cả phòng lặng đi.