Hồng lâu mộng - Chương 116

Chương 116: Hồi thứ một
trăm mười sáu

Được ngọc thiêng, nhận
thấy duyên tiên nói ảo cảnh

Trọn đạo hiếu, đưa linh
cữu mẹ về cố hương

Bảo Ngọc nghe Xạ Nguyệt
nói, liền ngả người ra đằng sau, mê man bất tỉnh, làm cho bọn Vương phu nhân
khóc lóc ầm ĩ. Xạ Nguyệt biết mình lỡ lời, gây ra tai vạ, nhưng lúc đó, Vương
phu nhân cũng không kịp mắng chị ta. Xạ Nguyệt vừa khóc vừa định sẵn trong
bụng: “nếu cậu Bảo chết, mình sẽ tự tử theo”...

Vương phu nhân thấy gọi
Bảo Ngọc không tỉnh lại, liền vội vàng bảo người ra mời nhà sư vào cứu chữa.
Không ngờ lúc Giả Chính ở trong nhà đi ra thì không thấy nhà sư nữa. Giả Chính
đang ngạc nhiên, bỗng nghe trong nhà ồn ào, vội vàng chạy vào. Trông thấy Bảo
Ngọc lại mê man như trước. Hai hàm răng cắn mạch không đập, lấy tay sờ vào giữa
rốn, thấy còn nóng. Giả Chính lại bảo đi mời thầy thuốc đến ngay, đổ thuốc cấp
cứu. Có biết đâu hồn phách Bảo Ngọc đã lìa khỏi xác. Nhưng liệu Bảo Ngọc có
chết thật không? Số là anh ta mơ mơ màng màng thấy mình đi ra ngoài. Gặp vị hòa
thượng đưa trả viên ngọc đang còn ngồi đó, liền đến chào. Ông ta đứng dậy, dắt
Bảo Ngọc đi với theo ông ta, cảm thấy trong người nhẹ nhàng như chiếc lá. Họ
không ra cửa chính, nhưng cũng không biết là đi lối nào. Đi được một quãng, đến
một nơi đồng không mông quạnh, thấy xa xa có một tòa lầu, giống như là đã nhìn
thấy ở đâu rồi. Bảo Ngọc định hỏi, bỗng thấp thoáng có một người con gái đi lại
Bảo Ngọc nghĩ bụng: “ở giữa chỗ đồng không vắng vẻ nầy làm gì có người xinh đẹp
như thế? Chắc là thần tiên xuống trần!” Anh ta đến gần nhìn kỹ thì có vẻ quen
quen, nhưng trong chốc lát không nhớ ra. Người con gái chỉ chào một tiếng rồi
không thấy đâu nữa. Bảo Ngọc nhớ lại thì đó là cô Ba họ Vưu, càng thêm buồn
bực: “ Tại sao cô ta cũng ở chỗ này?” Anh muốn hỏi thì nhà sư đã dắt đến một
cái lầu. Trên lầu có một tấm bảng viết bốn chữ lớn: “Chân như phúc địa” (cõi
phúc của người tiên) và hai bên có đôi câu đối:

Giả đi chân đến, chân
hơn giả

Không nguyên là có, có
nào không.

Đi khỏi cái lầu có tấm
bảng ấy, thì đến một tòa cửa cung.

Trước cửa có viết ngang
bốn chữ lớn: “phục thiện họa dâm” (lành được phúc, dâm bị họa), lại có một câu
đối:

Kiếp trước đời sau, dầu
bậc trí hiền không hiểu thấu;

Nhân nào quả ấy, dù
người thân cận vẫn phải xa nhau.

Bảo Ngọc xem xong, nghĩ
bụng: “à ra thế! Để ta hỏi thử những việc nhân quả, quá khứ, tương lai kia
xem”. Đang nghĩ thì thấy Uyên Ương đứng ở đâu đó giơ tay vẫy đến, Bảo Ngọc lại
nghĩ: “mình đi đã lâu, mà xem ra vẫn chưa ra khỏi vườn. Sao vườn này thay đổi
đến thế?” Anh ta chạy theo, muốn nói chuyện với Uyên Ương, nào ngờ ngoảnh lại
thì không thấy nữa. Trong bụng đâm ra ngờ vực, liền chạy đến chỗ Uyên Ương đứng
lúc nãy, thì ra đó là một dãy đền miếu, tòa nào cũng có biển. Bảo Ngọc không để
ý nhìn, cứ chạy thẳng đến chỗ Uyên Ương đứng thì thấy có một tòa miếu, cửa vào
hé mở. Anh ta không dám hấp tấp bước vào, định hỏi vị hòa thượng nhưng ngoảnh
lại thì ông ta đã biến mất.

Bảo Ngọc mơ màng trông
thấy tòa miếu ấy đồ sộ, không giống cảnh trong vườn Đại Quan chút nào. Liền
dừng lại, ngẩng đầu trông thấy cái biển đề bốn chữ: “Dẫn giác tình si” (Đưa kẻ
si đến nơi giác ngộ). Hai bên có đôi câu đối:

Cười, mừng, thtủi, đều
là giả

Ham, muốn, nhớ nhung chỉ
vì si.

Bảo Ngọc xem xong gật
đầu thở dài. Đến tìm Uyên Ương để hỏi cho rõ đấy là chỗ nào. Nhưng nhìn kỹ thì
ra một nơi rất quen thuộc. Anh ta liền đánh bạo, đẩy cửa vào, nhìn khắp trong
nhà không thấy Uyên Ương đâu cả, chỉ thấy tối om, nên trong bụng sợ hãi. Bảo
Ngọc đang muốn lui ra thì thấy có hơn mười cái tủ lớn hé mở. Bảo Ngọc sực nhớ
lại: “ta hồi nhỏ đã mơ thấy đến một chỗ như thế này. Bây giờ lại được đến đây,
thực là may lắm!” Trong lúc mơ màng quên cả Uyên Ương. không đi tìm nữa. Anh ta
đánh liều mở cái tủ lớn đầu tiên xem thì thấy có mấy quyển sổ. Trong bụng càng
thích, nghĩ rằng: “người ta chiêm bao, cứ bảo đó là chuyện giả. Nhưng biết đâu
đã có cái mộng ấy thì phải có cái việc ấy! Ta thường nghĩ muốn thấy lại cái
mộng ấy một lần nữa mà không mộng. Ngờ đâu hôm nay lại gặp mộng! Nhưng không
biết cái sổ kia có phải là ta đã gặp rồi hay không? Anh ta liền giơ tay lên
phía trên lấy một quyển, thấy có đề chữ: “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”.
Bảo Ngọc cầm lấy quyển sổ, nghĩ bụng: “ta nhớ mang máng hình như đã thấy quyển
sổ này, chỉ giận một điều là nhớ không rõ lắm”. Rồi mở trang đầu ra xem, thấy
phía trên có bức vẽ nhưng dấu vẽ lờ mờ, nhìn không rõ. Phía sau có mấy hàng chữ
cũng không rõ nhưng còn có thể đoán được. Nhìn kỹ thì hình như trên chữ “Đại
Ngọc” lại có một chữ giống như chữ “lâm”, liền nghĩ bụng: “nhất định là nói về
em Lâm rồi “. Lại cố xem kỹ nữa. Phía dưới còn thấy bốn chữ “trâm vàng trong
tuyết”, anh ta lấy làm lạ, nói: “Làm sao lại giống như tên họ của vợ ta
nhỉ?”... Bảo Ngọc liền chắp cả bốn câu trên dưới đọc một lượt và nói: “cũng
không có ý nghĩa gì. Chỉ nói kín tên họ cô ta thôi, chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng
có chữ “thường” và chữ “than” thì không tốt. Như thế thì giải nghĩa ra sao?”

Bảo Ngọc nghĩ đến đó, tự
gắt với mình: “Ta đã xem trộm lại còn nghĩ vơ nghĩ vẩn. Nếu có ai đến thì còn
xem sao được nữa?” Rồi lại xem tiếp, cũng không kịp nhìn kỹ mấy bức vẽ kia. Cứ
xem từ trên xuống. Khi xem đến đoạn cuối, thấy có một câu gì như là “thỏ gặp
hùm kia giấc mộng xuôi.” Chợt tỉnh ra, nói:

- Đúng rồi! Quả là cơ
trời không sai chút nào! Câu này chắc là nói về chị Nguyên Xuân rồi. Nếu thấy
rõ ràng như thế thì ta phải biên lấy để nghiền ngẫm cho kỹ. Sau nầy những việc
rủi may sống chết của chị em, mình đều biết hết. Ta trở về nhất định không tiết
lộ ra, chỉ làm một người “chưa bói đã biết”, thế cũng đã được bao nhiêu điều
suy nghĩ vớ vẩn. Rồi anh ta đi tìm khắp cũng không thấy bút nghiên gì cả. Bảo
Ngọc sợ có người ngoài đến, lại vội xem, thấy một bức vẽ lờ mờ hình một người
đang thả diều, cũng không để ý nhìn kỹ. Vội vàng xem suốt cả mười hai bài thơ,
có bài nhìn qua đã biết. Có bài xem rồi nghĩ ra ngay, cũng có bài không hiểu rõ
lắm, nhưng trong bụng nh rất kỹ. Anh ta vừa thở than vừa cầm lấy “Kim Lăng hựu
phó sách” để xem. Khi xem đến cậu “Khen cho ưu linh phúc tết. Ngờ đâu công tử
duyên ôi”, lúc đầu không hiểu gì cả. Sau thấy phía trên có hình khóm hoa và
chiếc chiếu, anh ta liền khiếp sợ, khóc òa lên. Đang còn muốn xem nữa thì

nghe thấy có tiếng người
bảo:

- Anh lại ngây rồi. Cô
Lâm mời anh đấy!

Nghe giống như giọng nói
của Uyên Ương. Ngoảnh lại thì không thấy người đâu. Đang lúc nghi hoặc, bỗng
thấy Uyên Ương đứng ngoài cửa vẫy. Bảo Ngọc mừng quá, chạy ra. Uyên Ương yêu
kiều thướt tha đi trước. anh ta không sao theo kịp, liền cất tiếng gọi:

- Chị ơi? Đợi tôi với!

Uyên Ương vẫn không để
ý, cứ đi một mạch. Bảo Ngọc không biết làm sao, cố hết sức chạy theo. Bỗng lại
thấy một khoảng mênh mông, lầu gạc nguy nga, cung điện sáng ngời. Thấp thoáng
có nhiều cung nữ. Anh ta ham nhìn cảnh đẹp, quên mất Uyên Ương. Bảo Ngọc luôn
chân đi vào cửa một tòa lầu. thấy trong đó có nhiều hoa quả lạ lùng, không biết
tên là gì. Chỉ có một cái bờ rào hoa bằng đá trắng bao quanh một cây xanh, đầu
lá hơi đỏ. Bảo Ngọc nghĩ thầm: “không biết là cây gì mà quý hóa như thế?” Bỗng
thấy gió thổi nhẹ qua, cây xanh cứ lay động mãi. Tuy là một loài cây nhỏ, lại
không có hoa, nhưng dáng điệu nó xinh đẹp làm cho anh ta thích thú say mê. Bảo
Ngọc cứ sững sờ đứng nhìn. Bỗng nghe bên cạnh có một người bảo:

- Giống ngu xuẩn ở đâu
đến đây dòm ngó cây tiên thế?

Bảo Ngọc nghe xong, giật
mình ngoảnh lại nhìn, thấy một vị tiên nữ, liền đến kính chào và nói:

- Tôi đi tìm chị Uyên
Ương, vào nhầm cõi tiên. Dám mong tha thứ tội.

- Xin hỏi nàng. Đây là
chỗ nào? Sao chị Uyên Ương nhà tôi nói em Lâm gọi tôi? Xin nàng bảo cho tôi
được rõ.

Người ấy trả lời:

- Ai biết được chị em
nhà anh? Ta là người coi giữ cây tiên, thì không để cho người trần được dừng
lại ở đây.

Bảo Ngọc cũng muốn đi
ra, nhưng không dứt được, đành phải nài xin:

- Thưa tiên nữ, chắc
nàng là một vị hoa thần. Không biết cây tiên ấy có những gì đáng quý?

- Anh muốn biết rõ cây
ấy à? Nói ra thì câu chuyện cũng dài đấy. Nguyên cây ấy trước ở trên bờ sông
Linh Hà, tên là cây giáng châu. Xưa kia nó bị khô héo, may gặp vị Thần Anh hằng
ngày lấy nước cam lộ tưới cho nó nên được sống mãi. Sau nó xuống trần làm
người, trả xong cái ơn tưới bón khi trước, n đã trở về chân cảnh. Vì vậy,
cảnh ảo hàng ngày sai ta trông nom không để cho bướm ong vương vấn đến. Bảo
Ngọc nghe vậy không hiểu, trong bụng cứ tưởng là gặp được hoa thần. Hôm nay
nhất định không bỏ lỡ dịp, liền hỏi:

- Người trông coi cây ấy
chính là nàng đây rồi. Nhưng còn biết bao nhiêu thứ hoa. Tất nhiên mỗi hoa phải
có một vị coi riêng. Tôi cũng không dám hỏi nhiều, chỉ muốn biết vị tiên nào
coi hoa phù dung?

- Chỉ có chủ nhân ta mới
rõ, ta biết làm sao được.

- Chủ nhân của nàng là
ai?

- Chủ nhân của ta là
Tiêu Tương phi tử.

- Phải rồi? Nàng không
biết vị phi tử ấy là em ngoại của tôi tên là Lâm Đại Ngọc à.

- Nói nhảm? Đây là nơi ở
của các thần nữ thượng giới, tuy gọi là Tiêu Tương phi tử. Mhưng không phải như
các bà Nga Hoàng và Nữ Anh đâu. Làm gì lại có họ hàng với người trần? Anh đến
đây nói bậy vừa chứ? Coi chừng phải gọi lực sĩ ra đánh đuổi đấy!

Bảo Ngọc nghe vậy, đâm
ra sửng sốt, nghĩ mình nhơ *****c, đang định lui ra. Bỗng có người chạy đến
bảo:

- Ở trong truyền bảo mời
vị Thần Anh thị giả vào.

Người kia nói:

- Tôi vâng lệnh chờ từ
lâu. Không thấy có Thần Anh thị giả đến, thì bảo tôi mời ở đâu?

- Chẳng phải mời người
mới đi ra đó à!

Thị nữ ấy vội vàng chạy
theo nói:

- Xin mời Thần Anh thị
giả ở lại.

Bảo Ngọc tưởng họ hỏi
người khác, lại sợ người ta đuổi theo nên vội vàng chạy trốn. Đang chạy bỗng có
người cầm cây kiếm, ngăn lại bảo:

- Chạy đi đâu!

Bảo Ngọc khiếp sợ, đánh
bạo ngẩng đầu lên thì không phải là ai khác mà chính là cô ba họ Vưu. Bảo Ngọc
trông thấy mới hoàn hồn, liền kêu nài:

- Chị ơi, sao chị bức
bách tôi thế?

- Anh em nhà anh không
có một người nào khá, làm hỏng danh tiết người ta, phá cuộc hôn nhân người ta?
Hôm nay anh đến đây, không thể tha cho anh được?

Bảo Ngọc nghe rõ câu
chuyện không hay, còn đang luống cuống, bỗnghía sau có người gọi:

- Chị ơi, mau mau cản
lại? Đừng để cho nó chạy thoát?

Cô Ba Vưu nói:

- Ta vâng lệnh phi tử,
chờ đợi đã lâu. Hôm nay gặp đây, nhất định lưỡi kiếm nầy cắt đứt mối trần duyên
của anh!

Bảo Ngọc nghe xong càng
cuống quít. Lại không hiểu những câu nói ấy là có ý nghĩa gì, quay đầu định
chạy. Không ngờ người nói phía sau đó không phải là ai lạ, mà chính là Tình
Văn.

Bảo Ngọc trông thấy, vừa
mừng vừa tủi, liền nói:

- Tôi một mình lạc đường
đến đây, gặp kẻ thù, muốn trốn về mà không thấy một chị em nào đi theo tôi cả.
Bây giờ gặp chị, may quá! Chị Tình Văn ơi, mau mau dẫn tôi về nhà!

Tình Văn nói:

- Thị giả đừng quản
ngại, tôi đây không phải Tình Văn. Chính là người vâng mệnh phi tử, cốt đến mời
thị giả vào chơi, chứ không có ý làm khó dễ gì đâu.

Bảo Ngọc rất đỗi ngờ
vực, phải hỏi lại:

- Chị bảo phi tử mời
tôi. Vậy thì phi tử ấy là người nào?

- Bây giờ không cần phải
hỏi, vào trong ấy sẽ rõ.

Bảo Ngọc không biết làm
sao, đành phải theo đi, nhìn kỹ người ấy thì đúng là Tình Văn; gương mặt, tiếng
nói quả không sai, nhưng sao lại nói không phải? “Ta bây giờ trong bụng mê mẩn.
Hãy khoan để ý đến chị ta đã. Đợi khi vào trong ấy gặp phi tử nếu có điều gì
không phải, ta sẽ van xin. Các cô gái vốn lòng từ bi, chắc sẽ tha thứ cho sự
lầm lẫn của ta ”. Trong khi nghĩ ngợi như vậy, không bao lâu đã đi đến một chỗ.
Thấy có đền đài lộng lẫy, vẻ đẹp huy hoàng, giữa sân có một khóm trúc, ngoài
cửa vài gốc tùng xanh. Dưới hành lang có mấy thị nữ đứng, đều trang điểm theo
lối trong cung. Các thị nữ trông thấy Bảo Ngọc đến, liền khe khẽ hỏi:

- Thần Anh thị giả đó à?

Người dẫn Bảo Ngọc đến
trả lời:

- Đúng đấy. Chị vào
trình báo đi.

Một thị nữ cười rồi vẫy
tay. Bảo Ngọc liền đi theo. Đi qua mấy gian phòng đến một phòng chính, thấy có
rèm châu treo cao. Người thị nữ ấy nói:

- Hãy đứng đó đợi
truyền.

Bảo Ngọc nghe vậy, cứ
việc im lặng đứng chờ ở ngoài. Thị nữ đi vào bước ra, nói:

- Mời thị giả vào.

Lại có một người khác
cuốn rèm châu lên. Bỗng thấy một cô con gái đầu đội mũ hoa, mình mặc đồ thêu,
ngồi đường hoàng ở trong. Bảo Ngọc vừa mới ngẩng đầu lên thấy là Đại Ngọc, bất
giác nói lên:

- Cô em ở đây mà để tôi
mong nhớ mãi!

Thị nữ đứng ngoài rèm
khẽ hét:

- Thị giả này vô lễ! Mau
mau đi ra?

Nói chưa dứt lời. Bỗng
thấy một thị nữ buông rèm châu xuống. Bảo Ngọc bấy giờ muốn vào cũng không dám,
muốn đi cũng không đành. Đang định hỏi rõ, nhưng thấy mấy thị nữ ấy cũng không
quen biết, lại bị họ đuổi phải đi ra, còn muốn hỏi lại Tình Văn, nhưng ngoảnh
nhìn thì không thấy Tình Văn đâu cả. Anh ta đành ngờ vực bực bội đi ra, lại
không có ai dẫn đường.

Muốn tìm lối vào lúc
trước lại không thấy. Bảo Ngọc đanh loay hoay. Chợt thấy Phượng Thư đứng dưới
hành lang một gian phòng vẫy tay. Anh ta mừng quá, nói:

- Chị ở đây à. Họ trêu
đùa tôi đến thế. Cô Lâm cũng không chịu gặp tôi, không biết vì cớ gì.

Nói rồi chạy đến chỗ
Phượng Thư đứng, nhìn kỹ ra thì không phải Phượng Thư mà lại là vợ trước Giả
Dung là Tần thị.

Bảo Ngọc dừng lại, muốn
hỏi chị Phượng ở đâu, Tần thị cũng không trả lời, bỏ đi vào trong nhà. Bảo Ngọc
mơ mơ màng màng, không dám đi theo. Cứ đứng phía ngoài than thở: “Không biết ta
đã làm điều gì sai trái mà không ai chịu nhìn đến

ta?” Anh ta khóc oà lên.
Bỗng thấy có mấy lực sĩ khăn vàng cầm roi đến bảo:

- Anh ở đâu mà dám xông
xáo vào nơi trời tiên cõi phúc của chúng tôi? Ra ngay đi!

Bảo Ngọc nghe xong không
dám nói gì, đang tìm lối đi ra. Bỗng trông thấy xa xa một đám con gái vừa cười
vừa nói đi tới. Nhìn ra thì giống như bọn Nghênh Xuân. Bảo Ngọc rất mừng và kêu
lên:

- Tôi lạc ở đây. Các chị
đến cứu tôi với!

Đang gọi thì một lực sĩ
ở phía sau chạy đến. Bảo Ngọc bí quá cứ việc chạy ra. Bỗng thấy đám con gái ấy
biến thành ma quỷ cùng đến bắt anh ta. Bảo Ngọc đang lúc cấp bách, chợt trông
thấy vị hoà thượng đã đưa trả viên ngọc. Ông ta trong tay cầm chiếc gương soi
vào mặt Bảo Ngọc và bảo:

- Ta vâng chỉ của Nguyên
phi đến cứu anh đây

Ma quỷ bỗng hiến hết,
lại hiện ra cánh đồng hoang. Bảo Ngọc cầm tay ông ta nói:

- Con còn nhớ. Chính sư
phụ đã đem con đến chỗ này. Rồi một chốc không thấy sư phụ đâu nữa. Con gặp
nhiều người thân thiết. Họ đều không nhìn con, bỗng lại biến thành ma quỷ. Vậy
đó là cảnh mộng hay cảnh thực. Xin sư phụ chỉ bảo cho con được rõ.

- Khi anh đến đây đã xem
trộm cái gì chưa?

Bảo Ngọc nghĩ lại: “ông
ấy đã đưa ta đến chỗ trời tiên cõi phúc này, tất nhiên là bậc thần tiên. Ta nói
dối ông ta sao được. Vả lại ta cũng đang muốn hỏi việc này cho rõ ràng” Anh ta
liền nói:

- Con cũng có xem qua
nhiều quyển sổ.

- Thế còn sao nữa? Anh
xem sổ rồi. Còn chưa hiểu rõ à?

- Phàm tình duyên trên
đời đều là những thứ ma chướng ấy cả. Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua. Sau
này ta sẽ nói rõ với anh.

Nhà sư nói xong, cố xô
Bảo Ngọc một cái và bảo:

- Trở về đi.

Bảo Ngọc chân đứng không
vững, liền ngã xuống, miệng kêu lên:

- Ái chà?

Mọi người đang khóc lóc,
chợt thấy Bảo Ngọc tỉnh lại. Vội vàng gọi. Bảo Ngọc mở mắt nhìn, thấy mình vẫn
nằm trên giường, lại thấy Vương phu nhân và Bảo Thoa khóc sưng cả mắt. Anh ta
định thần nhớ lại, nghĩ bụng: “đúng rồi. Ta chết rồi sống lại đây?” Anh ta cố
nhớ lại những việc mà linh hồn đã từng trải qua, đều nhớ được hết, liền cười
to:

- Đúng rồi? Đúng rồi!

Vương phu nhân cho là
bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát, phải mời thầy thuốc điều trị, liền bảo một a
hoàn già đi mau đến trình Giả Chính:

- Bảo Ngọc đã tỉnh lại.
Lúc trước là vì ngất đi đó thôi, nay đã nói được. Không cần phải sắm đồ hậu sự
nữa.

Giả Chính nghe xong vội
đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã sống lại, liền bảo:

- Thằng con si ngốc kia!
Mày định dọa ai đấy?

Nói xong, bất giác chảy
nước mắt, lại than thở vài câu, rồi trở ra, bảo người đi mời thầy xem mạch cho
đơn.

Trong nhà, Xạ Nguyệt
đang định tự tử, nay thấy Bảo Ngọc tỉnh lại yên tâm. Vương phu nhân gọi người
bưng nước quế đến, bảo anh ta uống mấy ngụm. Bảo Ngọc dần dần tỉnh táo. Vương
phu nhân mới yên tâm, cũng không trách móc gì Xạ Nguyệt, rồi gọi người đưa viên
ngọc cho Bảo Thoa để đeo cho Bảo Ngọc. Vương phu nhân lại nghĩ đến việc vị hoà
thượng liền nói:

- Viên ngọc ấy không
biết tìm được ở đâu. Lạ thực! Sao lúc thì đòi bạc, rồi bỗng chốc không thấy đâu
nữa. Phải chăng là một vị thần tiên?

Bảo Thoa nói:

- Nghĩ lại hình tích vị
sư ấy khi đến cũng như khi đi thì viên ngọc này không phải là tìm được. Chưa
biết chừng lần trước bị mất cũng là ông ta lấy đi đó thôi.

- Ngọc ở trong nhà, làm
sao mà lấy đi được?

- Đã đưa đến được thì
lấy đi cũng được chứ.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt
đều nói:

- Năm trước khi mất viên
ngọc, ông Lâm Chí Hiếu đi bói, sau mợ Hai về đây. chúng tôi đã thưa với mợ rằng
bói được chữ “thưởng” gì đó. Mợ Hai còn nhớ rõ không?

Bảo Thoa nhớ lại:

- Đúng rồi, nghe các cô
nói khi ấy bói ra là phải đi tìm trong hiệu cầm đồ. Nay mới rõ, thì ra chính là
chữ “thưởng” là hoà thượng ở trên đầu, thế không phải là “hoà thượng” đã lấy
viên ngọc đi sao? Vị hoà thượng kỳ quặc thật?

- Năm trước Bảo Ngọc bị
bệnh, một vị hoà thượng đến nói nhà ta có bảo bối, có thể chữa bệnh. Tức là nói
viên ngọc ấy, ông ta đã hiểu rõ như thế. Tất nhiên là viên ngọc ấy vẫn có lai
lịch. Vả lại chồng con khi sinh ra đã ngậm sẵn viên ngọc trong miệng. Xưa nay
các con có thấy người thứ hai nào như thế không? Không biết sau này viên ngọc
ấy sẽ ra sao! Cho đến cái anh này cũng chưa biết rồi ra thế nào! Dữ cũng do
viên ngọc ấy, lành cũng do viên ngọc ấy...

Nói đến đó, bà ta bỗng
ngừng lại, bất giác lại chảy nước mắt.

Bảo Ngọc nghe xong, bụng
cũng hiểu rõ, lại nghĩ đến việc mình ngất đi một lúc, càng có nguyên do. Nhưng
không nói gì trong bụng nhẩm lại rất kỹ.

Bấy giờ Tích Xuân mới
nói:

- Năm trước mất ngọc,
nhờ sư Diệu ngọc cầu tiên có cho câu thơ: “dưạ núi Thanh Ngạnh dựa câu thông”.
Lại còn có câu: “Vào cửa ta đây gặp nhau cùng”. Nghĩ lại ba chữ “vào cửa” ta
cần đáng xét kỹ: “cửa nhà Phật rất lớn, chỉ sợ anh Hai không vào được thôi.Bảo
Ngọc nghe xong cười nhạt. Bảo Thoa nghe nói bất giác cau mày sửng sốt. Vưu thị
nói:

- Cô này mở miệng ra là
nói đến cửa nhà Phật. Còn chưa chịu bỏ ý muốn đi tu à?

Tích Xuân cười:

- Không dấu gì chị. Tôi
không ăn mặn đã lâu.

Vương phu nhân bảo:

- A di đà Phật. Cháu ơi,
nghĩ như thế không nên.

Tích Xuân nghe vậy cũng
không nói gì.

Bảo Ngọc nhớ đến câu
thơ: “một ngọn đèn xanh trước Phật bà”, rồi thở dài luôn mấy tiếng. Chợt lại
nhớ đến những chữ “một chiếc chiếu, một khóm hoa “, rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân,
bất giác chảy nước mắt.

Mọi người thấy Bảo Ngọc
khi vui khi buồn, cũng không hiểu vì sao, chỉ cho đó là bệnh cũ. Có biết đâu
Bảo Ngọc vì đã biết những điều bí ẩn, đã nhớ lại rành mạch nhưng câu thơ xem
trộm trong các quyển sổ. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.

Người trong nhà thấy Bảo
Ngọc chết rồi sống lại, tinh thần sáng suốt, lại uống thuốc luôn mấy hôm, nên
mỗi ngày một khá. Dần dần bình phục như cũ. Còn Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc
đã khỏi, hiện nay đang nghỉ ở nhà chịu tang cũng còn rảnh việc; nghĩ lại Giả Xá
chưa biết lúc nào được thăm linh cữu của mẹ đã để lâu trong chùa. Vẫn không
đành lòng, nên muốn rước linh cữu về miền Nam để an táng. Giả Chính liền gọi
Giả Liễn đến để bàn. Giả Liễn thưa:

- Chú nghĩ rất phải. Nay
nhân dịp chịu tang, làm xong được việc lớn ấy càng hay. Nếu để đến sau này, chú
lại ra làm quan, có lẽ sẽ không làm được vừa ý. Chỉ có điều cha cháu không ở
nhà, mà cháu lại không dám vượt quyền. Ý định của chú rất hay; nhưng muốn lo
liệu việc ấy thì phải cần đến mấy nghìn lạng bạc. Nếu chỉ chờ nha môn tra ra
của mất trộm thì không thể tra ra ngay được đâu.

Giả Chính nói:

- Ý ta đã định rồi. Chỉ
vì anh Cả đi vắng nên gọi cháu đến bàn xem nên làm thế nào. Cháu thì không thể
đi ra khỏi nhà được vì trong nhà đây hiện giờ không có ai. Ta nghĩ mấy chiếc
quan tài đều phải rước về. Một mình ta làm sao trông nom cho xuể. Ta định đem
cháu Dung đi, vì có cả quan tài vợ nó cũng đưa theo. Lại còn quan tài của cháu
Lâm nữa, theo lời bà trối lại, bảo phải đem theo đi với bà. Còn số tiền ấy thì
ta nghĩ chỉ cần mượn tạm đâu đó mấy nghìn cũng cũng đủ.

- Nhân tình bây giờ rất
là tệ bạc, chú thì đang về nghỉ chịu tang; cha cháu thì còn ở ngoài. Thực cháu
không thể v vào đâu được. Chỉ còn cách đem khế tờ nhà đất đi cầm mà thôi.

- Nhà cửa chúng ta ở đây
đều do của công xây dựng; động đến sao được?

- Nhà ở đã đành không
thể động đến được. Nhưng còn mấy sở nhà ở ngoài, có thể đem cầm tạm, đợi sau
chú ra làm quan sẽ chuộc lại cũng được. Hoặc là sau này cha cháu trở về, nếu
được bổ dụng nữa thì cũng có thể chuộc lại. Chỉ ngại một điều là chú tuổi tác
như thế mà chuyến đi này rất vất vả thì trong bụng cháu không đành!

- Việc của bà nhất định
phải làm. Chỉ cần cháu ở nhà cẩn thận lo lắng việc nhà chu đáo là được.

- Xin chú cứ yên tâm.
Cháu tuy ngu dại, nhưng cũng quyết xin hết sức lo liệu. Vả lại, chú về Nam,
chắc cũng phải đem nhiều người đi. Người ở nhà đây chẳng bao nhiêu, chỉ cần một
số ít tiền cũng có thể xoay xở lo liệu. Nếu đi đường thiếu tiền tiêu thì khi
qua chỗ Lại Thượng Vinh làm quan, chú có thể bảo anh ta giúp một ít.

- Việc của mẹ mình mà
lại bảo người khác giúp làm gì?

Giả Liễn “dạ” rồi lui
ra, thu xếp tiền bạc.

Giả Chính nói chuyện với
Vương phu nhân, bảo ở nhà trông nom, còn mình chọn được ngày tốt sẽ rước quan
tài đi xa. Bảo Ngọc lúc ấy đã bình phục như cũ. Giả Hoàn, Giả Lan cũng biết
chăm học. Giả Chính dặn Giả Liễn phải để ý trông nom:

- Năm nay vừa gặp khoa
thi. Thằng Hoàn còn có tang, không vào thi được. Thằng Lan là hàng cháu, hết
tang cũng có thể đi thi. Cần phải nhắn nhủ Bảo Ngọc đi thi với cháu, may đậu
được một tên cử nhân cũng đủ chuộc lại tội lỗi của chúng ta.

Giả Liễn vâng lời.

Giả Chính lại dặn dò
những người ở nhà, nói thêm mấy câu rồi đến bái biệt từ đường, sau đó ra ngoài
thành, tụng kinh mấy hôm, rồi rước quan tài xuống thuyền cùng bọn Lâm Chí Hiếu
ra đi. Giả Chính không muốn làm phiền các bà con bạn bè, chỉ có bọn đàn ông đàn
hà trong phủ đi đưa một độ đường rồi trở về.

Bảo Ngọc vì Giả Chính
dặn bảo đi thi. Vương phu nhân thỉnh thoảng cũng thúc giục và xét hỏi đến bài
vở. Bọn Bảo Thoa,Tập Nhân thường thường khuyên bảo, việc ấy không cần kể rõ.
Nào ngờ Bảo Ngọc sau khi lành bệnh, tuy tinh thần ngày càng khá hơn, nhưng ý
nghĩ lại càng kỳ quặc, thay đổi khác hẳn. Không những anh ta chán ghét công
danh quan chức mà đến cả tình duyên đối với con gái cũng lạt lẽo đi nhiều.
Nhưng mọi người không ai để ý lắm. Bảo Ngọc cũng không nói ra.

Một hôm Tử Quyên đi đưa
linh cữu Đại Ngọc trở về, buồnã ngồi trong nhà khóc lóc, chị ta nghĩ bụng: “Bảo
Ngọc thật vô tình! Thấy quan tài cô Lâm đưa về mà cũng không hề thương khóc.
Thấy mình khóc lóc thế này cũng không đến yên ủi lại nhìn mình mà cười. Con
người phụ bạc ấy trước kia chỉ khéo tìm lời ngon ngọt tán tỉnh mình. May mà đêm
hôm nọ mình nghĩ vỡ lẽ ra được, nếu không thì đã mắc lừa cậu ta rồi! Nhưng có
một điều không sao hiểu rõ. Bây giờ cậu ấy đối với bọn chị TậpNhân cũng có vẻ
thờ ơ, mợ Hai vốn là người không ưa vồn vã, nhưng còn bọn Xạ Nguyệt lại không
giận cậu ấy sao? Xem ra bạn gái phần nhiều là bọn si ngốc, đã uổng phí tâm lực
bấy lâu nay, sau này không biết rồi ra thế nào?”...

Cô ta đang nghĩ thì vừa
hay con Năm đến hỏi thăm. Thấy Tử Quyên nước mắt dàn dụa. Con Năm liền hỏi:

- Chị lại khóc cô Lâm à?
Người ta nói tai nghe không bằng mắt thấy, quả là đúng. Trước kia, nghe tiếng
cậu Hai đối với chị em bạn gái rất là tốt. Mẹ tôi xin mãi mới đưa được tôi vào
hầu. Không ngờ sau khi vào đây. Tôi đã hết lòng hết sức hầu hạ

những khi đau ốm, thế mà
đến lúc lành bệnh, lại chẳng được một câu nói tử tế nào. Bây giờ thậm chí cậu ấy
không thèm nhìn đến tôi nữa!

Tử Quyên nghe con Năm
nói buồn cười, liền cười và mắng:

- Con ranh! Mày muốn cậu
Bảo đối đãi với mày như thế nào cơ? Đồ con gái không biết xấu hổ. Người ta
đường hoàng là người hầu trong nhà mà cậu ấy còn xem như không, thì còn công
hơi nào nhìn đến mày nữa?

Rồi cô ta lại cười, giơ
đầu ngón tay quẹt vào má con Năm và hỏi:

- Rút cục mày là hạng
người gì của Bảo Ngọc?

Con Năm nghe nói, biết
mình lỡ lời, liền đỏ mặt lên. Nó định nói là không phải mình muốn Bảo Ngọc đối
đãi với mình như thế nào, mà chỉ muốn nói gần đây anh ta không biết thương kẻ
dưới. Bỗng nghe ngoài sân có tiếng kêu lên:

- Ông sư lại đến ngoài
kia đòi một vạn lạng bạc đấy. Bà lớn sốt ruột bảo cậu Hai Liễn ra thương lượng
với ông ấy, không may cậu Liễn lại đi vắng! Ông sư ở ngoài ấy nói nhiều chuyện
điên rồ. Bà lớn bảo mời mợ Hai sang bàn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3