Hồng lâu mộng - Chương 058
Chương 58: Hồi thứ năm
mươi tám
Dưới bóng hạnh, phượng
giả khóc hão huyền;
Bên cửa the, tình thật
nghĩ vơ vẩn.
Bọn Thám Xuân hỏi thăm
xong, mọi người cười đùa một lúc rồi đâu về đây.
Ngờ đâu trong cung lão
thái phi chết, các bà mệnh phụ đều phải vào triều theo thứ tự chịu tang. Có sắc
ban xuống cả nước, những nhà có chức tước, trong một năm không được mở tiệc hát
xướng; dân chúng thì ba tháng không được cưới xin. Mẹ con, bà cháu Giả mẫu ngày
nào cũng phải vào triều dự tế, đến giờ mùi mới được về. Sau hai mươi mốt ngày
làm lễ ở cung bên cạnh, mới rước linh đến tiên lăng, ở huyện Hiếu Từ. Từ Kinh
đến lăng, phải đi về mất mười ngày. Khi rước linh đến đấy, lại phải để vài ngày
nữa mới đặt vào địa cung (cung ở dưới đất) thế là công việc vừa vặn mất một
tháng. Vợ chồng Giả Trân ở phủ Ninh cũng phải đi tế. Hai phủ vắng người, vì thế
họ bàn với nhau, trong nhà không có chủ, phải nói dối là Vưu thị “ở cữ” để ở nhà
trông nom công việc cả hai phủ.
Lại nhờ Tiết phu nhân
vào ở trong vườn, trông nom bọn chị em và a hoàn. Bấy giờ bên nhà Bảo Thoa đã
có Tương Vân và Hương Lăng; bên nhà Lý Hoàn tuy thím Lý về rồi, nhưng cứ dăm ba
ngày lại đến một lần. Giả mẫu lại giao Bảo Cầm ch thím ấy trông nom, bên Nghênh
Xuân đã có Tụ Yên; Thám Xuân thì việc nhà bận rộn, thỉnh thoảng dì Triệu cùng
Giả Hoàn lại cứ đến quấy rầy, rất là khó chịu; nhà Tích Xuân thì hẹp quá không
có chỗ cho Tiết phu nhân ở. Giả mẫu lại căn dặn Tiết phu nhân nhiều lần nhờ
trông nom Đại Ngọc. Tiết phu nhân xưa nay vẫn thương yêu Đại Ngọc, nhân địp
này, liền dọn đến quán Tiêu Tương cùng ở với cô ta. Tất cả thuốc men, ăn uống
đều được trông nom cẩn thận. Đại Ngọc cảm kích quá, từ đấy cũng gọi Tiết phu
nhân là mẹ, gọi Bảo Thoa bằng chị, Bảo Cầm bằng em, thân thiết như chị em ruột,
hơn hẳn mọi người. Giả mẫu thấy thế cũng rất vui vẻ yên tâm.
Tiết phu nhân chỉ trông
nom các chị em và ngăn cấm bọn a hoàn thôi; còn những việc lớn nhỏ trong nhà
đều không hay nhắc đến. Vưu Thị ngày nào cũng sang, nhưng chỉ điểm đầu chiếu lệ
chứ không lên mặt oai quyền. Vả lại, trong nhà trên dưới chỉ còn một mình chị
ta trông nom, lại ngày nào cũng phải sắm sửa các thứ ăn mặc, đồ dùng đưa đến
chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân, vì thế cũng rất khó nhọc.
Lúc này cả chủ nhà lẫn
người giữ việc ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đều rất bận rộn. Có người phải theo vào
chầu, có người phải trông nom công việc ở nơi nhà trọ, có người đi trước sắp
đặt nơi nghỉ trọ, nên ở nhà không có ai cầm đầu đứng đắn cả. Họ hoặc nhuế nhóa
cho qua chuyện, hoặc tụ tập, đàn đúm với bọn giữ việc tạm thời, ỷ thế làm càn.
Bên phủ Vinh chỉ còn có Lại Đại cùng mấy người trông nom việc ngòai thôi. Những
người xưa nay Lại Đại quen dùng để giúp việc cũng phải đi cả, tuy mượn người
khác thay, nhưng đều mới lạ, chưa quen việc. Vả chăng bọn họ đều là hạng ngú
ngớ hoặc bớt xén bừa bãi, hoặc trình báo vu vơ, hoặc cất nhắc liều lĩnh, việc
gì cũng hỏng, chỗ nào cũng sinh rắc rối, không thể kể ra hết được. Thấy bọn con
hát ở các nhà quan đều cho về cả, bọn Vưu thị liền bàn nhau, cũng trình với
Vương phu nhân cho mười hai con hát về. Có người nói:
- Bọn này đều là những
người mua về, bây giờ không cho học hát nữa, nhưng có thể giữ lại để sai khiến,
chỉ cho bọn giáo tập(1) về thôi.
(1). Người dạy.
Vương phu nhân nói:
- Bọn học hát không thể
so với lũ người sai khiến được. Họ là con nhà tử tế, vì không có nghề gì, nên
bán đi để cho học hát. Chúng nó đã bôi râu vẽ mặt mấy năm rồi. Bây giờ nhân dịp
này, cho mỗi người mấy lạng bạc để chúng về. Ngày trước các cụ cũng đã đặt ra
lệ này. Chúng ta không nên làm việc thất đức bụng dạ hẹp hòi. Hiện giờ còn mấy
người ở lại đã lâu, vì duyên cớ gì không muốn về nhà thì nên cho nó ở lại để
sai khiến, chờ khi lớn lên sẽ gả cho những người hầu ở trong nhà.
Vưu thị nói:
- Ta nên hỏi mười hai
con hát này, đứa nào muốn về lạng bạc và báo tin cho bố mẹ nó đến nhận, như thế
mới phải. Không gọi người nhà nó đến, lỡ ra có những kẻ bậy bạ mạo tên đến
lĩnh, rồi lại đem đi bán ở chỗ khác, như thế chẳng phụ công ơn mình hay sao? Đứa
nào không muốn về thì cho ở lại.
Vương phu nhân cười nói:
- Nói thế phải đấy.
Vưu thị sai người báo
cho Phượng Thư biết rồi truyền xuống phòng tổng quản cấp cho mỗi người giáo tập
tám lạng bạc, làm gì tùy ý. Một mặt tra xét những sổ sách đồ đạc ở viện Lê
Hương và sai người đến canh đêm.
Khi gọi mười hai đứa bé
đến hỏi kỹ càng thì đến quá nửa không muốn về nhà. Có đứa nói, tuy còn bố mẹ,
nhưng chỉ chuyên muốn bán con đi thi, nay trở về lại sợ bị mang đi bán lần nữa;
có đứa nói bố mẹ chết rồi, bị anh em chú bác mang đi bán; có đứa nói không có
chỗ nào nương tựa; có đứa nói mến ơn chủ không muốn bỏ đi. Chỉ có bốn, năm đứa
là xin về.
Vương phu nhân đành cho
chúng ở lại. Bốn, năm đứa kia thì giao cho bọn mẹ nuôi, đợi bố mẹ đẻ chúng đến
nhận sẽ trả. Những đứa không muốn về thì chia đến ở các nhà trong vườn. Giả mẫu
giữ lại Văn Quan để sai khiến, giao Phương Quan cho Bảo Ngọc, Nhụy Quan cho Bảo
Thoa, Ngẫu Quan cho Đại Ngọc, Quỳ Quan cho Tương Vân, Đậu Quan cho Bảo Cầm,
Ngải Quan cho Thám Xuân, Vưu Thị xin nhận Già Quan. Mọi người được chốn yên
thân, như chim sổ ***g, ngày nào cũng ra vườn chơi đùa. Bọn trẻ này không thạo
may vá thêu thùa, không quen sai khiến, ai cũng biết nên không chấp nó. Cũng có
mấy đứa biết nghĩ, lo sau này ra đời không có nghề làm ăn, nên tự bỏ nghề cũ,
học lấy những công việc may vá thêu thùa.
Hôm ấy chính là ngày đại
tế trong triều, Giả mẫu dậy từ canh năm đến chỗ nghỉ ăn lót dạ rồi vào triều.
Cơm sáng xong, về nhà trọ nghỉ, ăn bữa cơm trưa, nghỉ một lúc, vào triều dự hai
buổi tế trưa và tối. Sau đó về nhà trọ nghỉ, ăn cơm tối rồi mới về phủ. May sao
chỗ trọ là ngôi miếu của một ông quan to, có sư vãi trông nom, nhà cửa rất là
sạch sẽ, có hai dãy phòng bên đông và bên tây. Phủ Vinh thuê dãy phòng bên
đông, phủ Bắc Tĩnh vương thuê dãy phòng bên tây. Bọn thái phi, thiếu phi hàng
ngày thường đến nghỉ ở đấy, cùng đi về với Giả mẫu, nên cùng trông nom giúp đỡ
lẫn nhau.
Giả mẫu và Vương phu
nhân phải đi đưa ma một tháng, bọn a hoàn và bà già đều rỗi việc, thường ra
chơi đùa ở trong vườn. Các bà già hầu hạ ở trong viện Lê Hương cũng gọi về và
cắt đi sai vặt ở các nơi, thành ra trong vườn lại nhiều thêm mấy chục người.
Bọn Văn Quan trước kia
đứa thì tính nết kiêu ngạo, đứa thì cậy thế bắt nạt kẻ dưới, đứa thì thích ăn
ngon mặc đẹp, đứa thì chanh chua chỏng lỏn, phần nhiều không biết yên phận. V
bà già đều oán ngầm, nhưng không dám cãi cọ với chúng. Bây giờ chúng thôi không
học hát nữa, mọi người đều được hả dạ. Có người thì bỏ qua; có người bụng dạ ẹp
hỏi vẫn nhớ thù xưa, nhưng vì chúng đã về các phòng, nên không ai dám động đến.
Một hôm vừa gặp ngày
thanh minh, Giả Liễn sắm sửa đồ lễ thường năm, dẫn Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan
đến chùa Thiết Hạm tế lễ đốt vàng. Giả Dung bên phủ Ninh cũng dẫn người trong
họ đem đồ lễ đến tế. Bảo Ngọc vì ốm chưa khỏi hẳn, nên không đi được. Ăn cơm
xong Bảo Ngọc kêu mệt, Tập Nhân nói:
- Hôm nay tốt giời, cậu
hãy đi ra ngoài chơi, kẻo ăn cháo rồi đi ngủ ngay thì khó tiêu.
Bảo Ngọc chống gậy đi
giày ra ngoài sân chơi. Gần đây công việc trong vườn đều giao cho các bà già
trông nom, người nào việc ấy, ai cũng bận rộn. Có người sửa trúc, có người đẵn
cây, có người trồng hoa, có người gieo đậu, trong ao lại có các cô lái đò chèo
thuyền lấy bùn, trồng sen. Tương Vân, Hương Lăng, Bảo Cầm cùng một số a hoàn
đều ngồi trên đá xem họ làm việc cho vui. Bảo Ngọc cũng lững thững đi đến.
Tương Vân trông thấy cười nói:
- Tống cổ cái thuyền này
đi, họ đến đón cô Lâm đấy!
Mọi người đều cười ầm
lên. Bảo Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:
- Khi ốm còn ai nói hay
được? Cô lại còn nhắc để làm trò cười!
Tương Vân cười nói:
- Bệnh ấy khác hẳn mọi
chứng bệnh, chính mình chuốc lấy trò cười, lại đi nói người ta.
Bảo Ngọc cũng ngồi xuống
xem mọi người đang tấp nập làm việc. Tương Vân nói:
- Đây có gió, đá lại
lạnh, anh ngồi một tí rồi về thôi. Bảo Ngọc định đến thăm Đại Ngọc, chống gậy
đứng dậy, cáo từ mọi người rồi đi theo con đê ở cầu Thấm Phương. Hai bên dây
liễu rủ vàng, hoa đào khoe thắm; một cây hạnh lớn ở sau núi đá hoa đã rụng cả,
lá râm xanh om, trên cây có nhiều quả hạnh nhỏ bằng hạt đậu. Bảo Ngọc liền nghĩ:
- Ốm mất mấy hôm, thành
ra phụ cả hoa hạnh này! Không ngờ nay đã “Lá xanh rợp bóng quả đầy cành” rồi!-
Bảo Ngọc nhìn mãi cây hạnh không thôi. Lại nghĩ đến việc Hình Tụ Yên sắp lấy
chồng, tuy việc trai lấy vợ, gái lấy chồng là lẽ tất nhiên, nhưng lại thiếu mất
một cô gái trong sạch, chỉ độ vài năm nữa chắc lại “lá xanh rợp bóng quả đầy
cành”. Mấy hôm nữa, cây hạnh này quả rụng cành trơ; mấy năm nữa cô Tụ Yên cũng
chẳng tránh khỏi má hồng phai nhạt, mớ tóc bạc phơ! Bảo Ngọc đâm ra thương tâm,
chỉ nhìn cây hạnh thở dài. Đương lúc than thở, chợt có con chim sẻ bay đến, kêu
ríu rí trên cành, Bảo Ngọc lại đâm ngơ ngẩn, nghĩ bụng: “Chắc khi hoa hạnh nở,
con chim sẻ đã từng đến đây, nay thấy không còn hoa, chỉ có lá nên nó kêu ríu
rít. Tiếng kêu này tất là tiếng khóc than gì đây? Tiếc rằng Công Dã Tràng(2)
không ở đây, nên không hỏi được con chim ấy. Nhưng không biết sang năm khi cây
hạnh nở hoa, liệu con chim sẻ này còn nhớ mà bay đến để họp mặt với hoa nữa
không?”
(2). Học trò Khổng tử, ông biêt nghe hiểu tiếng chim.
Đương nghĩ vơ vẩn, thì
có ánh lửa từ bên kia núi rọi sang, con chim sẻ sợ bay đi mất. Bảo Ngọc giật
mình, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng quát: “Ngẫu Quan, mày muốn chết! Làm sao
lại mang giấy tiền đến đây mà đốt? Ta về trình các mợ cho mà xem, liệu xác mày
đấy!” Bảo Ngọc càng nghi hoặc, liền đi vòng sang núi xem, thấy Ngẫu Quan nước
mắt giàn giụa, ngồi ở đấy tay vẫn cầm mồi lửa, ngồi trước đống gio giấy tiền mà
than khóc, Bảo Ngọc vội hỏi:
- Chị đốt giấy tiền cho
ai đấy? Đừng đốt ở đây! Có đốt cho bố mẹ anh em, thì nói rõ tên họ ra, tôi sẽ
bảo người hầu làm cho một cái bao giấy, viết tên họ vào đấy rồi đem mà đốt.
Ngẫu Quan trông thấy Bảo
Ngọc, không nói câu gì. Bảo Ngọc hỏi mãi nó cũng chẳng trả lời. Chợt thấy một
bà già hằm hằm chạy đến kéo Ngẫu Quan, mồm lảm nhảm: “Tao đã trình các mợ rồi,
các mợ ấy giận lắm!” Ngẫu Quan tính còn trẻ con, nghe nói, sợ mất thể diện nên
không chịu đi. Bà già nói:
- Tao bảo mày không được
nhông nháo quá như thế! Bây giờ không làm bậy được như lúc còn ở ngoài đâu! Đây
là chỗ nghiêm cấm đấy. - Lại trỏ Bảo Ngọc nói: - Ngay cậu chúng tao đây cũng
phải giữ khuôn phép, mày là hạng gì mà dám đến đây làm bậy? Rồi cũng chỉ là đồ
vất đi thôi. Hãy đi theo tao!
Bảo Ngọc vội nói:
- Cô ấy có đốt giấy tiền
đâu, cô Lâm bảo cô ấy đốt giấy vụn đấy, bà không biết rõ, lại đi mách nhầm.
Ngẫu Quan chẳng hiểu ra
sao, trông thấy Bảo Ngọc lại càng sợ thêm. Thấy Bảo Ngọc bênh mình, trong bụng
đương lo hóa mừng, liền nói bướng:
- Bà trông thực là giấy
tiền à? Tôi đốt giấy vụn của cô Lâm đấy.
Bà già cúi xuống nhặt
mảnh giấy còn sót lại ở đống gio lên nói:
- Mày còn cãi bướng à?
Có chứng cớ đây, đi lên nhà tao sẽ nói chuyện với mày.
Liền cầm tay Ngẫu Quan
chực lôi đi.
Bảo Ngọc vội kéo Ngẫu
Quan lại, lấy gậy gạt tay bà già, nói:
- Bà cứ bắt cô ấy đi.
Tôi nói thực cho bà biết: đêm qua tôi nằm mê, thấy thầnạnh hoa đòi một bó giấy
tiền, bảo phải sai người lạ đốt, không được sai người trong nhà, bệnh tôi mới
chóng khỏi. Vì thế tôi đưa giấy tiền nhờ cô Lâm nói với cô đem đốt và khấn hộ,
không cho một ai biết, nên hôm nay mới dậy được. Không may bà lại trông thấy.
Bây giờ tôi mà khó chịu là tại chạm phải vía bà đấy! Bà lại còn muốn đi mách cô
ấy à? Cô Ngẫu Quan đến chỗ các mợ cứ theo thế mà nói cho tôi.
Ngẫu Quan nghe nói càng
đắc ý, lại kéo bà già đi. Bà già vất giấy tiền xuống, cười xin Bảo Ngọc:
- Vì tôi không biết, nếu
cậu trình bà thì còn gì là đời tôi nữa? Bây giờ tôi về trình với các mợ là cậu
ra lễ thần, tôi trông lầm đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Bà mà không trình thì
tôi cũng không nói.
- Tôi trót trình rồi,
các mợ bảo phải mang nó lên. Bây giờ đành chỉ nói là cô Lâm gọi nó về rồi.
Bảo Ngọc gật đầu bằng
lòng. Bà già liền đi ngay.
Bảo Ngọc hỏi kỹ Ngẫu
Quan:
- Đốt giấy tiền cho ai
đấy? Đốt cho bố mẹ anh em, tất phải nhờ người ngoài, chắc cô lại có mối tình
riêng gì đây?
Ngẫu Quan thấy Bảo Ngọc
vừa mới che chở cho mình và cũng có những tâm tư giống mình, lòng càng cảm
kích, khó bề giấu giếm được, liền rơm rớm nước mắt nói:
- Việc này của tôi, trừ
Phương Quan nhà cậu và Nhụy Quan ở nhà cô Bảo ra, không có người thứ ba nào
biết nữa. Hôm nay bất chợt cậu trông thấy, đành phải nói thực với cậu, nhưng
cậu không được nói cho người khác biết. - Rồi nó lại khóc - Tôi không tiện nói
thẳng với cậu, cậu cứ về đi, khi vắng người cậu khẽ hỏi Phương Quan sẽ biết. -
Nói xong bùi ngùi đi về.
Bảo Ngọc trong lòng buồn
bực, đành đi đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc. Thấy Đại Ngọc người gầy đáng
thương, hỏi ra đã đỡ hơn trước nhiều. Đại Ngọc cũng thấy Bảo Ngọc gầy hơn trước
nhiều, nhớ đến việc hôm nọ, nước mắt lại giàn giụa. Cô ta nói chuyện qua loa
mấy câu rồi giục Bảo Ngọc về nghỉ. Bảo Ngọc đành phải đi về. Nhớ đến việc lúc
nãy, Bảo Ngọc muốn hỏi Phương Quang, nhưng có Tương Vân, Hương Lăng ở đấy đang
nói chuyện với Tập Nhân và Phương Quan, nên không tiện gọi nó, sợ người ta tra
hỏi, đành phải nín lại.
Một lúc sau, Phương Quan
đi gội đầu với mẹ nuôi. Nhưng mẹ nuôi nó lại cho con gái đẻ gội trước, rồi mới
đến Phương Quan. Phương Quan thấy thế, cho là mẹ nuôi bênh con đẻ liền nói:
- Mẹ lấy nước thừacon
gái cho tôi gội à? Tiền lương tháng của tôi mẹ lấy cả, không biết đã phải nhờ
vào tôi, lại còn cho tôi dùng những đồ thừa!
Mẹ nó xấu hổ quá, đâm ra
cáu giận, mắng:
- Đồ vô ơn này! Chẳng
trách người ta thường nói là “xướng ca vô loài”. Mày dù hay đến đâu, đã nhập
vào bọn ấy cũng đến hỏng thôi! Mới ba tuổi ranh đã biết bới lông tìm vết, lời
ong tiếng ve, chả khác gì con lừa cắn quanh!
Hai mẹ con cãi nhau ầm
lên.
Tập Nhân vội sai người
ra bảo:
- Làm ồn vừa chứ! Tại
sao cứ nhè lúc cụ đi vắng là cãi nhau om sòm, không ai chịu lựa lời êm thắm nói
chuyện với nhau.
Tình Văn nói:
- Đó là Phương Quan bới
việc, chẳng biết nó làm ầm cái gì? Mới biết được vài vở hát, đã tưởng mình giết
được tướng giặc, bắt được kẻ làm phản ấy!
Tập Nhân nói:
- Ông ghê bà cũng
gớm!(3) Người già cư xử bất công, con bé thì cũng đáng ghét.
(3). Nguyên văn: một bàn tay vỗ không nên tiếng.
Bảo Ngọc nói:
- Không trách được
Phương Quan. Người xưa nói: “Con giun xéo lắm cũng phải quằn”. Ở đây nó không
có bố mẹ họ hàng, chẳng ai trông nom; bà ấy đã lấy tiền của nó, lại còn giày vò
nó, thì trách sao được?
Lại hỏi Tập Nhân:
- Một tháng nó được bao
nhiêu tiền lương? Từ nay chị nhận lấy lương mà trông nom nó, chẳng nhẹ việc hay
sao?
- Tôi làm gì chả trông
nom được, cứ gì phải mấy đồng tiền của nó, để người ta chửi cho đấy?
Nói xong Tập Nhân đứng
dậy vào trong nhà lấy một lọ dầu móc hoa, trứng gà, xà phòng thơm, dây buộc
tóc, gọi bà già đến bảo:
- Bà mang cho Phương
Quan, dặn nó lấy nước khác mà gội, đừng làm ồn lên nữa.
Mẹ nuôi Phương Quan càng
xấu hổ nói:
- Đồ bội bạc! Cứ bảo tao
ăn bớt tiền của mày! - Rồi đánh nó mấy cái.
Phương Quan khóc ầm lên,
Bảo Ngọc chạy ra, Tập Nhân vội ngăn lại:
- Cậu ra làm gì? Để tôi
đi bảo mụ ấy.
Tình Văn vội chạy ra,
trỏ vào mẹ nuôi Phương Quan nói:
- Bà già mà không biết
điều! Bà không cho nó nước gội đầu, chúng tôi mới phải cho nó. Bà không biết
xấu hổ, lại còn vác mặt đi đánh nó, nó còn học nghề ở ban hát liệu bà có dám
đánh nó không?
- Một ngày nhận mẹ là
nghĩa suốt đời. Nó hỗn láo, tôi đánh nó đấy!
Tập Nhân gọi Xạ Nguyệt
bảo:
- Tôi không quen cãi
nhau với ai. Tình Văn nóng tính quá. Chị ra đe mẹ ấy mấy câu.
Xạ Nguyệt chạy ra nói:
- Bà hãy im đi. Tôi hỏi
bà: không riêng chỗ chúng tôi ở đây, mà cả trong vườn này, bà xem có ai dám
mắng mỏ con cái ở trong nhà chủ không? Dù là con đẻ của bà nữa, đã cho đi ở các
phòng, phạm lỗi gì, đã có người chủ đánh mắng. Sau nữa có các cô, các chị lớn
tuổi mới đánh mắng được thôi, ai cho phép bà ở ngoài đến sấn sổ vào những việc
không đâu? Nếu bà còn làm thế, thì bảo chúng nó đến đây học chúng tôi cái gì?
Càng già càng vô phép! Hôm nọ bà thấy mẹ Trụy Nhi đến làm ầm lên, giờ bà cũng
lại định học mụ ấy phỏng? Các bà hãy bình tâm. Mấy hôm nay, người nọ ốm, người
kia ốm, cụ lại bận việc, nên tôi chưa đi trình được thôi. Chờ ít lâu, tôi sẽ
trình hết, để các bà nhụt bớt cái lối hung hăng đi mới được! Vả lại, cậu Bảo ốm
mới khỏi, chúng tôi cũng chẳng dám nói to, bà lại dám đánh người, để nó tru
tréo lên thế! Chủ mới đi khỏi nhà có mấy ngày, các bà đã coi trời bằng vung,
mắt không coi ai ra gì cả! Có lẽ sau này các bà đánh cả chúng tôi đấy! Nó cũng
không cần gì hạng mẹ nuôi như thế đâu! Không có bà thì nó bị đống rác mục vùi
đi mất hay sao?
Bảo Ngọc giận quá, cầm
gậy đập vào ngưỡng cửa nói:
- Bọn bà già này đều là
ruột đồng gan sắt cả. Thật là việc lạ. Đã không trông nom lại còn hành hạ chúng
nó. Trời đất cứ mãi thế này thì biết làm sao được?
Tình Văn nói:
- Biết làm cái gì? Cứ
tống cổ cả đi, không cần cái hạng bánh vẽ ấy là được.
Bà già này xấu hổ quá,
không nói lại câu nào. Phương Quan thì mặc cái áo bông cánh màu hoa hải đường,
cái quần rộng ống bằng lụa xanh chấm hoa, tóc đen nhánh rủ ra đằng sau, đứng
khóc sướt mướt như người tắm nước mắt vậy.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Làm cho cô Oanh Oanh
trở thành chị Hồng Nương vừa mới bị đòn. Không đi ăn mặc cho tử tế, lại để thế
à?
Tình Văn chạy lại kéo
Phương Quan đi gội đầu, rồi vắt lau khbới tóc lên, sau đó bảo nó mặc quần áo và
dẫn về bên này.
Ngay sau đó, bà già ở
nhà bếp lên hỏi:
- Cơm chiều có rồi, đã
mang lên được chưa?
Đứa hầu nhỏ nghe đoạn,
vào hỏi Tập Nhân. Tập Nhân cười nói:
- Vừa rồi cãi nhau ầm ĩ,
không để ý là mấy giờ rồi.
Tình Văn nói:
- Cái quái ấy không biết
giở chứng gì, lại phải đem đi sửa thôi!
Nói xong lấy đồng hồ ra
xem và bảo:
- Chờ một tý nữa thì vừa
đấy.
Rồi đứa hầu nhỏ đi ra.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Nhắc đến chuyện
nghịch, lại muốn đánh cho Phương Quan mấy cái. Hôm qua chính nó cứ táy máy cái
quả lắc mãi, nên đồng hồ mới không chạy được.
Đương nói chuyện thì đồ
ăn đã sửa soạn xong.
Một lúc đứa hầu nhỏ bưng
cái hộp lên đứng đấy, Tình Văn, Xạ Nguyệt mở ra xem, vẫn là bốn món ăn thường.
Tình Văn cười nói:
- Đã khỏi rồi mà vẫn cho
ăn mấy món thanh đạm! Cứ cháo với dưa muối mãi đến bao giờ!
Nhìn thấy trong hộp còn
một bát canh thịt lợn nướng nấu với măng tươi, Tình Văn vội bày ở trước mặt Bảo
Ngọc. Bảo Ngọc đến bàn húp một húp, nói:
- Canh ngon lắm!
Mọi người đều cười:
- Phật sống ơi! Đã mấy
hôm nay không trông thấy đồ ăn mặn. Chẳng trách mà thèm như thế!
Vừa nói họ vừa bưng bát
canh lên khẽ thổi. Thấy Phương Quan đứng ở bên cạnh, họ đưa cho nó, bảo:
- Mày cũng tập hầu đi,
đừng ngớ ngẩn thế nữa. Khẽ thổi thôi, đừng cho nước dãi bắn vào.
Phương Quan nghe lời,
thổi mấy cái rất nhẹ nhàng. Mẹ nuôi nó bưng cơm đứng chực ở cửa ngoài. Trước
khi Phương Quan mới đến, bà ta đã nhận nhau từ bên ngoài, rồi cùng vào viện Lê
Hương. Bà này là người hầu hạng ba ở phủ Vinh, chẳng qua chỉ làm việc giặt giũ,
chưa được vào trong các phòng bao giờ, nên chưa biết khuôn phép. Nay mới được
vàườn, theo bọn con gái về các buồng. Ngay lúc đầu bà ta bị Xạ Nguyệt làm cho
một trận, đã biết thân biết phận phần nào. Bà ta rất lo Phương Quan không nhận
làm mẹ nuôi, sẽ có nhiều chỗ không lợi, nên trong lòng muốn mua chuộc bọn này.
Thấy Phương Quan thổi canh, bà ta chạy vào cười nói:
- Nó chưa thạo, coi
chừng đánh vỡ bát, để tôi thổi cho.
Vừa nói vừa bưng lấy.
Tình Văn quát to:
- Ra mau! Nó có đánh vỡ
bát nữa cũng chưa đến lượt bà thổi! Sao bà vô cớ được chạy vào trong buồng này?
- Rồi lại mắng bọn a hoàn nhỏ - Chúng mày mù à! Bà ấy không biết thì phải bảo
chứ!
Bọn a hoàn nhỏ đều nói:
- Chúng tôi nói, bà ấy
không tin, đuổi bà ấy cũng không ra, thành ra chúng tôi bị mắng lây, nghĩ thật
bực! Bà đã biết chưa? Chỗ chúng tôi vào được thì bà cũng chỉ được đến nửa chừng
thôi, không thể vào hẳn nơi đó. Huống chi bà lại lần cả vào những chỗ chúng tôi
không được vào. Việc ấy đã đành, bà lại còn dám giơ tay đỡ lấy bát cháo, thò
mồm vào thổi nữa.
Vừa nói vừa đẩy mụ ấy
ra. Mấy bà già chờ dưới thềm đón lấy hộp không, thấy mụ ấy đi ra, đều cười nói:
- Bà chị chưa lấy gương
soi mặt mà đã đi vào à?
Mụ ấy xấu hổ đâm ra tức
giận, nhưng đành phải nín nhịn đi ra.
Phương Quan thổi mấy
cái, Bảo Ngọc cười nói:
- Mày thử nếm xem đã vừa
ăn chưa?
Phương Quan cho là nói
đùa, cứ cười nhìn bọn Tập Nhân. Tập Nhân nói:
- Em cứ nếm một tí có
việc gì đâu?
Tình Văn nói:
- Xem ta nếm đây này.
Nói xong liền húp một
miếng. Phương Quan thấy thế cũng húp một miếng rồi nói: “Được rồi!” Liền đưa
lên B Ngọc húp hết nửa bát, ăn mấy miếng măng và nửa bát cháo, thế là xong bữa.
Mọi người dọn dẹp mang ra. Bọn hầu nhỏ bưng chậu nước vào, súc miệng, rửa mặt
xong, bọn Tập Nhân mới đi ăn cơm.
Bảo Ngọc đưa mắt liếc
Phương Quan. Phương Quan vốn tính khôn, lại học hát mấy năm, việc gì mà nó
chẳng hiểu? Nó giả cách đau bụng không ăn cơm.
Tập Nhân nói:
- Đã không ăn cơm thì ở
lại đây hầu. Để phần cháo cho đấy, lúc nào đói thì
Nói xong rồi đi ra.
Bảo Ngọc đem việc gặp
Ngẫu Quan vừa rồi, mình bịa ra để che lỗi cho nó thế nào, và Ngẫu Quan bảo về
hỏi Phương Quan thế nào, kể lại một lượt cho nó nghe, lại hỏi:
- Nó tế ai đấy?
Phương Quan mắt đỏ hoe,
thở dài nói:
- Việc này nói ra thì
chị Ngẫu Quan cũng vớ vẩn quá!
- Thế nào?
- Chị ấy tế chị Dược
Quan mới chết đấy!
- Hai người là bạn với
nhau thì tế cũng phải.
- Có phải bạn bè gì đâu?
Chẳng qua nghĩ vớ vẩn đấy thôi. Chị ấy đóng vai học trò. Dược Quan đóng vai hề.
Hai người thường làm vợ chồng, hằng ngày lên hát, ra bộ thân mật với nhau, lần
này lần khác, chúng nó vớ vẩn y như vợ chồng thật. Sau thành ra thương yêu
nhau. Khi Dược Quan chết, chị ấy khóc lóc chết đi sống lại, đến nay cũng vẫn
chưa quên, vì thế cứ đến ngày Tết là đốt vàng cho Dược Quan. Sau này Nhụy Quan
bù vào vai ấy, chúng tôi thấy chị ấy lại thân mật như Dược Quan ngày trước,
liền hỏi. - Tại sao có người mới đã quên ngay người cũ? Chị ấy nói: “Không phải
quên đâu. Cũng như người đàn ông góa vợ, sau khi lấy vợ khác, nhưng vẫn giữ mối
tình chung thủy không bao giờ quên hẳn người vợ đã chết. Nếu vì người chết mà
giữ tiết ở lại trọn đời, không lấy người khác, như vậy không đúng, người chết
sẽ băn khoăn”. Cậu xem chị ấy nói thế có phải điên ngốc đáng cười hay không?
Bảo Ngọc nghe những câu
chuyện ngốc ấy, hợp với tính ngốc của mình, đâm ra vừa mừng vừa thương, cho là
chuyện lạ, nói:
- Trời đã sinh ra những
người như vậy, còn cần gì đến ta là hạng râu mày ô trọc làm nhơ nhuốc cả cõi
trần - Nhân lại kéo Phương Quan dặn:
- Đã vậy tôi có một câu
dặn cô. Nếu tôi gặp thẳng Ngẫu Quan, tất sẽ không tiện, nên nhờ cô nói giúp.
Phương Quan hỏi việc gì.
Bảo Ngọc nói:
- Từ nay không nên đốt
giấy tiền nữa. Giấy tiền là dị đoan của người sau đặt ra, chứ không phải lời
dạy của Khổng Tử. Sau này hễ gặp ngày tết thì chỉ thắp một lò hương, lòng thành
tâm niệm, tự nhiên sẽ cảm ứng. Hạng người ngu xuẩn có biết đâu, bất kỳ thần
phật hoặc người chết, họ đều chia ra thứ bậc, thế nọ thế kia, có biết đâu cốt
lấy “lòng thành” làm chủ. Ngay những ngày loạn ly hốt hoảng, hương khói không
có, gặp đống đất, đống cỏ nào sạch sẽ là tế cũng được. Không những đến hưởng,
mà cả quỷ thần cũng hưởng. Cô xem trên bàn của tôi vẫn đặt cái lư hương, tôi có
tâm sự gì, không cứ ngày nào, thường thường thắp hương; có chè mới cúng một
chén chè, có nước trong cúng chén nước, hoặc có hoa quả mới, hoặc đồ chay đồ
mặn cũng đem lên cúng. Chỉ cốt ở lòng thành, thần phật sẽ lại hưởng. Cho nên
nói: cốt ở lòng kính, không ở nghi tiết hão huyền. Từ nay nhớ bảo cô ấy không
nên đốt giấy tiền nữa.
Phương Quan nghe nói,
vâng lời.
Một lúc, ăn cơm xong, có
người về trình: cụ và bà Hai đã về.