Cuộc Lữ Hành Kỳ Diệu Của Nilx Holyerxon Qua Suốt Nước Thụy Điển - Chương XIV - Phần 1 - 2

Chương XIV - Phần 1: Hai Thành Phố

Thành phố chìm dưới đáy biển

Đêm sau yên tĩnh và quang đãng. Đàn ngỗng không mất
công tìm một nơi trú trong các hang đá, mà ngủ ngay trên mặt cao nguyên. Nilx
nằm trên cỏ bên cạnh đàn.

Đêm trăng rất đẹp, đến nỗi Nilx khó mà ngủ được. Chú
tự hỏi là đã ở với đàn ngỗng bao nhiêu lâu rồi, tính ra là từ nhà ra đi đã ba
tuần rồi. Chợt chú nhớ ra ngày mai là lễ Phục Sinh.

"Chính đêm nay, các mụ phù thủy từ Blôkulla về,
chú nghĩ thầm và cười; vì chú sợ ông thần sông và các gia thần một chút, nhưng
chú không tin là có các mụ phù thủy chút nào cả.

Giá có các mụ ấy ngoài trời tối nay, thì người ta đã
trông thấy rồi.

Tất cả không gian được chiếu sáng đến mức có thể trông
thấy một chấm đen bé nhất trên bầu trời.

Trong khi hếch mũi lên không mà nghĩ thế, thì chú bỗng
thấy một cái gì đó rất đẹp. Khuôn mặt trăng tròn trịa và đầy đặn đang ở rất cao
trên trời, ở trước khuôn trăng đang bay một con chim lớn. Nó không vượt khỏi
khuôn trăng chút nào; có thể nói là nó từ trăng bay ra. Con chim trông hoàn toàn
đen trên cái nền sáng, đôi cánh dang ra từ bên này sang bên kia khuôn trăng. Nó
bay thành đường thẳng tắp đến nỗi trông như nó được vẽ lên trên
cái hình tròn sáng kia. Thần hình nó nhỏ, cổ dài và mảnh; đôi chân thõng xuống,
cũng rất dài và rất mảnh. Đó chỉ có thể là một con sếu.

Đó là ông Ermenrich. Sếu hạ xuống cạnh Nilx và lấy mỏ
đẩy chú để đánh thức chú. Nilx nhổm dậy ngay, chú nói:

- Tôi có ngủ đâu ông Ermenrich. Làm sao mà ông lại ở
ngoài trời đêm hôm khuya khoắt thế này? Ở Glimminyêhux nay thế nào? Ông muốn
nói chuyện với mẹ Akka chứ?

- Đêm nay sáng quá, ngủ làm sao được, sếu trả lời. Vì
vậy ta đi một chuyến đến thăm cậu, bạn Tí Hon ạ. Một con chim hải âu bảo cho ta
biết chỗ cậu ở. Ta chưa dọn về lại Glimminyêhux; chúng ta còn ở bên xứ Pommern

Nilx rất sung sướng được gặp lại ông Ermenrich. Họ nói
chuyện với nhau như những bạn cố tri. Sau cùng ông Ermenrich đề nghị Nilx bay
một chuyến chơi trong cá đẹp này.

Nilx chẳng đòi hỏi gì hơn, miễn là được trở về với đàn
ngỗng vào lúc mặt trời mọc. Sếu hứa là sẽ đưa chú về kịp; họ liền khởi hành;
ông Ermenrich bay thẳng về phía mặt trăng. Họ lên cao, mặt biển trông như hạ
xuống; nhưng bay nhẹ lạ thường đến nỗi người ta có cảm giác đứng im mà nổi bềnh
bồng trong không khí.

Đối với Nilx hình như họ chỉ mới bay có một chốc thôi,
nhưng sếu đã hạ xuống đất rồi. Họ đổ bộ trên một bãi biển hoang vắng, phủ cát
mịn và phẳng. Dọc bờ biển trải dài một cồn cát di động, chóp phủ những túm cỏ
mạch. Cồn không cao, nhưng đã ngăn không cho Nilx nhìn thấy
gì cả trong phía đất liền.

Ông Ermenrich đậu lên một ngọn cồn, co lại một chân
ngả cổ ra đằng sau để đút mỏ xuống dưới cánh và bảo Tí Hon:

- Cậu có thể dạo chơi quanh đây một tí trong khi ta
nghỉ, nhưng đừng đi xa quá để có thể dễ tìm lại ta

Nilx liền quyết leo lên một ngọn cồn để nhìn xem phong
cảnh. Vừa đi một bước chiếc giày gỗ của chú đã chạm phải một vật cứng. Chú cúi
xuống và trông thấy trong cát một đồng tiền nhỏ, bị gỉ đồng ăn mòn đến mức gần
như nhìn suốt qua được. Đồng tiền xấu đến nỗi chú chẳng nghĩ cả đến việc nhặt lấy
nữa, mà chú lấy ngón chân đá đi.

Lúc ngửng dậy, chú ngạc nhiên: cách chú hai bước chân
dựng lên một bức thành ảm đạm có một cổng lớn giữa hai ngọn tháp.

Ở chỗ lúc nãy là biển mênh mông và phản chiếu ánh sáng
long lanh thì giờ đây chạy dài một bức thành có những chỗ khuyết đặt súng, có
nhiều tháp lớn, tháp nhỏ và trang trí đẹp. Và trước mặt chú, ở nơi lúc nãy chỉ
có một dải mỏng rong biển, giờ mở ra một cái cổng lớn.

Nilx hiểu rằng đã có yêu thuật trong việc biến hóa
này, nhưng chú chẳng chút sợ hãi. Cổng và thành đều đẹp tuyệt, khiến chú muốn
xem phía bên trong có những gì.

Dưới mái vòm sâu, những vệ sĩ mặc quần áo sặc sỡ, vai
và ống tay bồng lên, đang đánh xúc xắc, rìu trận dài để bên cạnh. Họ mải mê
đánh và không để ý đến chú bé đang đi qua nhanh.

Bên kia cổng chú thấy một quảng trường, lát những phiến đá lớn. Khắp chung quanh mọc lên những nhà cao; giữa các
nhà mở ra những đường phố hẹp và dài.

Trên quảng trường người đông như kiến. Đàn ông mặc
quần áo lụa, khoác áo dài viền lông thú, đầu đ nghiêng những cái mũ cắm lông
chim; ngực đeo lòng thòng những dây chuyền bằng vàng nặng. Tất cả đều đẹp như
những vua chúa. Đàn bà đội những mũ rất cao và rất nhọn, hoặc những áo dài, tay
hẹp. Họ ăn mặc rất đẹp, nhưng không lộng lẫy bằng đàn ông. Tất cả như hiện ra
từ cuốn truyện cổ, mà trong những trường hợp rất hiếm, mẹ Nilx mới lấy ra từ
cái hòm của bà ra cho con xem. Chú không thể nào tin ở mắt mình nữa.

Nhưng chính cái thành phố còn kỳ diệu hơn các cư dân
nữa. Mỗi ngôi nhà đều xây để cho bức tường đầu hồi trông ra đường phố.

Mà các bức tường đều trang trí đẹp đến nỗi như ganh
đua với nhau về vẻ tráng lệ. Khi mà người ta khó mà nhớ được tất cả, nhưng về
sau Nilx còn nhớ là có thấy những tường đầu hồi mà đá được đúc thành hình răng,
có tượng Chúa Cơ Đốc và các vị sứ đồ ở trên các bậc. Những đầu hồi khác phủ kín
những tượng đặt trong những khảm đục trong tường, những đầu hồi khác nữa thì
trang trí những mảnh kính nhiều mầu hay những đường kẻ ô bằng cẩm thạch trắng
hay đen hợp lại.

Vừa khâm phục các thứ tốt đẹp ấy, Nilx vừa thấy lòng
mình tựa hồ lo ngại. Chú nghĩ: "Chưa bao giờ mắt mình được thấy những thứ
như thế này, và không bao giờ mình còn được thấy lại những thứ như thế
nữa". Rồi chú liền chạy vào phía trong thành phố, đi lên và đi xuống phố
này đến phố khác.

Những phố ấy hẹp và thắt dần lại, nhưng không trống
trải và buồn bã như phố xá của các thành phố mà chú đã biết. Khắp nơi đều tấp
nập. Những bà già kéo sợi trên các ngưỡng cửa. Họ không cần xe quay mà chỉ dùng
đơn giản có một con cúi. Những cửa hiệu và những quán hàng của người buôn bán
trông ra phố như những sạp hàng ở các chợ phiên. Tất cả thợ thủ công đều làm
việc ngoài trời. Chỗ này người ta ép dầu, chỗ kia thuộc da, xa một tí thấy có
chỗ bện thừng. Giá như Nilx có thì giờ thì chú đã có thể học được tất cả mọi
nghề. Những thợ vũ khí nện búa dát kim loại để làm những tấm che ngực mỏng ở áo
giáp, những thợ kim hoàn khảm ngọc thạch vào nhẫn và vòng, những thợ giày đóng
đế cho những chiếc giày mềm mại màu đỏ, những thợ kéo vàng xe dây vàng, những
thợ dệt lụa, thêu những chỉ vàng vào vải. Nhưng Nilx không có thì giờ đứng lại.
Chú chạy nhanh qua các phố để xem cho thật nhiều thứ
trước khi tất cả biến mất.

Bức lũy cao bao quanh thành phố khắp mọi phía, vây kín
thành phố như một hàng rào vây kín một cánh đồng; cứ đến mỗi đầu phố lại trông
thấy bức lũy có nhiều tháp và quãng trống để đặt súng. Trên mặt lũy, quân lính
mặc giáp sắt bóng lộn. đội mũ sắt, đang canh gác.

Đi qua suốt thành phố, Nilx đến một cổng thứ hai. Bên
kia cổng là biển và cảng. Những chiếc tàu kiểu cổ với những ghế các tay chèo ngồi, những công trình cao dựng lên ở đằng mũi và đằng lái,
đang bốc hay dỡ hàng. Khắp nơi hoạt động náo nhiệt lạ thường.

Nhưng Nilx vẫn không chịu mất thì giờ dừng chân. Chú
quay trở lại và chỉ một lát là đến một quảng trường lớn. Ở đây, mọc lên ngôi nhà thờ có ba ngọn tháp rất cao và những cửa vòm sâu hoắm trang trí nhiều
tượng. Những người thợ đá đã trổ chạm các tường đẹp đến nỗi chỉ hơi thấy một
phiến đá nào đó không được trau chuốt. Trước mặt là một ngôi nhà, trên có một
ngọn tháp thanh thanh, vươn thẳng lên trời. Đó chắc là toà thị chính. Ở giữa
nhà thờ với tòa thị chính, chung quanh quảng trường những nhà có tường đầu hồi
đều trang trí đẹp tuyệt vời.

Nilx bắt đầu mệt và nóng vì chạy nhiều. Chú nghĩ là đã
được xem những thứ đẹp nhất đời. Vì thế chú liền đi thong thả hơn, vào một
đường phố; ở đây có lẽ dân thành phố đến mua những quần áo đẹp của họ, vì chú
thấy rất đông tấp nập trước các quầy hàng; những người bán hàng dở ra trước mặt
khách hàng những lụa thêu cành lá, dầy và cứng; những tấm hàng nặng, dệt sợ
vàng, những nhung óng ánh, những the nhẹ tênh và những đăng ten thanh như tơ nhện.

Chú bé mà còn chạy nhanh qua các phố thì không ai để ý
đến chú. Người ta có thể cho đó là một con chuột xám. Nhưng bây giờ chú đi
thong thả, thì một người bán hàng trông thấy chú và liền ra hiệu cho chú.

Thoạt tiên chú bé sợ và muốn chạy trốn nhưng người bán
hàng gọi mãi và mỉm cười không thôi, lại trải ra một tấm lụa hoa Đama tuyệt đẹp
như để dử chú.

Nilx lắc đầu. Chú nghĩ: "mình thì chẳng bao giờ
đủ tiền để mua lấy chỉ một mét thứ lụa ấy"

Giờ thì người ta trông thấy chú ở tất cả mọi cửa hàng
trong phố ấy. Chú nhìn tới bất kỳ đâu là một người bán hàng ra hiệu gọi chú. Họ
bỏ rơi những khách hàng giàu có của họ và chỉ quan tâm đến chú. Chú thấy họ chạy bổ đến những xó xỉnh sâu kín nhất trong cửa hàng của họ, và lấy ra những
hàng quý nhất của họ; khi họ trải hàng ra mặt quầy thì tay họ run lên vì sốt
sắng và vội vàng.

Nilx làm bộ tiếp tục đi thì một người trong bọn họ lao
ra phố, chạy theo chú, đặt ngay xuống chân chú một tấm vải thêu chỉ bạc, những
tấm thảm long lanh những màu rực rỡ. Nilx không thể không buồn cười. Người bán
hàng lại tin rằng một kẻ nghèo rớt mồng tơi như chú lại có thể mua được những
thứ như thế ư? Chú dừng lại và dang hai tay không ra, để làm cho người ta hiểu
rằng chú chẳng có cả và người ta phải để cho chú yên thân.

Người bán hàng không muốn biết gì hết: ông ta giơ một
ngón tay, gật đầu và đẩy về phía Nilx tất cả đống của cải ấy.

"Có thể nào họ bán tất cả những thứ ấy chỉ lấy một đồng tiền vàng?" Nilx tự hỏi.

Người bán hàng rút trong ví ra một đồng tiền nhỏ, nhỏ
đến mức cuối cùng, mòn hết, chẳng chút giá trị nào, và giơ cho Nilx xem. Và vì
ham bán được hàng quá, người ấy lại thêm vào đống hàng hai cái chén uống rượu
to và nặng, bằng bạc.

Sững sờ, Nilx liền lục lọi các túi của mình. Chú biết
rất rõ là mình không có lấy một đồng tiền, nhưng chú không thể ngăn mình không
xem lại có chắc thế không. Tất cả những người bán hàng khác đều nghểnh cổ ra
xem kết quả của cuộc vận động ấy. Vừa trông thấy chú bé lục túi, là cả họ nữa,
họ cũng lao qua các quầy hàng; tay nắm đầy đồ trang sức bằng vàng, bằng bạc, họ
đưa ra biếu chú. Và tất cả, họ làm cho chú hiểu là họ chỉ xin một đồng xu nhỏ
trả giá mà thôi.

Nhưng chú bé phải lộn hết túi áo, túi quần ra để cho họ thấy là mình chẳng có gì hết. Thế là tất cả các thương nhân
giàu có ấy, họ đều khóc ròng ròng nước mắt vì thất vọng. Nilx xúc động vì cảnh
sầu khổ và vẻ mặt khắc khoải của họ quá chừng, chú liền moi óc tìm xem có cách
nào giúp họ không. Bỗng chú sực nhớ đến đống tiền bị gỉ đồng gậm mòn đi mà chú
đã trông thấy trên bãi biển. Chú liền chạy đi, và cái may giúp chú. Chú tìm ra
cái cổng mà chú đã đi vào. Chú ra khỏi thành phố, đến lại bãi biển và bắt đầu
tìm đồng xu nhỏ bằng đồng. Quả nhiên chú tìm thấy đồng xu, nhưng khi đã nhặt
lên và muốn trở vào thành phố thì chú chỉ thấy có biển cả trước mặt. Chẳng chút
thành lũy nào, chẳng tí cổng thành nào, chẳng có lính canh, chẳng có phố xá,
chẳng nhà cửa, chỉ có mặt biển mà thôi.

Chú bé không cầm được nước mắt.

Đúng lúc ấy, ông Ermenrich thức giấc và đến gần chú.
Nilx không nghe tiếng, sếu phải lấy mỏ đẩy chú để bắt chú lưu ý. Sếu nói:
"Ta tưởng cậu ngủ như ta chứ?"

- A! Ông Ermenrich! - Nilx kêu lên. Thành phố nào ở
đây lúc nãy thế?

- Cậu có thấy một thành phố à? Sếu hỏi. Cậu đã ngủ và
nằm mơ, đúng như ta đã nói.

- Không, tôi không nằm mơ, Nilx quả quyết như vậy, và
chú kể lại những gì chú đ

Ông Ermenrich nghe chú kể lại rồi nói:

"Về phần ta, Tí Hon ạ, ta tưởng là cậu đã ngủ ở
đây trên bãi biển và cậu đã nằm mơ. Nhưng ta không giấu gì cậu, Bataki, con
quạ, là con chim thông thái nhất, một lần đã kể cho ta nghe rằng ngày xưa chắc
là có ở bên bờ nước một thành phố tên là Vinêta. Thành phố đó
giàu có và sung sướng đến mức chưa bao giờ có đô thị nào lộng lẫy bằng; không
may cư dân trong thành đã lao mình vào cảnh xa hoa, kiêu bạc. Bị trừng phạt,
thành phố Vinêta có lẽ đã gặp một đợt sóng thần dữ dội phủ lên và biển nhấn
chìm mất. Bataki cho là như vậy. Nhưng mà cư dân của Vinêta không thể chết, và
thành phố của họ cũng thể biến mãi được. Cứ một trăm năm trong một đêm thành
phố từ sóng biển hiện lên một lần với tất cả vẻ huy hoàng và ở trên mặt đất một
giờ.

- Đúng, tất phải là đúng, Nilx nói. Vì tôi đã trông
thấy thành phố đó.

- Nhưng, một giờ qua rồi thì thành phố lại chìm xuống
biển, trừ phi một người bán hàng ở Vinêta đã bán được một vật gì cho một người
sống. Giá cậu có một đồng tiền mọn nào đó để trả cho
các người bán hàng. Tí Hon ạ, thì Vinêta đã ở lại đây trên mặt đất và cư dân
của nó đã có thể sống và chết như tất cả mọi kẻ phù sinh khác rồi.

- Ông Ermenrich ạ, Nilx nói, giờ tôi hiểu tại sao ông
đã đến tìm tôi vào nửa đêm. Là vì ông nghĩ rằng tôi có thể cứu thành phố cổ ấy.
Tôi rất buồn vì dự định của ông đã không thực hiện được. Ông Ermenrich ạ

Chú lấy hai tay che mặt và bật lên khóc nức nở. Người
ta không thể nói là ai có vẻ sầu khổ hơn ai, chú bé hay là ông Ermenrich.

Phần 2: Thành Phố Sống

Ngày thứ hai lễ Phục Sinh, đàn ngỗng trời và Tí Hon
bay buổi tối trên đảo Yơtlanđ.

Hòn đảo lớn ở bên dưới phẳng lì, không chút mấp mô.
Đất chia thành ô vuông như ở tỉnh Xkônê, cũng có nhiều nhà thờ và ấp trại.
Nhưng ở đây, những khu rừng nhỏ giữa các cánh đồng nhiều hơn, tuy vậy chẳng đâu
có những lâu đài với tháp cao và vườn rộng như ở Xkônê.

Đàn ngỗng trời chọn con đường đi qua Yơtlanđ là vì Tí
Hon. Từ hai hôm rồi, chú không còn như trước nữa, và không nói lấy một lời nào
vui; chú cứ mải nghĩ đến cái thành phố đã hiện ra với chú một cách huyền bí như thế. Chú chưa bao giờ được thấy cái gì đẹp đến thế và chú buồn
khổ vì không cứu Akka và con ngỗng đực to cố tuyết phục
Nilx rằng chú đã là hạn nhân của một cơn mê hay một ảo ảnh, nhưng không ăn
thua, chú chẳng chịu nghe gì chút gì hết. Chú chắc chắn hết sức là đã thấy thực
sự cái mà chú thấy! Không một ai có thể thuyết phục chú được. Chú cứ khăng
khăng giữ nỗi buồn của mình, đến nỗi các bạn đường bắt đầu lo ngại.

Đúng lúc Nilx buồn khổ nhất thì ngỗng mái già Kakxi
trở về với đàn. Ngỗng bị bão đẩy ra Yơtlanđ và đã bay qua suốt bề rộng của đảo;
cuối cùng được mấy con quạ cho biết là các bạn đang ở Đảo Karl Nhỏ. Biết nguyên
nhân nỗi buồn của Nilx, ngỗng kêu lên:

- Nếu Tí Hon tiếc thương mọi thành phố cổ thì chúng ta sẽ biết cách an ủi cậu, cứ đi và ta sẽ đưa các bạn đến một nơi
mà ta đã trông thấy hôm qua. Rồi cậu ấy sẽ không buồn lâu nữa đâu.

Nói vừa dứt lời, đàn ngỗng đã từ biệt đàn cừu và lên
đường.

Thật là một buổi chiều đẹp và yên tĩnh. Tiết trời mùa
xuân mát mẻ, cây cối nẩy những nụ to, hoa rụng phủ lên mặt đất trong rừng và
ngoài nội; những chùm hoa dài của các cây bạch dương phất phơ trước gió, trong
các khu vườn nhỏ, trước tất cả các ngôi nhà nhỏ, những cây phúc bồn đã xanh um.

Mùa xuân đến, các nụ hoa đã nở gọi mọi người ra các
sân và các đường cái, đâu đâu người ta cũng vui chơi. Không những trẻ con mà cả
người lớn cũng chơi những trò kéo tay, kéo chân. Người ta tập ném đá, người ta
ném những quả bóng mạnh đến nỗi suýt trúng các con ngỗng. Xem những người lớn
vui chơi thật là thích, Nilx đã rất vui thích nếu chú đã có thể quên được nỗi
buồn vì không cứu nổi thành phố Vinêta.

Tuy vậy, chú cũng phải công nhận rằng đây là một cuộc
đi chơi rất thú. Không trung vang lừng tiếng hát. Trẻ con vừa múa vòng tròn vừa
hát Đạo quân cứu thế đã xuất hành. Nilx thấy một đám đông người mặc quần áo đỏ
và đen, ngồi trong một cánh rừng, chơi đàn ghita và thổi kèn đồng.

Trên một con đường, những đám đông kéo đi, đó là những
người Đoàn Viên Giáo Đường Tốt trở về sau một cuộc du hành. Chú nhận ra họ nhờ
lá cờ thêu chữ vàng của họ. Họ hát hết bài này đến bài khác, và chú mà còn có
thể nghe thấy là họ chưa ngừng hát.

Từ ngày đó, không lúc nào nhớ đến Yơtlanđ mà đồng thời Nilx không nghĩ đến những trò chơi và những bài hát ấy.

Nilx nhìn xuống dưới một hồi lâu, bỗng chú ngước mắt
lên. Ai mà có thể tả được nỗi ngạc nhiên của chú! Đàn ngỗng đã từ giã trung tâm
hòn đảo và đang bay dọc bờ biển phía Tây, mà Nilx không hề biết. Biển xanh mênh
mông trải ra trước mặt chú. Tuy vậy, làm chú ngạc nhiên không phải là biển một
tí nào cả, mà là một thành phố ở bên bờ nước.

Nilx từ phía Đông bay sang và mặt trời đã bắt đầu lặn
xuống phía Tây. Khi chú đến gần thành phố ấy thì thành lũy, tháp cao, đầu hồi
và nhà thờ toàn một màu đen, nổi hẳn lên trên nền trời rực sáng. Không thể nhìn
thấy rõ những chi tiết, và đối với Nilx thì thoạt tiên hình như đó là thành phố
giống hệt về vẻ lộng lẫy với thành phố chú đã trông thấy đêm lễ Phục sinh.

Khi đến sát, chú mới nhận thấy là thành phố này vừa
giống thành phố từ biển hiện lên, lại vừa rất khác, khác nhau như giữa một con
người mà ta trông thấy một ngày nọ mặc toàn màu đỏ thắm và đeo đầy đồ trang sức
rồi ngày hôm sau gặp lại thì rách mướp và trần trụi.

Tất nhiên là thành phố này phải giống thành phố mà chú
đã nhớ lại.Nhưng mà những ngọn tháp của thành phố còn lại trên mặt đất này
không có mái, trống không và bị bỏ phế. Các cửa không còn có cánh nữa, những
người gác và quân lính đã biến đâu mất. Tẩt cả vẻ lộng lẫy xưa đều đã tiêu tan.
Chỉ còn lại có bộ xương bằng đá trơ trụi và màu xám.

Khi Nilx đến đúng trên thành phố, thì chú thấy phần
lớn là những nhà thấp; giữa các

nhà ấy còn lại lác đác vài hồi nhà cao và những nhà
thờ cổ. Tường các đầu hồi quét vôi trắng và chẳng trang trí gì hết, nhưng Nilx
vừa trông thấy thành phố chìm dưới nước, tưởng như đã hiểu là những tường đó đã
được trang trí thế nào. Đối với các nhà thờ cũng thế. Phần lớn đều không có mái
và trống không. Các cửa sổ toang hoác không có kính mầu, cỏ
mọc lên giữa các phiến đá lát và dây thường xuân leo dọc các bức tường. Nhưng
mà Nilx biết là các nhà thờ trước kia thế nào: đầy những tượng và tranh, gian
hát kinh trang trí những bàn thờ và thánh giá mạ vàng, hai bên lăng xăng những
mục sư mặc áo thêu vàng.

Chú bé cũng thấy những đường phố hẹp gần như trống
trải, chiều tối ngày lễ này. Nhưng chú biết rằng bao nhiêu là người khỏe mạnh
và kiêu hãnh ngày xưa đã qua lại ở đây. Chú biết rằng phố xá ấy đã như là những công xưởng to rộng, đông đúc thợ thuyền đủ mọi ngành nghề.

Nhưng cái mà Nilx không thấy, ấy là thành phố ngày nay
vẫn còn tuyệt đẹp. Chú không thấy cái duyên dáng của những chiếc nhà bé nhỏ đầy
đủ tiện nghi ở những phố vắng, với những hoa phong lữ đỏ sau những tấm kính
rạng rỡ của các cửa sổ, cũng không thấy rất nhiều khườn có các lối đi được chăm
sóc cẩn thận, cũng không thấy vẻ đẹp của các phế tích mà cây leo phủ lên từng
tràng. Đôi mắt chú bị lóa vì vẻ tráng lệ của quá khứ, không thể tìm ra được
chút gì tốt đẹp trong hiện tại.

Đàn ngỗng bay qua, bay lại hai, ba lần trên thành phố,
để cho Tí Hon có thể nhìn thỏa thích mọi thứ, rồi cuối cùng hạ xuống và thu xếp
chỗ trú đêm trên những phiến đã lát phủ kín cỏ của một ngôi nhà thờ hoang phế.

Ngỗng đã ngủ cả rồi, mà Tí Hon cứ còn nhìn mãi qua các
mái vòm đổ nát, nền trời màu hồng nhạt của buổi chiều hôm. Cuối cùng chú tự nhủ
là không nên sầu khổ vì đã không cứu được thành phố chìm dưới biển kia nữa.

Không, chú sẽ không sầu khổ nữa, bởi vì chú đã trông
thấy thành phố này đây. Nếu thành phố kia mà không bị biển vùi lại lần nữa, thì
cuối cùng nó cũng phải suy tàn đi như thành phố này. Chắc rằng nó sẽ không
chống lại thời gian và sự tàn phá; chẳng bao lâu rồi cả nó nữa, nó cũng sẽ phơi
bày ra những nhà thờ không mái và những nhà ở không trang hoàng, những phố xá
trống rỗng và không sinh khí. Thà rằng nó cứ ở dưới vực thẳm bí ẩn với tất cả
vẻ huy hoàng nguyên vẹn còn hơn.

Rất nhiều kẻ trong đám người trẻ tuổi đều nghĩ như
Nilx. Nhưng mà khi người ta về già, đã quen vui lòng với cảnh đạm bạc thì người
ta thích cái thành phố Vixbuy còn tồn tại hơn một thành phố Vinêta xinh đẹp ở
dưới đáy biển.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3