Điểm dối lừa - Chương 115 - 116 - 117 - 118 - 119
Chương 115
Gabrielle Ashe đã quay trở lại phòng tắm trong khu văn
phòng của Sexton và đang chuẩn bị trèo ra ngoài. Cuộc gọi của ngài Thượng nghị
sĩ đã khiến cô rất lo lắng. Rõ ràng là ông ta đã tỏ ra nghi ngờ khi cô nói rằng
đang ở trong văn phòng dành cho thư ký - như thế đã đoán ra là cô đang nói dối.
Dù sao thì cô cũng không mở được máy tính cá nhân của ông ta, và giờ vẫn chưa
biết nên làm gì tiếp.
Sexton đang đợi.
Trèo lên đến bồn rửa mặt, đang chuẩn bị đu người lên
trần để ra ngoài thì cô nghe có cái gì rơi leng keng xuống sàn nhà. Quay lại,
Gabrielle bực bội thấy mình vừa đá phải hai cái móc cài tay áo mà Sexton vẫn để
trên thành bệ.
Phải để mọi thứ y như cũ.
Gabrielle lại trèo xuống, nhặt hai cái móc cài và để
lên thành bệ y như cũ. Đang quay người định trèo lên lại thì Gabrielle dừng
lại, nhìn những cái móc cài một lần nữa. Nếu là những lúc khác thì chắc chắn cô
đã chẳng để ý đến nó, nhưng đêm nay những chữ viết lồng này đặc biệt thu hút sự
chú ý của Gabrielle. Giống như nhiều biểu tượng chữ viết lồng khác của ông
Thượng nghị sĩ háo danh, đây lại là hai chữ Sexton viết lồng xoắn xuýt lấy
nhau. SS. Gabrielle nhớ lại mật khẩu máy tính đầu tiên của ông ta: SSS. Cô nghĩ
đến những chữ viết bằng mực phản quang trên quyển lịch… POTUS và hình ảnh chờ
có cảnh Nhà Trắng và những tấm biếu ngữ đầy lạc quan chạy khắp xung quanh màn
hình.
Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa Kỳ
Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa Kỳ…
Gabrielle băn khoăn ngẫm nghĩ. Chẳng lẽ ông ta quả
thật chủ quan đến thế sao?
Biết rằng chỉ cần vài tích tắc là tìm ra sự thật,
Gabrielle quay trở lại văn phòng, ngồi xuống ghế và gõ bảy chữ cái vào ô mật
khẩu.
POTUSSS
Màn hình chờ lập tức biến mất.
Gabrielle sững sờ, không thể tin nổi.
Đừng bao giờ đánh giá thấp một chính trị gia.
Chương 116
Corky Marlinson không giữ chặt bánh lái của chiếc
thuyền máy Crestliner Phantom nữa. Ông nghĩ rằng dù có giữ bánh lái hay không
thì chiếc thuyền này sẽ chạy theo một đường thẳng. Theo hướng nguy hiểm nhất…
Ngồi phía đuôi con thuyền đang bị đại dương đẩy lên
dằn xuống dữ dội, ông đang xem xét vết thương ở chân. Một viên đạn đã bay đúng
vào phía trước xương trụ, may không phải là xương đùi. Không thấy có vết thương
hở nào ở mặt sau chân phải, có nghĩa là viên đạn vẫn ở bên trong. Ông lục tìm
khắp xung quanh, tìm kiếm một ít bông băng để cầm máu, nhưng chẳng thấy gì -
chỉ có chân vịt, ống thở, và mấy cái áo phao cứu sinh. Không có dụng cụ sơ cứu.
Luống cuống, Corky tìm thấy cái ngăn kéo bên trong có giẻ rách, băng dính, dầu nhờn, và một số
dụng cụ sửa chữa khác. Nhìn cẳng chân đầy máu của mình. Corky tự hỏi không biết
còn bao lâu nữa thì ông sẽ thoát ra khỏi vùng có nhiều cá mập.
Chắc còn xa lắm.
Delta-Một cho chiếc Kiowa bay là là sát mặt biển để tìm
chiếc thuyền Crestliner đang chạy trốn. Đoán rằng chiếc thuyền sẽ tìm cách vào
đất liền và tránh con tàu Goya càng xa càng tốt, anh cho máy bay lao thẳng theo
hướng lúc nãy chiếc thuyền đã xuất phát.
Lẽ ra mình phải rượt chiếc thuyền đó rồi mới phải.
Thường thì chỉ cần dùng máy quét radar là tìm thấy
ngay những mục tiêu kiểu này, nhưng thiết bị gây nhiễu bằng sóng âm địa nhiệt
của chiếc máy bay này có tác động trong bán kính những mấy dặm, nên cả radar
của anh cũng không hoạt động được. Phải đợi đến khi tiêu diệt xong tất cả các
đối tượng thì mới được tắt thiết bị gây nhiễu. Đêm nay, không một ai trên con
tàu Goya được đàm thoại với người ngoài.
Bí mật về tảng thiên thạch sẽ bị chôn vùi. Tại đây.
Chính vào lúc này.
Delta-Một may mắn có một thiết bị khác để thay thế hệ thống
radar. Anh có thể dễ dàng phát hiện được tín hiệu nhiệt phát ra từ
chiếc thuyền, ngay cả trong vùng có dòng hải lưu nóng như thế này. Anh bật máy
quét. Nhiệt độ nước ở vùng biển này lên đến 95 độ F, nhưng may thay, nhiệt độ
của chiếc thuyền có động cơ 250 mã lực đang chạy hết tốc độ còn cao hơn thế gấp
mấy lần.
Corky Marlinson thấy chân tay mình bắt đầu tê cứng.
Không biết làm gì hơn, ông đã dùng giẻ để lau sạch máu
ở ống chân rồi lấy băng dính quấn chặt xung quanh. Khi cuộn băng dính hết sạch
thì toàn bộ ống chân của ông, từ đầu gối đến tận mắt cá, đã được bọc trong lớp
vỏ nhựa màu bạc. Đã cầm được máu, nhưng hai tay và quần áo của ông thì vẫn bê
bết toàn máu là máu.
Ngồi yên trên thuyền, Corky lấy làm lạ tại sao chiếc
máy bay vẫn chưa tìm được mình. Ông quay lại đằng sau, nhìn thật kỹ, tìm những
ngọn đèn trên tàu Goya và bóng chiếc máy bay đang bám đuổi sau lưng. Lạ thật.
Chẳng thấy gì cả. Toàn bộ bóng đèn trên tàu Goya đều đã tắt ngấm, không lẽ ông
đã đi được xa đến thế.
Corky chợt thấy tràn trề hi vọng. Biết đâu vì trời tối
nên bọn chúng không tìm được ông. Biết đâu ông về được đến đất liền!
Bất ngờ, Corky nhận thấy đường rẽ nước ở sau đuôi cơn
thuyền này rất khác thường. Nước rẽ thành một đường cong nhẹ đều đặn từ sau
đuôi thuyền, như thể nó đang đi theo đường vòng cung chứ không phải đường
thẳng. Bối rối, ông đưa mắt nhìn theo rẽ nước sau đuôi thuyền đang tạo thành
một đường tròn rất lớn trên mặt biển: Gần như ngay tức khắc, Corky trông thấy
nó.
Con tàu Goya sừng sững hiện ra bên mạn trái, cách ông
không đến nửa dặm. Kinh hãi, Corky nhận ra sai lầm chết người của mình. Vì bánh
lái bị bỏ không, chiếc thuyền máy đã tự động đi xuôi theo dòng hải lưu chảy
xiết - xoáy nước lớn bao quanh vòm nham thạch. Mình đang đi theo một đường tròn
lớn!
Ông đã tự đá bóng vào lưới nhà.
Nhận ra mình vẫn luẩn quẩn trong khu vực có nhiều cá
mập, ông hãi hùng nhớ lại những lời của Tolland. Thuỳ khứu giác telencephalon
cực kỳ thính nhạy… Giống cá mập đầu búa có thể nhận được mùi máu từ cách xa một
dặm. Corky lo lắng nhìn cẳng chân quấn băng và hai bàn tay bê bết máu của mình.
Chẳng bao lâu nữa chiếc trực thăng sẽ tìm thấy chiếc
thuyền này.
Cởi bỏ bộ quan áo dính đầy máu, Corky bò về phía đuôi
thuyền. Tin chắc rằng không một con cá mập nào có thế bơi nhanh bằng chiếc
thuyền máy của mình, ông vớt nước bắn lên từ đường rẽ nước sau đuôi con thuyền,
cẩn thận rửa thật sạch máu dính ở hai bàn tay cũng như trên khắp cơ thể.
Từng giọt máu một…
Rửa xong, ông đứng thẳng dậy, biết rằng giờ chỉ còn
một động tác nữa là xong. Ông nghe nói các loài động vật dùng nước tiểu để đánh
dấu lãnh thổ của chúng, và chất acide uric chính là chất bài tiết nặng mùi nhất
trên cơ thể con người.
Có tác dụng mạnh hơn máu. Corky thầm hi vọng. Vừa lầm
bầm ao ước giá như vừa được uống vài vại bia hồi tối, ông gác chân phải lên
bảng điều khiển và cố đái vào lớp băng dính quấn xung quanh.
Ra đi nào! Corky kiên nhẫn chờ đợi. Thật không gì khổ bằng
phải cố mà đái vào người trong khi bị máy bay đuổi theo sát nút.
Mãi rồi nó cũng phải ra. Corky đái ướt đẫm lớp băng
quấn quanh ống chân. Ông tận dụng nhũng giọt cuối cùng còn sót lại trong bàng
quang để thấm ướt miếng giẻ rồi chà xát khắp người.
Quả là dễ chịu.
Từ trên trời đêm, một chùm tia laze xuất hiện, chiếu
chếch xuống chiếc thuyền máy, trông như lưỡi thép sắc lạnh của cái máy chém
khổng lồ. Chiếc máy bay xuất hiện chếch từ một bên. Rõ ràng là viên phi công
cũng bị ngạc nhiên khi thấy Corky lộn trở lại bên con tàu Goya.
Mặc xong bộ quần áo phao bảo hộ, Corky nhanh nhẹn di
chuyển xuống đuôi thuyền. Một đốm sáng đỏ rực xuất hiện trên chiếc thuyền vấy
máu, chỉ cách chân ông khoảng mười xăng ti mét.
Đã đến lúc.
Trên boong tàu Goya, Tolland không nhìn thấy chiếc
thuyền máy Crestliner Phantom 2100 bị một ánh chớp sáng loà nuốt chửng, rồi
khói lửa cuộn lên ngùn ngụt.
Nhưng ông nghe thấy tiếng nổ.
Chương 117
Thông thường, vào giờ này thì chái Tây của Nhà Trắng
thường rất tĩnh mịch, nhưng thái độ vội vã của Tổng thống cùng với bộ quần áo
ngủ và đôi dép lê ở chân ông đã khiến cho các trợ lý và nhân viên đang trực
phiên thấy lo lắng và bật dậy khỏi những chiếc giường gấp đặt ngay cạnh bàn làm
việc và những phòng ngủ nhỏ bố trí rải rác tại đây.
- Thưa Tổng thống, không thấy bà ấy đâu cả. - Một trợ
lý trẻ vừa nói vừa hối hả theo Herney vào phòng bầu dục. Anh ta đã tìm kiếm
khắp nơi. - Cả điện thoại cầm tay lẫn máy nhắn tin, bà Tench đều không nghe ạ.
Tổng thống cáu gắt:
- Thế anh đã sang tìm ở…
- Bà ấy đã rời khỏi Nhà Trắng rồi ạ. - Một trợ lý khác
vừa bước vào phòng đã nhanh nhảu báo cáo. - Bà ấy ra khỏi cổng cách đây một
giờ. Chắc là đi sang bên trụ sở NRO rồi. Nhân viên tổng đài cho biết tối qua bà
ấy đã điện đàm với Pickering.
- William Pickering à? - Tổng thống ngỡ ngàng. Tench
và Pickering chưa bao giờ chịu quan hệ với nhau. - Cậu đã gọi cho ông ấy chưa?
- Cả ông ấy cũng không trả lời máy ạ. Nhân viên tổng
đài của NRO cũng không gọi được ông ấy. Họ nói là máy của ông ấy thậm chí còn
không đổ chuông. Như thể là ông ấy đã biến mất khỏi trái đất.
Herney tròn mắt nhìn hai người trợ lý của mình một hồi
lâu, rồi đến bên quầy rượu và tự rót cho mình một ly Bourbon. Ông vừa mới đưa
ly rượu lên môi thì một nhân viên mật vụ xuất hiện.
- Tôi rất không muốn đánh thức Tổng thống, nhưng vừa
có vụ đặt bom gần đài tưởng niệm FDR.
- Cái gì? - Suýt nữa Herney làm rơi cái ly.
- Cách đây một giờ. - Anh ta nói giọng rầu rĩ. - Và
bên FBI đã nhận dạng được nạn nhân…
Chương 118
Cảm giác nhức nhối dội lên từ chân của Delta-Ba. Anh
tưởng như mình đang trôi nổi, bông bềnh trong vô thức. Hay đây chính là cái
chết? Anh gắng gượng cử động chân tay, nhưng không được, đến cả hít thở cũng
thấy khó khăn. Hai mắt anh chỉ nhìn được những đốm đen trắng lờ mờ. Rồi tỉnh
táo hơn lên, anh nhớ lại tiếng nổ trên mặt đại dương, vẻ giận dữ điên cuồng
trong ánh mắt của Michael Tolland khi ông ta đứng đó, tay chĩa cây gậy bắn cá
mập vào cổ họng anh.
Chắc Tolland đã giết mình…
Nhưng rồi cơn đau như xé ở chân nhắc Delta-Ba rằng anh
vẫn còn sống. Và tất cả những sự kiện lần lượt hiện về trong tâm trí.
Nghe tiếng nổ trên đại dương khi chiếc thuyền máy
Crestliner bị trúng tên lửa, Tolland đã gào lên đau đớn và căm hận vì mất người
bạn quý. Rồi ông ta, quay sang anh, mắt quắc lên giận dữ, lưng khom xuống, như
thế định ngay lập tức đâm mạnh vào yết hầu của anh; nhưng hình như đúng lúc ấy
lương tâm của ông ta đã lên tiếng can ngăn. Thế là Tolland quẳng cây gậy sang
một bên, mắt long lên, rồi thúc mạnh mũi ủng vào bàn chân vừa bị bắn nát của
anh.
Chi tiết cuối cùng mà Delta-Ba còn nhớ được là anh đau
đớn đến nỗi nôn hết mật xanh mật vàng, tối tăm mặt mũi và ngất đi.
Lúc này anh đã hồi tỉnh lại, nhưng không thể nhớ nổi
mình đã bị bất tỉnh bao nhiêu lâu. Hai khuỷu tay anh bị trói giật ra đằng sau,
nút dây trói xiết chặt khủng khiếp, chắc chỉ có thuỷ thủ chuyên nghiệp mới xiết
chặt được đến thế. Hai cẳng chân anh cũng bị bẻ giật về phía sau, và bị buộc
vào cùng với hai cổ tay, khiến cho thân người bị bẻ cong về phía sau một cách
hết sức kỳ quái. Anh cố hét to lên, nhưng không âm thanh nào thoát ra khỏi cổ
họng. Miệng anh đã bị nút chặt.
Delta-Ba không thể tin rằng sự thể lại đến nông nỗi
này. Chợt thấy có làn gió ấm áp thổi nhẹ và những ngọn đèn sáng chói, anh nhận
ra mình đang ở trên boong chính của tàu Goya. Anh vặn vẹo, nhìn quanh, hi vọng
thấy đồng đội đến cứu mình, nhưng chỉ thấy một hình ảnh hãi hùng - hình ảnh méo
mó và ngoặt ngoẹo của chính anh, phản chiếu trên mặt kính Plexiglas của chiếc
tàu lặn mini. Chiếc tàu lặn đang lơ lửng trước mặt, và Delta-Ba thấy mình đang nằm
ngay trên ngưỡng cửa giật trên boong tàu, thật nguy hiểm. Và không kém phần
đáng sợ là một câu hỏi vừa hiện lên trong óc.
Mình ở trên boong…, còn Delta-Hai ở đâu?
Delta-Hai mỗi lúc một thêm lo lắng.
Dù đồng đội của anh đã trả lời là không có gì bất ổn,
nhưng tiếng súng phát một anh vừa nghe thấy rõ ràng không phải ra từ súng máy.
Rõ ràng là Rachel Sexton và Tolland vừa bắn. Delta-Hai đến sát bên lối lên
xuống mà đồng đội của anh lúc nãy bước xuống, và trông thấy máu.
Súng lên đạn sẵn, anh xuống cầu thang, lần theo vết
máu dọc một hành lang hẹp dẫn đến mũi tàu. Đến đây, vết máu anh đến cầu thang
thứ hai dẫn xuống boong chính. Không thấy ai. Càng lo lắng hơn, Delta-Hai tiếp
tục lần theo vết máu dọc theo boong, đến tận đuôi tàu, gặp lại chính cầu thang
đầu tiên mà anh đặt chân xuống.
Cô chuyện gì thế nhỉ? Vết máu dường như tạo thành một
vòng tròn lớn.
Thận trọng, vừa chĩa súng tứ phía vừa nhích từng tí
một, Delta Hai tiến đến khu đặt các phòng thí nghiệm. Vệt máu kéo dài mãi đến
tận boong sau. Cẩn thận đi vòng rộng ra để tránh góc ngoặt, mắt anh vẫn nhìn
theo vết máu.
Rồi anh trông thấy.
Lạy Chúa lòng lành!
Delta-Ba đang nằm đó - bị trói chặt, bịt miệng - ngay
trước chiếc tàu lặn mini của tàu Goya. Từ xa anh đã thấy một bên chân của
Delta-Ba không còn nữa.
Sợ bị gài bẫy, Delta-Hai giương súng sẵn sàng, thận
trọng tiến lên. Delta-Ba đang vùng vẫy và cố nói với anh điều gì đó. Trong cái
rủi có cái may, có lẽ do chân bị trói quặt ra đằng sau mà Delta-Ba còn sống
được đến lúc này, máu chảy ra từ vết thương có vẻ đã giảm nhiều.
Đến gần chiếc tàu lặn cỡ nhỏ, tầm nhìn bao quát phía
sau của Delta-Hai không thể tốt hơn, vòm kính của buồng lái phản chiếu toàn bộ
boong tàu. Mãi đến lúc đã đứng sát người đồng đội không may mắn của mình,
Delta-Hai mới nhận ra ánh mắt đầy hàm ý của Delta-Ba, nhưng đã quá muộn.
Bỗng đâu tia chớp màu bạc bất thần loé lên.
Một trong những cánh tay máy của chiếc tàu lặn Triton
chợt tung ra và túm chặt đùi trái của Delta-Hai. Anh cố giãy ra, nhưng cánh tay
máy càng xiết chặt thêm, chặt đến nỗi xương bị gãy. Delta-Hai thét lên đau đớn.
Anh trừng mắt nhìn vào trong cabin tàu lặn. Đằng sau những đường nét của boong
tàu phản chiếu trên mặt kính là khuôn mặt xanh xao, người đó ngồi thu mình gọn lỏn ở góc
khuất trong con tàu Triton.
Michael Tolland đang ở trong tàu lặn, bên bàn điều
khiển.
Quá ngu, Delta-Hai rít lên, nén đau để giương súng máy
lên.
Anh nhằm thẳng vào ngực trái của ông ta, ngay sau lớp
kính, chỉ cách anh không quá ba foot. Anh kéo cò, đạn nổ ầm ầm. Tức tối vì bị
mắc bẫy, Delta-Hai giữ chặt cò súng cho đến khi không còn một viên đạn. Thở hắt
ra, anh quẳng súng xuống đất, rồi chằm chằm nhìn mái vòm bằng kính bị thủng lỗ
chỗ.
- Chết đi con! - Vừa gằn giọng rít lên, Delta-Hai vừa
cố gỡ chân khỏi cánh tay máy. Những cái móc thép nghiến sâu thêm, làm da thịt
rách toác ra. - Chết tiệt! - Anh quờ tay lần tìm máy bộ đàm đeo ở thắt lưng.
Nhưng vừa cầm được chiếc máy thì bị một cánh tay máy nữa bật ra và xiết chặt cổ
tay. Máy bộ đàm CrypTalk rơi xuống boong tàu.
Đúng lúc ấy một bóng ma hiện ra ở cửa sổ kính ngay bên
cạnh anh. Khuôn mặt nhợt nhạt ban nãy đang ngó qua mép kính còn nguyên vẹn và
nhìn anh chòng chọc. Choáng váng. Delta-Hai nhìn lại vòm kính của chiếc tàu
lặn, hoá ra không một quả đạn nào xuyên nổi qua lớp kính dày của mái vòm trước
mặt. Mặt ngoài mái vòm chi chít những vết đạn.
Sau giây lát, một cánh cửa mở ra trên nóc mái vòm
kính, Michael Tolland nhô đầu lên. Ông ta vẫn còn run, nhưng không hề hấn gì.
Xuống đến mặt boong, ông chăm chú nhìn cửa sổ tàu ngầm thủng lỗ chỗ.
- Những mười ngàn pound một inch đấy. - Tolland lên
tiếng. - Đáng ra anh bạn nên dừng loại súng lớn hơn.
Đứng trong phòng thí nghiệm của cơn tàu, Rachel biết
cô không còn nhiều thời gian. Cô vừa nghe tiếng súng nổ, và thầm khẩn cầu cho
mọi sự diễn ra đúng như dự kiến của Tolland. Bây giờ cô không cần biết ai là kẻ
đứng sau tất cả những chuyện này - Giám đốc NASA, Marjorie Tench, hay đích thân
Tổng thống - chi tiết đó không còn quan trọng nữa. Kẻ đó sẽ không thể phủi tay
sau tất cả những gì đã gây ra. Dù kẻ đó có là ai thì sự thật vẫn phải bị phanh
phui.
Vết thương trên cánh tay Rachel đã hết chảy máu, và
một lượng lớn hoóc-môn adrenaline đang thấm đẫm từng tế bào của cô, khiến cho
phản xạ nhạy bén hơn, đồng thời cảm giác đau cũng bớt đi nhiều. Tìm được giấy
và bút, Rachel đã nén đau viết một bức điện hai dòng. Những ngôn từ trên giấy
không được hùng hồn cho lắm, nhưng lúc này đâu phải là lúc trau chuốt câu chữ.
Cô để tờ giấy ấy vào cùng một xấp với những bằng chứng khác - bức ảnh chụp cắt
lớp phiến băng Milne, ảnh loài sinh vật biển Bathynomous Giganteus, bản sao
những bài báo về các chrondrule hình thành trong lòng đại dương, bản in kết quả
soi mẫu đá trên kính hiển vi. Tảng thiên thạch đó hoàn toàn là giả mạo, và
những tài liệu này sẽ chứng minh điều ấy.
Rachel xếp tất cả những giấy tờ đó vào máy fax. Do
không thuộc lòng nhiều số fax, cô không có nhiều chọn lựa, nhưng Rachel đã
quyết định ai sẽ là người nhận được những thông tin này. Nín thở cô cẩn thận
bấm số của người nhận.
Vừa nhấn vào nút "gửi". Rachel vừa thầm mong
mình đã chọn lựa một cách sáng suốt.
Một tiếng bíp vang lên từ chiếc máy fax.
LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN
Không có gì bất ngờ. Hệ thống liên lạc của con tàu vẫn
bị nhiều. Cô kiên nhẫn quan sát chiếc máy hoạt động, hi vọng nó được cài đặt
cùng một cơ chế với chiếc máy cô vẫn thường dùng ở nhà riêng.
Nhanh lên nào!
Năm phút sau, lại có một tiếng bíp nữa.
ĐANG KẾT NỐI LẠI…
Tuyệt lắm! Chiếc máy đang tự động quay lại số mà
Rachel vừa bấm.
LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN
ĐANG KẾT NỐI LẠI…
Để cho chiếc máy tiếp tục tự động đợi tín hiệu đường
truyền, Rachel lao ra ngoài boong tàu, vừa kịp lúc chiếc trục thăng sầm sập
quay lại.
Chương 119
Cách con tàu Goya một trăm sáu mươi dặm, Gabrielle
Ashe đang tròn mắt nhìn màn hình máy tính cá nhân của Thượng nghị sĩ Sexton,
kinh ngạc đến sững sờ. Tất cả những nghi vấn của cô đều đúng sự thật.
Nhưng cô không thể ngờ lại đúng đến mức này.
Gabrielle đang xem hàng chục tờ séc ngân hàng mà
Thượng nghị sĩ đã quét vào máy tính - đều từ các công ty vũ trụ tư nhân gửi vào
tài khoản của Sexton tại đảo Cayman. Tờ có mệnh giá nhỏ nhất cũng trị giá tới
mười lăm ngàn đô la. Có mấy khoản lên tới nửa triệu đô. Chỉ là những khoản
chẳng đáng kể, nguyên văn lời ông ta là thế. Tất cả những khoản hiến tặng của
họ đều dưới mức hai ngàn đô la.
Hiển nhiên là ông ta đã nói dối từ bao lâu nay. Những
bằng chứng về hoạt động gây quỹ tranh cử bất hợp pháp không thể tha thứ đang
hiện ra sờ sờ trước mắt Gabrielle. Trái tim cô nhói lên, đau vì bị lừa dối, đau
vì thất vọng. Ông ta nói dối!
Gabrielle thấy mình thật ngu ngốc, thật nhơ nhuốc. Cô
như muốn phát điên.
Ngồi chết sững trong bóng tối, Gabrielle chẳng biết
nên thế nào.