Điểm dối lừa - Chương 108 - 109 -110
Chương 108
Corky và Xavia đang chăm chú nhìn vào kính hiển vi
điện tử để xác định tỉ lệ zirconium trong các chrondrule, Rachel theo Tolland
sang phòng thí nghiệm nhỏ bên cạnh. Ông khởi động máy tính trong phòng. Rõ ràng
là nhà hải dương học nổi tiếng muốn kiểm tra thêm chi tiết nào đó.
Trong khi đợi máy tính chuẩn bị làm việc, ông quay
sang Rachel, ngập ngùng, như muốn nói điều gì, nhưng lại lặng im.
- Có chuyện gì vậy? - Rachel hỏi. Cô thầm ngạc nhiên
cảm nhận được sức hút lan toả từ cơ thể cường tráng của ông, ngay trong những
giây phút gấp gáp như lúc này. ước gì Rachel có thể quên hết tất cả mọi sự, để
được ở bên Mike - dù chỉ trong giây lát.
- Tôi nợ em một lời xin lỗi. - ông nói, ánh mắt đầy vẻ
nuối tiếc.
- Vì sao?
- Về con tàu… Về cá mập đầu búa. Tôi quá sung sướng
được quay về tàu. Đôi khi tôi quên mất là có những người rất sợ hãi khi phải
đối mặt với biển cả.
Mặt giáp mặt Tolland, Rachel tưởng như mình trở lại
thời còn là nữ sinh ngây thơ lần đầu hẹn hò với bạn trai.
- Cảm ơn anh. Không sao đâu mà. Thật đấy.
Dường như ông rất muốn được hôn cô. Rồi ông ngượng
ngùng quay đi.
- Tôi biết em rất nóng lòng được lên bờ ngay. Chúng ta
vào việc nhé.
- Vào việc thôi! - Rachel mỉm cười, nói khẽ.
- Ừ! - Tolland ngồi vào trước máy tính.
Rachel đứng sát sau lưng Tolland, tận hưởng sự yên
tĩnh và ấm cúng của căn phòng nhỏ. Cô nhìn Tolland di chuyển con chuột qua một
dãy file. - Chúng ta làm gì bây giờ?
Mở cơ sở dữ liệu để tìm con chấy đại dương khổng lồ
Biết đâu chúng ta lại tìm được hoá thạch nào đó giống như trong tảng thiên
thạch của NASA - Ông kích chuột vào chương trình tìm kiếm và gõ mấy chữ in hoa:
PROJECT DIVERSITAS…
Vừa di con chuột dọc thanh công cụ, ông vừa giảng
giải:
- Diversitas là cơ sở dữ liệu liên tục được cập nhật
về các loại sinh vật trong đại dương. Mỗi khi nhà hải dương học nào đó phát
hiện được một loài mới, anh ta có thể báo cho các đồng nghiệp khác biệt bằng
cách tải thông tin và ảnh của loài vật đó lên cơ sở dữ liệu trung tâm. Vì sau
mỗi tuần lại có rất nhiều thông tin mới nên đây là cách duy nhất để khỏi bị lạc
hậu.
Rachel nhìn Tolland bấm nút trên thanh công cụ.
- Và bây giờ chúng ta nối mạng intemet à?
- Không. Ở biển rất khó nối mạng intemet. Chúng tôi
lưu giữ tất cả các dữ liệu cần thiết trong một loạt ổ đĩa hình ở phòng bên.
Mỗi khi cập cảng thì chúng tôi lại cập nhật thông tin
từ máy chủ để nhận các dữ liệu mới. Đây là cách tiếp cận dữ liệu không cần
đường truyền, và thông tin của chúng tôi không bao giờ bị lạc hậu quá một
tháng. - Tolland vừa cười vừa gõ từ khoá vào ô tìm kiếm trên máy tính. - Chắc
Rachel đã từng nghe nói tới phần mềm nghe nhạc mở tên là Napster?
Rachel gật đầu.
Diversita được coi là phiên bản dành cho các nhà hải
dương học của Napster. Chúng tôi đặt cho nó biết hiệu là LOBSTER3 -
Cơ sở dữ liệu vô cùng lập dị của các nhà hải dương học cô đơn.
Rachel cười phá lên. Khiếu hài hước của Tolland đã
đánh bạt được cảm giác lo lắng của cô trong những giờ phút căng thẳng như thế
này. Rachel chợt nhận thấy cuộc sống của cô gần đây quá thiếu vắng tiếng cười.
- Đây là cơ sở dữ liệu khổng lồ. - Tolland vừa nói vừa
đánh những từ khoá cuối cùng vào ô tìm kiếm. - Hơn mười terabyte thông tin và
hình ảnh. Nó chứa những thông tin không ai biết đến, và sẽ chẳng có ai buồn
quan tâm đến. Đơn giản là các loài thuỷ sinh vật quá đa dạng. - Ông nhấn chuột
vào nút "tìm kiếm". - Rồi, để xem đã có ai thấy hoá thạch nào gần
giống với mẫu hoá thạch trong tảng đá của NASA không nào.
Vài giây sau, màn hình chuyển, một danh sách có bốn
mục hoá thạch hiện lên. Tolland lần lượt kích chuột vào từng mẫu hoá thạch và
xem xét. Không mẫu hoá thạch nào có bất cứ nét nào tương đồng với con chấy hoá
thạch khổng lồ trong tảng thiên thạch trên phiến băng Milne.
Tolland nhíu mày.
- Thử cách khác xem nào. - Ông xoá bỏ từ hoá thạch
trong chuỗi từ khoá rồi nhấn vào nút "tìm kiếm".
Chúng ta tìm các sinh vật đang sống vậy. Biết đâu một loài đang sống nào đó
có những đặc điểm gần giống hoá thạch trong tảng đá của NASA.
Màn hình lại chuyển lần nữa.
Tolland lại nhíu mày. Lần này hàng trăm đề mục hiện
lên trên màn hình. Ông ngồi im lặng giây lát, tay gãi gãi cái cằm lởm chởm râu.
- Nhiều quá, phải giới hạn bớt lại xem.
Rachel quan sát Tolland kích vào một thanh công cụ nằm
dọc có tên là "môi trường sống". Số lượng đề mục để chọn quả là khổng
lồ: Vùng thuỷ triều, đầm, phá, vùng có đá ngầm, núi ngầm trong lòng đại dương,
vùng có mạch phun sulfur. Tolland di chuột xuống tít bên dưới và chọn dề mục
NHỮNG KHE SÂU ÍT SỰ SỐNG, VỰC SÂU ĐẠI DƯƠNG.
Rất sáng suốt, Rachel thầm nhận xét. Tolland đang giới
hạn phạm vi tìm kiếm vào những khu vực mà họ cho rằng có thể hình thành các
chrondrule.
Màn hình chuyển. Lần này Tolland mỉm cười hài lòng.
- Tốt lắm, chỉ còn ba đề mục.
Rachel nhìn cái tên đầu tiên trên màn hình Limulus
poly… lạ hoắc.
Tolland nhấn chuột vào đó. Một bức ảnh hiện ra. Con
vật này trông giống loài của móng ngựa khổng lồ nhưng không có đuôi.
- Không phải. - Tolland nói, rồi quay về trang trước.
Rachel nhìn cái tên thứ hai trên danh sách. Tômus Machêus Quỷhờnus. Thật
khó hiểu.
- Đây có phải là tên thật không?
Tolland cười phá lên.
- Không đâu. Đây là một loài mới và chưa được phân
loại. Anh chàng nào phát hiện ra nó quả là có óc hài hước. Anh ta đề nghị cho
con vật này cái tên chính thức là Tômus Machêus Quỷhờnus - Ông nhấn chuột vào
đề mục, hiện ra hình ảnh một chú tôm xấu xí có râu và những cái ăng ten phát
sáng.
- Cái tên quả là thích hợp, - Tolland nhận xét - nhưng
không giống con bọ vũ trụ mà chúng ta đang tìm. - Ông quay lại trang đầu.
- Cơ hội cuối cùng của chúng ta là… - Ông kích chuột
vào cái tên thứ ba, và trang tài liệu được mở ra.
- Bathynomous giganteus… - Tolland đọc to cái tên của
nó, khi từng dòng chữ lần lượt hiện lên. Một bức ảnh được tải xuống. Ảnh màu,
chụp cận cảnh.
Rachel nhảy dựng lên. - Lạy Chúa tôi! - Con vật như
đang nhìn thẳng vào cô, khiến Rachel thấy ớn lạnh.
Tolland hít một hơi thật dài:
- Trời đất ơi, anh chàng này trông giống quá chừng.
Rachel gật đầu, không thốt nên lời. Bathynomous
giganteus.
Giống y chang một con chấy biết bơi khổng lồ. Rất
giống mẫu hoá thạch trong tảng thiên thạch của NASA.
Có vài khác biệt không đáng kể - Tolland nói, ông di
chuột qua một vài tiêu bản giải phẫu học và bảng số liệu. - Giống nhau kinh
khủng, đặc biệt là nếu nghĩ rằng loài vật này đã tiến hoá qua một trăm chín
mươi triệu năm.
Giống lắm, Rachel thầm nghĩ, quá giống.
Tolland đọc to những miêu tả hiện trên màn hình:
- Được cho là một trong những loài cổ xưa nhất trong
đại dương. Đây là một loài hiếm gặp và mới được xếp loại. Bathynomous giganteus
là một loài đẳng tức ăn xác thối hiếm gặp ở đại đường. Có chiều dài tới hơn nửa
mét, loài này có lớp vỏ kitin che phủ khắp đầu, ức, và bụng. Chúng có hai phần
phụ, ăng ten, và mắt hỗn hợp giống các loài côn trùng trên mặt đất. Loài sinh
vật đáy biển này không bị bất kỳ loài nào khác ăn thịt và sống ở những vùng có
môi trường cằn cỗi mà cho đến gần đây chúng ta vẫn tưởng là không có sự sống. -
Tolland ngước mắt lên. - Chi tiết này giải thích vì sao trong tảng đá đó không
có bất kỳ mẫu hoá thạch nào khác!
Rachel chăm chăm nhìn con bọ trên màn hình, vừa phấn
chấn, vừa không biết nên hiểu tất cả mọi sự như thế nào cho phải.
- Thử tưởng tượng xem. - Tolland hào hứng nói - Cách
đây một trăm chín mươi triệu năm, một ổ Bathunomous bị chôn sâu trong một túi
bùn dưới đáy đại dương. Và khi túi bùn ấy bị thạch hoá, những con bọ này trở
thành hoá thạch! Trong suốt thời gian đó, đáy đại dương luôn luôn biến đổi do
các đĩa kiến tạo di chuyển. Vì vậy, tảng đá này bị chuyển đến một vùng có áp
suất cực lớn, và các chrondrule hình thành! - Những lời nói của Tolland mỗi lúc
một gấp gáp. - Và nếu một phần của tảng đá ấy vỡ ra, - rồi trôi dạt đến một khe
sâu không quá khó tiếp cận dưới đáy đại dương, nó sẽ được phát hiện!
- Nhưng nếu NASA… - Rachel lắp bắp. - ý em là nếu đây
là một sự lừa dối, NASA phải biết là sớm muộn gì cũng sẽ có người tình cờ phát
hiện ra sự giống nhau giữa các hoá thạch và loài sinh vật đại dương này, đúng
thế không nào? Y như cách chúng ta vừa tìm ra đấy.
Tolland bắt đầu in bức ảnh chụp Bathynomous.
- Chẳng biết nữa. Nếu có người vô tình phát hiện ra
những điểm giống nhau giữa những mẫu hoá thạch và loài chấy biển này đi nữa thì
đặc điểm sinh học của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau. Điều đó càng có
lợi cho NASA.
Rachel chợt hiểu ra.
- Thuyết tha sinh. Cuộc sống trên Trái đất bắt nguồn
từ trong vũ trụ.
- Chính xác. Những nét tương đồng giữa một sinh vật
của trái đất và một sinh vật từ vũ trụ sẽ mang ý nghĩa khoa học rất
lớn. Loài chấy biển này sẽ càng có lợi cho NASA.
- Trừ trường hợp người ta nghi ngờ về tính xác thực
của tảng thiên thạch.
Tolland gật đầu.
- Một khi đặt vấn đề nghi ngờ về tảng thiên thạch thì
mọi chi tiết sẽ sụp đổ hết. Loài chấy biển này sẽ không còn là phao cứu hộ của
NASA nữa, nó sẽ thành một cái thòng lọng.
Rachel đứng im trong khi bức ảnh của loài Bathunomous
từ trong máy in từ từ chạy ra. Cô cố thuyết phục mình rằng đây chỉ là một sai
sót trung thực của NASA mà thôi, nhưng thâm tâm cô vẫn quả quyết rằng không
phải vậy. Những người mắc phải sai lầm một cách trung thực không bao giờ ra tay
giết người.
Đột nhiên nghe thấy giọng nói léo nhéo của Corky từ
phòng thí nghiệm bên cạnh.
- Không thể nào!
Cả Tolland lẫn Rachel cùng lúc đều quay sang…
- Đo lại cái tỉ lệ chết tiệt này lần nữa đi! Không thể
có chuyện đó!
Xavia hối hả bước ra khỏi phòng, tay cầm tờ giấy vừa
rút ra từ máy in, mặt tái mét.
- Mike này, tôi cũng không biết phải nói thế nào nữa…
- Xavia lạc giọng:
- Tỉ lệ titan, zirconium mà chúng tôi đo được ở mẫu đá
này… - cô hắng giọng - chắc chắn là NASA đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Đây chỉ
là tảng đá có xuất xứ từ đại dương thôi.
Tolland và Rachel nhìn nhau, không ai nói được câu gì.
Họ biết. Bao nhiêu hồ nghi, ngờ vực lúc này đều đã được chứng minh rõ ràng.
Tolland gật đầu, ánh mắt buồn bã.
- Vâng, cảm ơn cô, Xavia.
- Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. - Xavia nói. - Còn lớp
vỏ bị cháy sém, còn vị trí của nó trong lòng băng hà…
- Trên đường vào đất liền chúng tôi sẽ giải thích. -
Tolland nói.
Đi thôi Rachel nhanh chóng vơ lấy tất cả những gì có
thể dùng làm bằng chứng. Những bằng chứng này vô cùng hiển nhiên: ảnh chụp cắt
lớp vết khoan bên dưới phiến băng Milne, ảnh chụp một loài sinh vật biển rất
giống hoá thạch trong tảng đá, bài báo về sự hình thành các chrondrule trong
môi trường đại dương của tiến sĩ Pollock, và kết quả quan sát trên kính hiển vi
điện tử cho thấy tỉ lệ ti tan, zirconium.
Không thể có kết luận nào khác. Lừa dối…
Tolland nhìn tập giấy trong tay Rachel và thở dài buồn
bã - Lần này thì William Pickering có bằng chứng rồi.
Rachel gật đầu, lại một lần nữa băn khoăn vì sao Giám
đốc của cô không trả lời máy.
Tolland nhấc máy điện thoại đặt trong phòng, chìa cho
Rachel.
- Hay thử gọi cho ông ấy lần nữa?
- Thôi chúng ta lên đường ngay đi. Chúng ta gọi từ
trên máy bay cũng được.
Rachel đã quyết định sẽ bay thẳng về NRO nếu cô không
thể gọi cho Giám đốc từ trên máy bay cứu hộ bờ biển. NRO chỉ cách họ có 180
dặm.
Tolland đang định gác máy, bỗng dừng phắt lại. Ông
nhíu mày, áp sát ống nghe vào tai, vẻ ngạc nhiên.
- Kỳ quặc. Không thấy có tín hiệu gì cả.
Anh nói cái gì cơ? - Rachel lo lắng, hỏi.
Lạ thật. - Tolland nói. - Sóng liên lạc trực tiếp
COMSAT có bao giờ bị mất thế này đâu.
- Anh Tolland ơi! - Người phi công lao xong xộc vào
phòng thí nghiệm, mặt tái xám.
Có chuyện gì thế? - Rachel hỏi. - Có người đến đây à?
- Chắc là thế. - Anh ta trả lời. Tôi chả hiểu gì cả.
Đột nhiên toàn bộ hệ thống radar bị mất tín hiệu.
Rachel nhét mớ giấy thật sâu vào trong áo khoác.
- Lên máy bay! Chúng ta phải đi ngay. NGAY LẬP TỨC.
Chương 109
Dò từng bước trong văn phòng tối sẫm của Thượng nghị
sĩ Sexton, tim Gabrielle đập thình thịch. Căn phòng thật rộng rãi và sang trọng
tường ốp gỗ, những bức tranh sơn dầu, những tấm thảm Ba Tư, những chiếc ghế bọc
da, và chiếc bàn gỗ gụ bóng lộn.
Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng là những tia sáng
màu tím sẫm toả ra từ màn hình máy tính của Sexton.
Gabrielle đến bên bàn làm việc.
Thượng nghị sĩ Sexton say sưa mô hình "văn phòng
số hoá" đến mức điên khùng. Ông luôn tránh những chồng hồ sơ dày cộp, và
ưa thích sự gọn gàng, tiện dụng của chiếc máy tính cá nhân. Trong chiếc máy
tính này là vô vàn thông tin - biên bản các cuộc họp, những tài liệu đã được
đưa vào máy quét, những bài phát biểu, những ghi chú cá nhân… Máy tính của
Thượng nghị sĩ Sexton chính là mảnh đất thiêng của riêng ông, và vì thế lúc nào
ông cũng khoá cửa văn phòng rất cẩn thận để bảo vệ chiếc máy tính này. Thậm chí
ông còn từ chối sử dụng intemet vì sợ tin tặc đột nhập vào chiếc máy thiêng
liêng của mình.
Chỉ cần cách đây một năm thôi, Gabrielle sẽ nhất định
không chịu tin rằng các chính trị gia lại ngu si đến mức lưu trữ tất cả những
tài liệu có thể bị sử dụng để buộc tội họ, nhưng Washington đã dạy cô rất nhiều
điều. Thông tin chính là quyền lực. Gabrielle đã rất kinh ngạc khi biết rằng
tất cả những chính trị gia nhận tiền hiến tặng bất hợp pháp đều giữ lại những
tài liệu làm bằng chứng cho các khoản tiền ấy - thư từ, hoá đơn ngân hàng, biên
lai… - thảy đều được cất ở nơi kín đáo và an toàn. Chiến thuật chống tống tiền
này có tên tục là "bảo hiểm kiểu anh em sinh đôi người Xiêm"; nó có
tác dụng bảo vệ chính trị gia trước những người có ý nghĩ rằng những khoản tiền
hiến tặng hào phóng của họ là vật bảo đảm cho những áp lực mà họ có quyền tạo
ra đối với các chính trị gia. Nếu bị ép quá, chính trị gia chỉ cần lôi bằng
chứng ra để cho đối tác biết rằng cả hai bên đều vi phạm luật pháp. Bằng chứng
ấy sẽ khiến cho cả chính trị gia lẫn đối tác của mình bị dính chặt vào nhau từ
ngang hông trở lên - như hai anh em sinh đôi dính nhau người Xiêm La nọ trong
tiêu thuyết của Mark Twain.
Gabrielle ngồi xuống bên bàn làm việc của ngài Thượng
nghị sĩ. Cô nhìn chiếc máy, hít thật sâu. Nếu Thượng nghị sĩ nhận tiền của SFF,
tất cả bằng chứng sẽ nằm hết trong chiếc máy tính này…
Ảnh chờ trên máy tính của Thượng nghị sĩ là cảnh Nhà
Trắng và mặt tiền của nó do một nhân viên vốn luôn lạc quan của ông thiết kế
cho ông. Xung quanh bức ảnh là tấm biểu ngữ rất dài với dòng chữ:
- Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa
Kỳ Sedgewick Sexton…, Tổng thống Hoa…
Gabrielle chạm nhẹ tay vào con chuột, một hàng chữ
hiện lên.
HÃY NHẬP MẬT KHẨU:
Gabrielle không hề thấy bất ngờ. Chẳng có gì khó khăn.
Tuần trước, cô bước vào phòng đúng lúc Thượng nghị sĩ vừa ngồi xuống và đang
nhập mật khẩu vào máy. Cô thấy ông bấm rất nhanh ba ký tự.
- Thế mà cũng đòi là mật khẩu sao, thưa Thượng nghị
sĩ? - Cô vừa bước vào vừa nói.
Sexton ngước lên.
- Gì cơ?
- Thế mà ai cũng tưởng Thượng nghị sĩ rất quan tâm đến
vấn đề bảo mật cơ đấy. - Cô mắng yêu. - Mật khẩu gì mà chỉ có mỗi ba ký tự. Các
chuyên gia máy tính vẫn khuyến cáo mọi người phải dùng ít nhất sáu ký tự cơ.
- Chuyên gia máy tính rặt một lũ trẻ ranh. Làm sao mấy
anh chàng đó hiểu được rằng đã qua tuổi bốn mươi thì chẳng ai nhớ được sáu ký
tự ngẫu nhiên cả. Cửa phòng này đã có hệ thống báo động rồi. Chẳng ai vào được
đây.
Gabrielle tươi cười đến bên ông:
- Thế nhỡ có người lẻn vào lúc Thượng nghị sĩ đang ở
nhà vệ sinh thì sao?
- Phải mò tất cả các ký tự đã. - Ông cười lớn. - Tôi
thường ở trong đó lâu, nhưng không lâu đến mức ấy đâu.
- Cá một bữa tối ở nhà hàng Davide là em có thể lần ra
mật khẩu của ông trong vòng mười giây.
Sexton trở nên tò mò đầy thú vị:
- Cô không đủ tiền trả cho nhà hàng Davide đâu,
Gabrielle ạ.
- Tức là ông sợ không dám cá chứ gì ạ?
Sexton nhận lời gần như không giấu nổi vẻ thương hại
đối với Gabrielle. Mười giây à? - Ông thoát ra khỏi chương trình đang chạy và ra
hiệu bảo Gabrielle ngồi xuống ghế. - Cô nên biết là mỗi khi đến Davide tôi chỉ
gọi mỗi món saltimbocca thôi đấy. Và món ấy không rẻ chút nào đâu.
Gabrielle ngồi xuống, nhún vai nói:
- Ông sẽ phải tự trả tiền thôi mà
NHẬP MẬT KHẨU:
- Mười giây. - Sexton nhắc lại.
Gabrielle không nhịn được cười. Cô chỉ cần không quá
hai giây. Từ tận ngoài cửa đã thấy là ông gõ ba ký tự rất nhanh bằng ngón tay
trỏ. Rõ ràng là cùng một nút ký tự. Chàng khôn ngoan chút nào, cô cũng đã thấy
là tay ông hướng về phía bên trái bàn phím - có nghĩa là chỉ còn lại khoảng
chín mười phím ký tự mà thôi.
Và việc chọn ký tự cũng chẳng có gì khó khăn - Thượng
nghị sĩ vốn rất ưa thích điệp âm Sexton trong cái tên của mình. Thượng nghị sĩ
Sedgewick Sexton.
Ông bao giờ đánh giá thấp một chính trị gia.
Cô gõ ba chữ SSS, và màn hình chờ biến mất.
Sexton há hốc miệng..
Đó là chuyện từ tuần trước. Lúc này Gabrielle lại đang
ngồi trước máy tính, cô tin rằng Thượng nghị sĩ chưa có thời gian để thay mật
khẩu khác. Cần gì phải thế? Ông ấy hoàn toàn tin tưởng ở mình cơ mà.
Cô gõ ba chữ SSS
MẬT KHẨU KHÔNG CHÍNH XÁC - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI
Gabrielle sững sờ.
Rõ ràng là cô đã đánh giá quá mức sự tin tưởng của
Thượng nghị sĩ đối với mình.
Chương 110
Hoàn toàn bất ngờ, họ bị tấn công. Từ phía tây nam con
tàu, bóng ma đen trùi trũi đầy chết chóc của chiếc trực thăng hiện ra. Rachel
không thể hiểu nổi nó là cái gì, và vì sao lại có mặt ở nơi này.
Trong bóng tối bao trùm, một loạt đạn xả từ mũi máy
bay xuống, lia khắp từ mũi tới tận đuôi tàu. Không kịp tìm chỗ trú ẩn ngay.
Rachel bị một quả đạn sượt qua cánh tay. Cô ngã dúi xuống sàn gỗ, rồi co người,
lết đến nấp sau chiếc tàu ngầm Triton có mái vòm bằng kính.
Tiếng cánh quạt kêu rú lên inh tai khi chiếc máy bay
trực thăng lao vụt qua thân tàu, sau đó đột ngột im hẳn đi khi nó lao ra biển
để chuẩn bị lộn trở lại lần thứ hai.
Run rẩy, nằm sau chiếc tàu ngầm mini, Rachel vừa ôm
cánh tay vừa quay lại nhìn Tolland và Corky. Cả hai đã kịp nấp sau kho chứa đồ,
giờ vừa mới đứng dậy, đang hoảng hốt quan sát bầu trời Rachel đứng dậy. Quang
cảnh quanh cô giờ y như một bộ phim vừa bất ngờ chuyển sang chế độ chiếu chậm.
Lom khom sau mái vòm trong suốt của chiếc tàu ngầm
nhỏ, Rachel quan sát phương tiện thoát thân duy nhất của cả nhóm - chiếc trực thăng
cứu hộ bờ biển. Xavia đã leo được lên đến cabin máy bay, và đang rối rít vẫy họ
lên. Rachel thấy rõ viên phi công đang lom khom trong buồng lái, ấn nút, gạt
cần, vặn núm. Cánh quạt máy bay bắt đầu quay…, chậm chưa từng thấy.
Quá chậm.
Nhanh lên!
Rachel giờ đã đứng thẳng dậy và chuẩn bị chạy. Cô băn
khoăn không biết mình có kịp băng qua boong tàu trước khi chiếc máy bay đen kia
quay lại lần nữa không. Cô nghe tiếng chân của Tolland và Corky đang chạy về
phía mình, về phía chiếc trực thăng đang đợi sẵn. Phải rồi. Nhanh lên!
Rồi cô trông thấy…
Cách họ khoảng một trăm mét, từ trên trời cao, một
chùm tia laze sáng đỏ nhỏ bằng cây bút chì xuất hiện giữa bóng đêm mịt mùng.
Chùm tia ấy quét dọc thân tàu. Rồi tìm thấy mục tiêu nó dừng lại ở sườn chiếc
máy bay phản lực cứu hộ bờ biển đang đợi họ.
Chỉ trong hc tắc, Rachel hiểu ngay mình vừa nhìn thấy
gì.
Trong giây phút ấy, tất cả những gì đang diễn ra trên
boong tàu Goya dường như hoà thành một mớ hỗn loạn những âm thanh và hình ảnh.
Tolland và Corky đang cố sức lao thật nhanh về phía cô Xavia ra sức vẫy họ lên
máy bay - chùm tia sáng màu đỏ rực xuyên thủng màn đêm.
Quá muộn mất rồi.
Rachel lao như tên bắn về phía hai người đàn ông đang
ra sức chạy thật nhanh về phía chiếc phi cơ. Cô chặn đường họ, dang hai tay thật
rộng để ngăn cả hai lại. Cả ba người lao vào nhau đánh sầm, cùng ngã nhào như
một toa tàu vừa trệch khỏi đường ray, nằm chồng chất lên nhau.
Phía xa, một luồng sáng trắng cực mạnh loé lên. Rachel
kinh hãi rụng rời thấy luồng khí xả phụt ra theo đúng đường thắng mà chùm tia
laze kia vừa vạch sẵn về phía chiếc máy bay đang đậu trên boong tàu.
Khi quả tên lửa Hellfire lao đúng vào thùng chứa nhiên
liệu của nó, chiếc trực thăng nổ tung thành từng mảnh, y như một món đồ chơi.
Luồng hơi nóng và tiếng động tràn khắp boong tàu, vỏ đạn rơi như mưa. Chiếc máy
bay ngùn ngụt lửa lắc lư trên cái đuôi đã vỡ tan tròng trành trong giây lát rồi
nhào khỏi boong tàu rơi đánh ầm xuống biển, cả một đám mây lớn những hơi nước
vụt bay lên.
Rachel nhắm mắt lại, cảm thấy hụt hơi. Cô nghe rõ mồn
một tiếng xèo xèo, ùng ục khi chiếc máy bay đang rừng rực lửa chìm xuống nước,
rồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi. Trong tất cả những hỗn độn ấy, cô nghe
tiếng Michael Tolland đang la hét. Cánh tay rắn chắc của ông vừa túm lấy vai
cô, kéo Rachel đứng dậy. Nhưng Rachel không thể cử động.
Người phi công cứu hộ bờ biển và Xavia đã chết.
Tiếp đến sẽ là chúng ta.

