Lụa - Chương 43 -> 57

43

Ngày 10 tháng mười năm 1864, Hervé Joncour làm chuyến viễn
hành thứ tư sang Nhật. Anh qua biên giới Pháp gần thành Metz, đi xuyên qua vùng
Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budpest
bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev. Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây
số vùng thảo nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào Sibérie, mất hết bốn
chục ngày nữa anh mới đến được hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: ông
thánh. Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại
dương, và khi tới đó anh nằm dài tám ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu
của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh tới Capo Teraya ở bờ biển phía Tây nước Nhật.
Đi ngựa trên những con đường phụ, anh băng ngang các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn,
Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo. Khi đến thành phố Bạch Xuyên, anh
thấy nó đã bị tàn phá hết một nửa và một đội quân chính phủ đóng trại giữa cảnh
hoang tàn. Anh rời thành phố bằng cách đi vòng về phía đông và chờ đợi
suốt năm ngày một phái viên của Nguyên Mộc, một cách vô ích. Vào rạng đông
ngày thứ sáu, anh ra đi về phía những ngọn đồi, theo hướng
bắc. Anh chỉ có vài tấm bản đồ được vẽ phỏng chừng và những gì còn ghi lại
trong trí nhớ. Anh lang thang nhiều ngày cho tới khi anh nhận ra một
con sông, rồi một đám rừng, rồi một con lộ. Tận cùng con lộ, anh tìm ra ngôi
làng của Nguyên Mộc: bị đốt cháy hoàn toàn, nhà cửa, cây cối, tất cả.

Chẳng còn gì cả.

Chẳng một bóng người.

Hervé Joncour đứng im, sửng sờ, nhìn đăm đăm cái đám cháy
rực lửa kếch xù đã tắt. Sau lưng anh là một con đường dài tám ngàn cây
số. Và trước mặt anh, không có gì. Bỗng dưng anh thấy ra cái mà anh
đã tin là không thể nào thấy được.

Sự tận thế.

44

Hervé Joncour ở lại hằng giờ giữa những tàn tích của ngôi
làng. Anh thấy không đủ sức bỏ đi, mặc dù anh chưa biết rõ mọi giờ mất ở đây có
thể mang đến tai họa cho anh và cả cho toàn thị trấn Lavilledieu: anh không có
trứng tằm, và ngay cả tìm được trứng để mua, anh chỉ còn hai tháng ngắn ngủi để
băng qua thế giới một lần nữa trước khi trứng nở, biến thành một đống sâu tằm
vô dụng. Ngay trễ một ngày thôi có thể xem như chấm dứt, không
làm ăn được gì nữa. Anh biết rõ điều này, vậy mà anh vẫn thấy không
đủ sức bỏ đi. Anh cứ ở đó, cho tới khi một việc đáng ngạc nhiên và phi lý xảy
ra: thình lình, không biết từ đâu ra một thằng nhỏ xuất hiện. Ăn mặc
rách rưới, nó đi chậm chạp, nhìn người xa lạ này với nỗi sợ hãi trong
mắt. Hervé Joncour không cử động. Thằng nhỏ còn bước vài bước rồi
ngừng. Cả hai đều bất động, nhìn nhau, cách nhau vài thước. Rồi thằng
nhỏ lui cui rút ra thứ gì đó từ tấm áo rách, bước lại gần Hervé Joncour, người
run lên vì sợ, đưa nó cho anh. Mốt chiếc găng. Hervé Joncour thấy
mình nhớ lại một bờ hồ, và tấm áo choàng màu cam bỏ trên đất, và những con sóng
nhỏ đùa nước vào bờ, như thể những con sóng này được gởi đến từ một nơi nào xa
thẳm. Anh cầm chiếc găng và mỉm cười với thằng nhỏ.

- Tôi đây, người Pháp đây... người tơ lụa, người Pháp, em
hiểu không? Tôi đây.

Thằng nhỏ ngừng run.

Nó có đôi mắt lóng lánh, có lẽ vì nước mắt, nhưng bây giờ nó
cười. Nó bắt đầu nói, gần như hét, rồi chạy đi, ra dấu cho Hervé Joncour
chạy theo. Nó biến mất trong một con đường mòn dẫn vào
rừng, theo hướng núi.

Hervé Joncour vẫn ngồi nguyên chờ. Anh lật qua lật lại
chiếc găng, như thể nó là một di vật duy nhất cho anh còn sót lại từ một thế
giới đã bi chìm ngập. Anh biết bây giờ đã trễ quá rồi. Và anh chẳng
còn có sự chọn lựa nào nữa.

Anh đứng dậy. Chậm rãi, anh bước lại gần con
ngựa. Leo lên yên. Rồi anh làm một điều kỳ quặc. Anh thúc gót
giày vào bụng ngựa. Và lên đường. Hướng vào rừng, theo sau
thằng nhỏ, đi cho tới tận bên kia sự tận thế.

45

Cuộc hành trình lên phía bắc của họ kéo dài nhiều ngày,
xuyên qua những rặng núi. Hervé Joncour không biết cả hai đang đi về đâu
nhưng anh cứ để cho thằng nhỏ dẫn đường, không tìm cách hỏi nó gì cả. Họ
vào đến hai ngôi làng. Dân chúng trốn lánh trong nhà.Đàn bà trốn đi nơi
khác. Thằng nhỏ tỏ ra vui thích la hét những lời không thể hiểu sau lưng
dân làng. Nó không quá mười bốn tuổi. Nó cứ thổi hoài cái ống sáo
bằng sậy phát ra những tiếng kêu thuộc đủ loại chim trên mặt đất. Nó trông
như người đang trải qua những giây phút đẹp đẽ nhất của đời mình.

Ngày thứ năm, họ lên đến một đỉnh đèo. Thằng nhỏ
đưa tay chỉ một điểm trước mắt, trên con đường đi xuống thung lũng. Hervé
Joncour rút ống dòm và cái anh thấy là một đoàn người đang kéo nhau đi: đàn ông
mang vũ khí, đàn bà và trẻ em, xe kéo bốn bánh, súc vật. Toàn bộ
một làng đang di chuyển trên đường. Anh thấy, ngồi trên ngựa, mặc đồ đen,
Nguyên Mộc. Sau lưng ông là một cái kiệu đi hơi lắc lư, khép kín bốn bên
bằng những tấm vải màu sắc lộng lẫy.

46

Thằng nhỏ xuống ngựa, nói cái gì đó rồi bỏ chạy. Trước
khi biến mất sau những bụi cây, nó quay lại, đứng im một lát, tìm một cử chỉ để
nói lên cuộc hành trình vừa qua rất tốt đẹp.

- Chuyến đi này rất tốt đẹp - Hervé Joncour nói tỏ vẻ phía
nó.

Suốt ngày hôm đó, Hervé Joncour đi theo đoàn
người, từ xa. Khi anh thấy họ dừng chân để nghỉ qua đêm, anh cứ cho ngựa đi
tiếp trên đường cho tới khi hai người đàn ông mang vũ khí chặn anh lại, giữ lấy
ngựa và hành lý, và dẫn anh vào một căn lều. Anh ngồi chờ rất lâu, rồi
Nguyên Mộc đến. Ông ta không chào. Cũng không ngồi xuống.

- Làm sao tới được đây, tên Pháp kia?

Hervé Joncour không trả lời.

- Tôi hỏi ông ai đã dẫn ông tới tận đây.

Im lặng.

- Ở đây, chẳng có gì cho ông cả. Chỉ có chiến
tranh. Và đâu phải cuộc chiến của ông. Nên rời khỏi đây đi.

Hervé Joncour rút ra một túi nhỏ bằng da, mở ra và đổ trút
xuống đất. Những thỏi vàng.

- Chiến tranh là một cuộc chơi tốn kém lắm. Ông cần
tôi, và tôi cũng cần ông.

Nguyên Mộc không buồn nhìn cả những thỏi vàng vung vãi trên
đất. Ông quay lưng và bỏ đi.

47

Hervé Joncour ngủ qua đêm ngoài bìa trại của đoàn người.Chẳng
ai nói chuyện với anh, chẳng ai tỏ ra thấy anh. Họ ngủ dưới đất, gần những
đám lửa trại. Chỉ có hai căn lều. Gần một căn, Hervé Joncour nhận ra cái
kiệu, trống rỗng: móc ở bốn góc kiệu là bốn lồng chim nhỏ: những con
chim. Những quả chuông nhỏ xíu bằng vàng được treo ở mắt lưới lồng
chim. Chuông kêu thánh thót, nhẹ nhàng trong làn gió nhẹ ban đêm.

48

Khi anh thức dậy, anh thấy cả làng lăng xăng sửa
soạn lên đường. Hai cái lều đã gỡ đi. Chiếc kiệu vẫn còn đó, còn
trống. Dân làng leo lên những chiếc xe kéo, trong im
lặng. Anh đứng dậy, nhìn lâu và kỹ xung quanh mình, nhưng những cặp mắt
bắt gặp ánh mắt anh, tất cả đều có dáng phương đông, và hạ xuống tức
khắc. Anh thấy những người đàn ông mang vũ khí, và những đứa trẻ không
khóc la. Anh thấy những khuôn mặt khép kín thường gặp ở những con người
trên đường trốn chạy. Và anh thấy một cây to bên bờ đường. Và treo cổ
vào một cành cây là thằng nhỏ đã dẫn anh đến tận đây.

Hervé Joncour tiến đến gần, đứng im một lúc lâu, nhìn xác
thằng nhỏ như thể bị thôi miên. Rồi anh gỡ sợi dây treo ở cành cây, hạ
thân xác thằng nhỏ xuống, để nó nằm dài trên đất rồi quỳ xuống bên
cạnh. Anh không thể nào rời mắt khỏi khuôn mặt thằng nhỏ. Vì vậy anh
đã không thấy cả đoàn người ra đi, chỉ nghe thôi, tưởng chừng đến từ nơi nào rất
xa, những tiếng động của dòng người đi lướt qua anh khi lên mặt lộ. Anh
không đưa mắt nhìn lên, ngay cả khi anh nghe tiếng Nguyên Mộc, cách anh hai
bước, nói:

- Nhật là một nước rất lâu đời, ông biết không? Luật
lệ của nó cũng rất lâu đời: luật nói rằng có mười hai trọng tội, qua đó cho
phép kết án tử hình những ai phạm vào. Và một trong mười hai tội đó
là người đầy tớ mang thư tình của nữ chủ nhân trao cho người khác.

Hervé Joncour vẫn không rời mắt khỏi khuôn mặt thằng nhỏ bị
giết.

- Nó có mang bức thư tình nào đâu.

- Chính nó là bức thư tình.

Hervé Joncour cảm thấy vật gì ấn chặt vào gáy mình khiến anh
phải cúi đầu gần sát mặt đất.

- Tên Pháp này, đây là khẩu súng trường. Tôi yêu cầu
ông không được nhìn lên.

Hervé Joncour không hiểu ngay tức khắc. Rồi giữa tiếng
xào xạc của dòng người trên đường trốn chạy, anh nghe âm thanh trong trẻo như
tiếng vàng, thánh thót, từ hàng ngàn quả chuông nhỏ xíu, tiến lại gần anh, lần
lần, và mặc dù trước mắt anh chỉ là mặt đất đen, anh cũng hình dung được chiếc
kiệu, lắc lư, đung đưa như quả lắc đồng hồ, anh hầu như thấy được nó rồi, đang
đi lên mặt lộ, từng bước một, tiến lại gần anh, chậm rãi nhưng da diết, tưởng
như được khiêng bởi những âm thanh này, càng lúc càng to hơn, to không thể chịu
được, càng lúc càng gần hơn, gần như lướt sát bên anh, cái tiếng chuông vàng
bây giờ đã đến trước mặt anh, ngay trước mặt anh, vào cái khoảnh khắc chính xác
này, trước mặt anh.

Hervé Joncour ngửng đầu lên.

Những tấm vải tuyệt đẹp, lụa, bao bọc chiếc kiệu, hàng ngàn
sắc màu, cam, trắng, bạc, màu đất son, nhưng không có chỗ nào mở ra trong cái
tổ lộng lẫy này, chỉ có tiếng rào rạt của những sắc màu gợn sóng trong gió,
không thể nào xâm nhập được, nhẹ hơn hư không.

Hervé Joncour không nghe tiếng nổ kết liễu đời
mình. Anh nghe những tiếng chuông thánh thót xa dần, nòng súng trường rút
khỏi gáy anh, và tiếng nói của Nguyên Mộc, dịu ngọt.

- Hãy rời khỏi đây, anh người Pháp. Và không bao giờ
quay lại nữa.

49

Chẳng còn gì khác ngoài sự im lặng trên đường. Xác
thằng nhỏ trên mặt đất. Một người đàn ông quỳ. Cho tới
những tia sáng cuối cùng trong ngày.

50

Hervé Joncour mất hết mười một ngày mới tới được Hoành
Tân. Anh hối lộ một công chức Nhật mua được mười sáu hộp trứng tằm đến từ
miền nam đảo. Anh gói trứng trong những tấm khăn lụa, bỏ vào trong bốn
thùng tròn bằng gỗ, bít kín và gan xì. Anh xoay sở lên được một chiếc tàu
thuỷ đưa anh về đại lục, và vào những ngày đầu tháng ba anh đến bờ biển
Nga. Anh chọn con đường cực bắc, tìm thời tiết lạnh để ngăn chặn trứng
phát triển bình thường, kéo dài thời gian còn lại trước khi trứng nở. Dầm
mưa dãi tuyết, anh băng qua bốn ngàn cây số vùng Sibérie, vượt rặng núi Oural
và đến Saint - Pétersbourg. Anh mua hàng tạ nước đá với giá vàng ròng, cho
chất vào hầm tàu chung với các thùng gỗ chứa trứng trong một chiếc
tàu thuỷ đi Hambourg. Mất hết sáu ngày mới đến hải cảng đó.Anh lấy xuống
bốn cái thùng tròn bằng gỗ và lên tàu lửa xuôi Nam. Khoảng mười một giờ
đồng hồ sau khi rời ga, vừa ra khỏi ngôi làng tên là Eberfeld, tàu dừng lại lấy
nước. Hervé Joncour nhìn quanh.Một mặt trời mùa hè chói lọi chiếu sáng
trên màu xanh những đồng lúa mì, và trên cả mặt đất. Ngồi trước mặt anh là một
lái buôn người Nga: ông ta đã cởi giày và quạt lấy, quạt để với trang chót của
một tờ báo viết bằng tiếng Đức. Hervé Joncour nhìn kỹ ông. Anh thấy những đốm
mồ hôi trên áo sơ mi và những giọt mồ hôi đọng trên trán và trên cổ
ông. Người Nga vừa nói cái gì đó, vừa cười. Hervé mỉm cười với ông,
đứng dậy, lấy hành lý và xuống tàu.Anh đi ngược lên toa cuối cùng, toa hàng hóa
cho cá và thịt ướp trong nước đá. Nước chảy rỉ như một cái chậu bị bắn
thủng bởi ngàn viên đạn. Anh mở cửa toa, leo vào và lấy xuống
từng cái một bốn thùng tròn bằng gỗ, đem ra ngoài, đặt xuống đất, bên cạnh
đường rầy. Rồi anh đóng cửa toa tàu lại, và chờ. Khi tàu sắp sửa
chuyển bánh, hành khách trên tàu la hét kêu anh gấp rút nhanh chân leo lên
nhưng anh lắc đầu và ra dấu chào từ biệt. Anh nhìn đoàn tàu xa dần rồi
khuất hẳn. Anh chờ cho tới khi chẳng còn nghe một tiếng động nào
nữa. Rồi anh cúi xuống trước một thùng gỗ, cắt xí và mở ra. Chậm rãi,
cẩn thận.

Hàng triệu con sâu tằm. Chết.

Đó là ngày 6 tháng năm 1865.

51

Hervé Joncour vào thị trấn Lavilledieu chín ngày sau
đó.Người vợ Hélène trông thấy từ xa chiếc xe leo len lỏi vào nhiều
bây trước nhà. Nàng tự nhủ không nên khóc và không nên bỏ trốn.

Nàng đi xuống tận cửa ra vào, mở ra và đứng ở ngưỡng cửa.

Khi Hervé Joncour đến gần, nàng mỉm cười. Anh xiết chặt
người nàng trong vòng tay, nói dịu dàng.

- Ở lại với anh, anh mong lắm.

Đêm đó họ thức khuya, ngồi trên bãi cỏ trước nhà, người này
bên cạnh người kia. Hélène kể cho anh nghe về Lavilledieu, về những
tháng đợi ngày chờ vừa qua, nhất là những ngày cuối cùng, khủng khiếp.

- Anh đã chết.

Nàng nói.

- Và chẳng còn cái gì đẹp nữa, trên đời này.

52

Trong các nông trang ở Lavilledieu, người ta nhìn những cây
dâu đầy lá xanh tươi và thấy sự phá sản của họ. Baldabiou tìm mua được một
số trứng nhưng những con sâu tằm chết ngay khi ra ánh sáng. Số lượng tơ sống
rút từ những con sâu tằm sống sót hiếm hoi chỉ vừa đủ cho hai nhà máy dệt làm
việc, hai trên bảy nhà máy trong vùng.

- Cậu có ý nào không? - Baldabiou hỏi.

- Một ý - Hervé Joncour trả lời.

Ngày hôm sau anh loan báo cho mọi người biết là anh có ý
định, vào mùa hè này, bắt đầu cho xây cái công viên xung quanh nhà
anh. Anh thu dụng, đàn ông, đàn bà trong thị trấn, hàng chục
người. Họ đốn cây, đào góc trên ngọn đồi, san một số chỗ cho bớt dốc, làm
cho sườn đồi dẫn xuống thung lũng trở nên thoai thoải.Bằng cây cối và hàng rào,
họ dựng lên những mê cung nhẹ nhàng và thấy sướng. Bằng đủ loài hoa, họ
tạo ra những mảnh vườn hiện ra bất ngờ giữa những lùm cây bulô như những quảng
rừng trông bất ngờ hiện ra khi ta đi trong rừng. Họ bắt nước từ sông lên,
rồi cho nước chảy xuống, từ đài nước này sang đài nước nọ, cho đến ranh giới phía
tây của công viên, ở đó nước làm thành một hồ nhỏ được những đồng cỏ bao
bọc. Về phía nam, giữa những cây chanh và cây ô liu, họ xây một chuồng
chim cao lớn, làm bằng gỗ và sắt, trông như một bức đồ thêu treo trên không.

Họ làm việc suốt bốn tháng. Vào cuối tháng chín, công
viên hoàn thành. Mọi người ở Lavilledieu chưa từng bao giờ thấy một công
viên như thế. Họ đồn rằng Hervé Joncour tiêu hết vốn liếng cho nó. Họ
còn nói thêm là anh từ khi ở Nhật về đã đổi khác, có lẽ bệnh hoạn. Họ nói
anh đã bán trứng cho người Ý và bây giờ có một tài sản bằng vàng cất giữ trong
các ngân hàng ở Paris. Họ cũng nói nếu không có công việc xây dựng
công viên này, tất cả bọn họ đã chết đói vào năm đó. Họ nói anh là một tên
bịp. Họ nói anh là một ông thánh. Một vài người lại nói: anh có cái
gì đó, như một nổi bất hạnh vận vào người.

53

Tất cả những gì Hervé Joncour kể về chuyến đi là số trứng
mua ở Nhật đã nở ra tại một làng quê gần Cologne, và cái làng ấy mang tên
Eberfeld.

Bốn tháng sau và mười ba ngày sau khi về quê nhà, Baldabiou
đến ngồi đối diện với anh, bên bờ hồ, ở ranh giới phía tây của công viên và nói
với anh.

- Dù sao đi nữa, cậu phải nói ra sự thật, với ai đó, sớm hay
muộn.

Ông nói một cách nhẹ nhàng, và phải cố gắng lắm, vì ông
không tin, không bao giờ tin, là sự thật có thể phục vụ hay có ích cho cái gì.

Hervé Joncour đưa mắt nhìn ra công viên.

Mùa thu đã đến mang về một thứ ánh sáng hão huyền
lan tràn mọi chốn.

- Lần đầu tiên tôi thấy Nguyên Mộc, ông ta mặc một tấm áo
sậm màu, ngồi xếp bằng, bất động, trong một góc phòng. Một người đàn bà
nằm dài bên cạnh, đầu tựa lên đùi ông. Đôi mắt nàng không có dáng phương
đông và khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một cô gái trẻ.

Baldabiou nghe trong im lặng, cho tới đoạn cuối, cho tới
chuyến tàu ở Eberfeld.

Ông không suy nghĩ gì cả.

Ông chỉ nghe.

Ông cảm thấy đau nhói khi nghe Hervé Joncour nói dịu dàng,
nhỏ nhẹ để kết luận.

- Tôi chẳng bao giờ nghe được ngay cả giọng nói của nàng.

Và một lát sau.

- Đó là một nỗi đau khổ lạ lùng.

Dịu dàng.

- Chết vì luyến tiếc não nùng một cái gì mà ta chưa bao giờ
sống qua.

Hai người đi ngược lên trong công viên, bên cạnh
nhau. Điều duy nhất Baldabiou thốt ra là:

- Nhưng vì cái quái gì mà trời lạnh dữ dội thế này?

Ông nói thế, vào một lúc sau đó.

54

Vào đầu năm mới - 1866 - Nhật Bản chính thức cho phép xuất
khẩu trứng tằm.

Trong thập niên tiếp theo, nước Pháp nhập vào một số
lượng trứng Nhật lên đến mười triệu quan tiền Pháp.

Bắt đầu từ năm 1869, kênh đảo Suez được mở ra, đi
Nhật chỉ mất không quá hai mươi ngày. Và từ đó trở lại, ít hơn một chút.

Lụa nhân tạo sẽ được cấp bằng sáng chế vào năm 1884 cho một
người Pháp tên là Chardonnet.

55

Sáu tháng sau khi về lại Lavilledieu, Hervé Joncour nhận qua
đường bưu điện một bì thư màu vàng sẫm. Khi mở ra, anh thấy có bảy tờ
giấy dày đặc chữ viết kiểu hình học: mực đen, chữ Nhật. Ngoại trừ tên và địa
chỉ ngoài bì thư, chẳng có gì được viết bằng chữ phương tây. Theo những
con tem, lá thư hình như được gởi từ Ostende.

Hervé Joncour giở ra từng tờ, và xem xét rất lâu. Nó
giống như một quyển sưu tập những dấu chân chim nhỏ bé được sắp đặt từ một niềm
say mê tỉ mỉ. Thật ngạc nhiên khi nghĩ rằng thật ra đó là những dấu hiệu,
là tro tàn của một tiếng nói đã bị ngọn lửa thiêu đốt.

56

Trong nhiều tuần lễ, Hervé Joncour giữ
bức thư trên người anh, gấp làm đôi để trong túi. Khi anh thay quần
áo, anh cẩn thận để bức thư vào túi quần áo mới thay. Không bao giờ anh mở
nó ra để ngắm nhìn. Thỉnh thoảng anh thọc những ngón tay rờ rẫm, vuốt
ve nó trong khi anh nói chuyện với một tá điền hay chở giỏ ăn tới, ngồi trước
hiên nhà. Vào một buổi tối, anh bắt đầu xem xét nó trước ánh sáng ngọn đèn
trong phòng làm việc của anh. Giấy mỏng thấy xuyên qua được, những dấu chân
chim bé xíu lên tiếng với một giọng nghẹn ngào. Chúng nói lên một điều gì tuyệt
đối vô nghĩa, hay là điều gì đủ sức làm đảo lộn một đời người: không thể nào
biết được và Hervé Joncour thấy mình bằng lòng với ý nghĩ này. Anh nghe
bước chân của Hélène. Anh đặt lá thư lên bàn. Nàng lại gần
và cũng như mọi tối muốn hôn anh một cái trước khi về phòng riêng của
mình. Khi nàng cúi người để hôn, chiếc áo khoác về đêm hé lộ nửa chừng
trước ngực nàng. Hervé Joncour thấy rõ nàng không mang gì cả, bên trong,
và đôi vú nàng thì nhỏ và trắng ngần như của một cô gái trẻ.

Trong bốn ngày, anh tiếp tục cuộc sống đều đặn, giữ nguyên
những nề nếp sinh hoạt thận trọng hàng ngày. Buổi sáng ngày thứ năm, anh
mặc bộ đồ lớn màu xám trang nhã và lên đường đi Nimes.Anh nói anh sẽ về
nhà trước khi trời tối.

57

Đường Moscat, ở số 12, mọi sự trông giống như ba năm
trước.Cuộc truy hoan cũng vẫn không chấm dứt. Các chị em ta đều trẻ và đều
là người Pháp. Người nhạc công dương cầm vẫn chơi một cách nhỏ nhẹ những
bản nhạc mang hương vị Nga. Có lẽ vì tuổi già, có lẽ vì nỗi đau tồi tệ nào
đó: mỗi khi chấm dứt một bài, anh ta không còn đưa bàn tay lên mặt
vuốt tóc, và cũng chẳng còn nói thầm thì:

- Thế đấy.

Anh ta lặng lẽ, nhìn xuống đôi bàn tay mình, bối
rối.

Báo cáo nội dung xấu