Khoảng trời mênh mông - Chương 18

CHƯƠNG 18

Tháng Bảy, năm 1918

THỜI BÁO ARLINGTON

Mục Chuyện Nhà Nông

Ngày Quốc Khánh

Xin đừng cho rằng nông dân
không có ban nhạc lộng lẫy, không có công viên, thành phố nên không hăng hái
đón Lễ Quốc khánh được như ở thành phố. Thực tế, bà con nông dân quanh vùng sẽ
tụ về hai bờ suối Wolf Creek để cắm trại, chơi bóng chày, đồng th

ời phàn nàn với nhau về thời
tiết khô đến héo người này. Dù đang chơi đùa vô tư nhưng đến giữa trưa, ai nấy
đều dành giây lát để tôn vinh các quân nhân. Mỗi người, đặc biệt là người viết
bài này, đều cầu nguyện, rằng chiến thắng Cantigny của quân đồng minh mới đây
sẽ mau đưa chiến tranh đến hồi kết.

- Có kem vanilla này. Và có
thi bóng chày nữa.

Chase nói không ngớt suốt năm
phút đồng hồ có lẽ về buổi cắm trại vào ngày Bốn tháng Bảy tới.

- Mới nghe đã thấy hay rồi.

Tôi bơm nước giếng đổ đầy
thêm ấm nước, sau đó kéo lê tới mảnh vườn đang cố chống chọi với cái nóng, cảm
ơn trời cho tôi giếng nước sâu. Giếng này tự tay cậu Chester đào. Sáng ấy, sau
khi xách không biết bao nhiêu ấm nước tưới đậu, hai cánh tay tôi chỉ chực rơi
khỏi khớp xương vai.

Chase đổ đầy ấm nhỏ hơn, cẩn
thận tưới nước vừa đủ cho bụi hướng dương:

- Năm ngoái mẹ em cũng trồng
hướng dương trong hộp đựng cà phê rỗng. Mẹ bảo năm nay, thay vì chăm sóc hoa,
mẹ sẽ chăm sóc em bé.

Hai chị em cùng cười vui.

Dè xẻn nước tưới cho hành, củ
cải đường, dưa ăn trái và cà rốt, tôi nhớ những lúc lãng phí nước vô tội vạ.
Bây giờ không thể như thế được! Mỗi giọt nước đều được tận dụng tối đa. Ngay cả
nước tắm mỗi tối thứ Bảy cũng thành đa tác dụng: Trước hết, nước dùng để tắm.
Nước sau khi tắm sẽ dùng lau sàn nhà. Cuối cùng, tôi dùng nước đã qua hai lần
sử dụng dội rửa vườn hoa nhỏ xíu sát cửa ra vào.

Tôi đứng thẳng, cố vươn dài
cái lưng đau như bị ai đánh:

- Ôi!

Chase nhúng tay ướt rồi vẩy
lên khuôn mặt đỏ bừng:

- Dượng Karl nói đã ba mươi
hai ngày liền không có mưa. Còn ông Nefzger lại bảo ba mốt. Theo em dượng Karl
nói đúng.

Tôi xoa đầu Chase:

- Nếu cá cược, chị sẽ đặt
tiền bên cửa dượng Karl.

Có Chase đỡ một tay, việc vặt
trong nhà vơi đi nhanh chóng. Tuy nhiên, tôi vẫn nhắc Chase về sớm. Đi được một
đoạn, Chase ngoái đầu dặn với:

- Ngày mai chúng em sẽ sang
đón chị.

Tôi hối hả vào trong, và chỉ
loáng cái, bốn cái bánh nhân anh đào đã ở sẵn trên bàn gọi là chờ nguội (nếu nó
có thể nguội được trong cái nóng tai hại này). Tuần trước, tôi đã lôi tấm nệm
ra ngoài cửa lều. Dù cửa lều luôn rộng mở nhưng ban đêm, trong lều không có lấy
chút gió gọi là. Đêm nay, tôi ra ngoài lều ngủ.

Đêm đầu tiên ngủ bên ngoài,
tôi lắng nghe âm thanh từ thiên nhiên thì nhiều, ngủ thì ít. Nằm dài trên đất
đồng cỏ, lắng nghe âm thanh của nó văng vẳng bên tai thật thú vị biết bao. Bọn
gà vừa thôi lục tục, lũ chim ăn đêm đã ríu rít gọi nhau. Sau đó, tiếng lá cỏ
lao xao suốt đêm dài. Giá mà gió tạo nên tiếng lao xao đó. Nhưng bầu không khí
vẫn ngột ngạt, đặc quánh như si rô ngô. Không, chính đồng cỏ sinh ra tiếng động
ấy với sự tiếp tay của chuột đồng, chó hoang và có trời biết còn thêm thứ gì
nữa. Cách đây không lâu, chị Perilee còn thấy cả chồn hôi. Tuy nhiên, không sợ
con sói từng tấn công Violet sẽ xuất nữa. Từ cái ngày đông giá ấy đến nay,
không ai thấy bóng dáng nó đâu cả. Không còn nghi ngờ gì nữa, thợ săn đã kết
liễu đời nó, cũng như họ đã từng tiêu diệt gần hết chó sói trong vùng.

Sau một ngày thiếu ngủ, nóng
nực, và còng lưng nhổ cỏ từ sáng tới tối, tôi lôi thảm ra ngoài ngủ đêm thứ
hai. Giấc ngủ vồ lấy tôi nhanh như con diều hâu vồ chuột đồng tôi nhìn thấy lúc
ban ngày. Dù nệm không được êm ái vì trải trên nền đất lổn nhổn, nhưng cũng còn
hơn ngủ trong nhà nóng như lò thiêu.

Sáng ngày Quốc khánh, “Ngài”
Whiskers đánh thức tôi bằng cách liếm cái lưỡi nhám xì vào chân tôi nghe nhồn
nhột. Tôi âu yếm vỗ về nó rồi vươn vai cho tỉnh ngủ.

- Ối!

Sau mỗi đêm ngủ ngoài trời,
đến sáng tôi không đau lưng cũng đau cổ. Tôi lom khom cái lưng cứng đờ, cố cúi
xuống gấp thảm, mang vào trong và tự lên chương trình cho Lễ Quốc khánh bên
suối Wolf Creek. Ngoài bánh, chăn sạch và chiếc quạt giấy còn từ bữa diễu hành,
tôi còn một thứ thể nào cũng khiến bà con phải ngạc nhiên.

Sửa soạn xong, tôi viết vài
dòng nối dài thêm thư gửi Charlie: “Lúc đầu cô Leafie và em lo cho Lottie nhiều
bởi khi mới sinh, cháu quá nhỏ. Nhưng bây giờ, con bé chắc nịch như hộp mỡ lợn
vậy. Lúc trước em hơi lo, không biết mấy anh chị của bé có chành chọe gì với nó
chăng, nhưng thật mừng vì chúng đều yêu thương em út nhất mực. Mattie nhiệt
tình chăm sóc em đến nỗi Lottie gần ngạt thở. Con bé còn bảo em thích chăn ghép
nên nó phải may chăn cho em, một tấm chăn chị gái tự tay làm lấy. Thế nên em
đang giúp Mattie đấy. Đường kim mũi chỉ không đều nhưng chan chứa tình yêu
thương, anh ạ”.

Tiếng chuông ngựa kêu leng
keng vẳng tới buộc tôi phải tạm cất thư đi, vơ lấy mũ và nhìn quanh nhà lần
cuối. Nếu giờ còn chưa nhớ ra mình quên thứ gì thì đành cho quên luôn vậy. Tôi
xách giỏ bánh kẹo, bước ra ngoài gặp gia đình Mueller. Chị Perilee bảo:

- Sửa soạn gì mà lâu thế?

Tôi mỉm cười vì thấy hai má
chị đã hồng trở lại. Sau khi sanh Lottie, sức khỏe chị hồi phục rất chậm. Vừa
leo lên thùng xe, tôi đã lấy quạt ra phẩy mạnh:

- Chắc em thành con ngỗng
quay mất. Liệu mình có được hưởng gió mát nữa không đây?

- Ngoài sướng hơn đấy. Dễ
chịu, mát mẻ lắm.

Suốt dọc đường, mọi người đi
trong im lặng. Trời nóng đến độ chẳng ai còn tâm trạng trò chuyện.

- Chào cả nhà!

Đen nơi bờ suối, Jim Gà Trống
giúp một tay đỡ bọn trẻ từ xe xuống. Mattie chạy thẳng đến chỗ cô Leafie khoe
chiếc mũ mới của Mulie. Chase giúp anh Karl buộc ngựa rồi theo Elmer con cùng
mấy cậu bé thuộc giáo xứ Luti ra suối câu cá.

Cô Leafle vẫy chúng tôi:

- Giữ chỗ cho mọi người dưới
bóng râm rồi đây.

Chúng tôi trải chăn, dọn chỗ
cho hộp gỗ đựng táo làm giường của Lottie. Tôi pha trà đường rồi cùng cả nhà
tiếp chuyện mấy bà mấy cô cùng giáo xứ. Tôi hỏi:

- Mọi người đông đủ chưa ạ?

Cô Leafie lăn ly nước mát
ngang trán:

- Đến trưa, nhà Nefzger đóng
cửa tiệm rồi mới ra. Họ chưa bao giờ lỡ trận bóng chày nào, nhất là thằng Bub.

Tôi đưa ly trà mát lạnh lên
môi, thầm cười nụ. Cứ chờ xem: Arlington, Iowa sắp trình làng tuyệt chiêu đây.
Cô Leafie bấm đốt ngón tay tính tiếp:

- Grace và Wayne thể nào cũng
đến. Còn nhà Martin hiếm khi thấy mặt.

Thế tiện cho tôi biết chừng
nào. Đúng như cô Leafie dự đoán, đầu giờ chiều, gia đình Nefzger có mặt đông
đủ. Xe vừa trờ tới, Bub đã hô lớn:

- Sẵn sàng đấu chưa?

Dù có vài tiếng cằn nhằn kêu
nắng, chỉ lát sau mọi người đã tụ tập ở khoảng đồng trống, tự chia làm hai đội.
Lâu lắm rồi tôi mới đến sân bóng chày. Vùng này chưa ai biết tôi biết chơi bóng
chày. Thạo là đằng khác, nhờ ông thầy kiên nhẫn Charlie.

Tôi lục giỏ lấy một thứ khiến
mọi người ngỡ ngàng:

- Có ai biết chơi không ạ?

Vừa nói, tôi vừa xỏ găng vào
tay phải. Gust Trishalt phẩy t:

- Cái gì thế nhỉ?

Lúc nãy anh ta cằn nhằn
chuyện giáo dàn xứ đạo Luti cũng tham gia chơi bóng. Khi Wayne bảo tên Trishalt
nghe giống tên Đức, Gust lắc đầu:

- Thụy Sĩ, Thụy Sĩ chứ.

Đoán anh ta căng thẳng vì
trận đấu thì nhiều, vì nhóm tín đồ dòng Luti thì ít, tôi bảo:

- Một cầu thủ quyết tâm đây.

Nghe vậy, Gust huýt sáo, xỉa
ngón tay cái về phía Paul Schillinger:

- Biết thế cô nên chơi cho
cẩn thận. Cô ở đội bên kia.

Tôi gật đầu, sang với đội
Paul. Đội tôi giao bóng trước. Giành bóng không phải sở trường của tôi, nhưng
tôi biết hậu thuẫn tốt cho Paul trong cú đánh ghi điểm. Henry Henshaw đánh bóng
trúng Paul với một lực khá mạnh. Sau đó Chase chạy lên phát bóng bằng vợt. Tôi
hét lên:

- Chặn bóng đi!

Dưới cái nóng kinh người, tôi
vẫn tin chắc mình chặn bóng tốt và đưa bóng về đích. Nhưng con trai vẫn chỉ là
con trai, không hơn. Sau hai cú vụt bóng ra ngoài, Chase vụt bóng bâng quơ ba
lần liên tiếp. Cha Tweed bảo:

- Cậu này ra sân!

Chase chán nản buông gậy.

- Em suýt đánh trúng còn gì.

Cha Tweed vỗ vai nó:

- Chúc may mắn lần sau. Giờ
vào sân với đội của cháu đi.

Chase tìm chỗ trong phần sân
bên trái. Đội tôi cử hết thanh niên trai tráng vào sân, đoán rằng họ có đủ sức
chạy theo bóng đến từ mọi hướng. Paul nhặt bóng, bước tới ụ đất dành cho người
phát bóng. Người đối mặt với anh là Wayne Robbins. Paul huênh hoang:

- Thử xem cậu có đón được
trái này không?

Mắt Wayne rất tinh. Anh đón
bóng thật khéo. Năm người vụt bóng kế tiếp đều thành công. Từ góc gôn thứ ba,
tôi gọi to:

Paul, lại đây!

Paul không hiểu nhưng vẫn đến
gần xem tôi định nói gì. Tôi ước có máy chụp ảnh ghi lại cái mặt nhăn như bị
của Paul lúc tôi đề nghị đổi vị trí cho anh.

- Nhưng trước giờ tôi vẫn ném
bóng mà.

Tôi chỉ vào góc gôn:

- Giỏi cỡ đó ư?

Anh lắc đầu nhưng vẫn đưa
bóng cho tôi. Mừng rỡ, tôi chạy vội đến ụ phát bóng. Gust kêu to:

- Chờ một phút đã.

Cô Leafie hò la:

- Hattie, hạ chúng đi.

Cha Tweed vuốt mặt:

- Ném!

Charlie hẳn sẽ vui nếu thấy
tận mắt tôi chuẩn bị ném bóng trong trận kịch tính như thế này. Tổng cộng là
sáu lần ném tất cả. Wayne bước lên chuẩn bị vụt bóng:

- Cho tôi xem tài cán cô đến
đâu nào.

Con gái không mấy khi khoác
lác, nhưng huênh hoang là phần khá thú vị của bóng chày. Thế nên, tôi cao
giọng:

- Bóng bay nhanh lắm đấy,
chắc gì anh đã nhìn thấy.

Wayne ra vẻ ta đây:

- Thì cũng nhanh như con gái
ném bóng là cùng chứ gì.

Được lắm! Vậy hãy chuẩn bị
đón đường bóng ngoằn ngoèo như rắn lượn nhé.

Tôi vung tay ném. Quả bóng
xoáy vào vị trí phát bóng. Wayne đập xuống một cú thật xuất sắc. Bóng bay qua
đầu tôi, vút vào giữa sân. Trận đấu kết thúc còn đội tôi thua đậm. Tôi trả bóng
cho đội trưởng:

- Tôi rất tiếc.

Anh nháy mắt:

- Vui là chính. Lần sau, tôi
cá cô sẽ mặt được hắn.

- Vâng, để lần sau.

Ông Schillinger nói lớn:

- Kem sẵn sàng rồi đây.

Tôi háo hức nhưng ỉu xìu khi
thấy lớp kem mỏng phết trên mẩu bánh nhân đào tôi mang đến. Mọi người vừa trò
chuyện vừa ăn vui vẻ. Lát sau, chị Perilee và tôi xuống suối, tháo bỏ giày tất
lội nước cho mát. Sau khi hái đầy hai giỏ mận từ cây ngoài bờ suối, hai chị em
tôi quây quần với mọi người, tiếp tục trò chuyện rôm rả. ông Schillinger là
người đầu tiên sửa soạn ra về:

- Tối còn bận việc nhà.

Ông phân trần. Chị Perilee
bảo:

- Nhà mình cũng nên về thôi.

Tôi giúp chị dọn dẹp đồ đạc,
dắt bọn trẻ mệt mỏi, quần áo lấm lem ra xe. Lúc mẹ bế Mattie lên sau xe, nó kêu
ré lên.

- Con muốn ngồi với chị
Hattie cơ.

- Được ngay thôi, cưng.

Tôi đỡ cô bé từ tay mẹ. Chỉ
sau vài phút ngồi cùng tôi, Mattie đã thở đều. Xem chừng bé đã ngủ rất say.
Thân hình bé nhỏ của nó như chai nước nóng vắt ngang đùi tôi. Vạt váy trước của
tôi ướt đẫm mồ hôi.

Khi đến gần lối mòn vào nhà
tôi, tôi chuyển Mattie sang đùi mẹ nó, rồi gọi anh Karl:

- Cho em xuống đây. Đi bộ cho
mát, anh ạ.

Tôi hôn trán Mattie, với tay
lấy giỏ phía sau xe rồi đi bộ nốt quãng đường còn lại. Lúc căn lều lọt vào tầm
mắt cũng là lúc váy tôi sắp khô. Tôi ngồi ngay ngưỡng cửa, hít hà mùi mận dại
bay ra từ giỏ đồ ăn nằm gọn trong lòng. Trước tiên, tôi ôn lại những kỷ niệm
vui trong ngày, sau đó tìm cách kết thúc bài viết cho mục Chuyện Nhà Nông tuần
này.

Tiếng nhạc ngựa đến gần làm
tôi tỉnh giấc mộng. Cao bồi thường đuổi bò lạc từ trại nuôi gia súc Tipped M
qua lối nhà tôi. Hôm nay, có ba người cưỡi ngựa đang định phóng về phía Đông,
phía nhà Martin. Chợt một người tách khỏi nhóm. Anh ta quay đầu ngựa, một con
ngựa to lạ thường, phóng về phía tôi.

- Chào Hattie. Đi chơi vui

Từ chỗ tôi ngồi cũng còn ngửi
thấy mùi whisky.

- Vui chứ, anh Martin.

Tôi đứng lên định vào nhà.
Hôm nay không ngủ bên ngoài được nữa rồi. Traft hất đầu dây cương đuổi con muỗi
đang vo ve:

- Nóng quá nhỉ? Còn nóng hơn
cả năm ngoái.

- Vâng, nóng thật.

Chắc chắn anh ta đến không
chỉ để bàn chuyện thời tiết. Traft nhấp nhổm trên yên ngựa:

- Nóng quá đi chứ. À mà năm
ngoái còn có dịch châu chấu nữa cơ. Một phút trước, trời còn trong xanh như
nước suối Wolf Creek. (Traft ngưng nói, nghển cổ nhìn trời) Vậy mà ngay sau đó
đã tối đen như mực, dày đặc châu chấu.

Tôi rùng mình. Traft lắc đầu,
tỏ vẻ thông cảm quá mức cần thiết:

- Lúa nhà Gorley biến mất trong
vài phút. Nhà Robbins cũng thế. Kế đến là lanh. Bán hết nông sản cứu vãn được
cũng không đủ trả tiền mua hạt giống. (Anh ta cười gằn). Tất nhiên, bọn châu
chấu không chỉ ăn cây cối. Hôm đó, tôi quên chiếc áo khoác bằng vải tốt ngoài
hàng rào. Cứ tưởng châu chấu không nhai thủng áo, ai dè...

- Anh Martin, cớ sao anh mang
chuyện ấy kể với tôi?

Tất nhiên, anh ta phải có mục
đích. Cảm giác lành lạnh bò dọc sống lưng tôi cho biết đó không phải ý đồ tốt
đẹp gì. Traft xuống ngựa:

- Định gây ấn tượng với cô
thôi mà.

Những âm thanh của đồng cỏ về
đêm văng vẳng trong không trung. Tôi căng tai cố nghe xem trong đó có tiếng
châu chấu búng cẳng đập cánh chăng.

- Vâng, quả ấn tượng thật.

Anh ta tiến về phía tôi,
giọng dịu lại:

- Cuộc sống ở đây vất vả lắm.

Tôi bật cười:

- Đừng dọa tôi nữ

- Hattie này. (Anh ta ngập
ngừng). Tôi lấy làm tiếc vì quan hệ chúng ta đã lủng củng ngay từ đầu.

Cảm giác nhẹ nhàng vụt tắt
ngấm:

- Lủng củng ư? Đốt kho nhà
người ta là do quan hệ lủng củng ư? Lại còn cầm đầu đám lâu la trấn áp ông Ebgard
nữa chứ.

Trong cơn giận dữ, tôi vỗ
mạnh tay vào đường may hai bên váy. Traft bước dấn lên, thộp mạnh cánh tay tôi.
Mận trong giỏ rơi tung tóe:

- Tôi muốn cô nghe tôi nói
đây. Tôi muốn nói cho xong chuyện này. Và chỉ nói một lần thôi đấy.

Cho đến giờ, tôi đá quen với
thói hay bắt nạt của Traft. Hai chân tôi không hề run rẩy. Tôi trừng mắt nhìn
bàn tay anh ta khiến Traft buộc phải buông tay tôi.

- Tôi không phóng hỏa nhà
Karl. Khi tôi biết tin thì đã quá muộn nên không thể khiến họ dừng tay. Mà này,
chớ có hỏi tôi thủ phạm là ai. (Traft giơ hai tay lên trời như đầu hàng). Nhưng
tôi đã kịp kéo cỏ khô đang cháy ra xa kho của cô trước khi kho cháy rụi như bên
nhà Karl.

- Cái gì?

Anh ta định cứu kho tôi,
không phải châm lửa đốt nó?

- Còn chuyện ông Ebgard. Phải
thú thật là tôi quá tay. (Traft lắc đầu, lẩm bẩm chửi thề). Nhưng luật quy định
ta phải đóng góp cho đất nước, cho chiến tranh. Với người như ông Ebgard, lẩn
tránh trách nhiệm, không làm tròn bổn phận...

Tôi vặc lại:

- Anh to gan thật đấy. Lẩn
tránh bổn phận ư? Anh giữ mình không xây xước mảy may trong lúc những người như
Elmer và... và... (Tôi chưa từng kể về Charlie với người này) vô số người khác
đang chiến đấu trên sa trường.

Traft giật nảy người như thể
tôi vừa quất mạnh roi vào anh ta:

- Cô nói đúng. Ai cũng nghĩ
về tôi thế mà. Họ bảo tôi lẩn tránh trách nhiệm chính. (Traft xoa trán). Sự
thật thì trái lại, tôi đâu cần chờ bị bắt quân dịch. Tôi xung phong ngay từ
những ngày đầu.

- Thế sao giờ anh còn ở đây?

- Đó cũng là thắc mắc khiến
tôi moi óc tìm câu trả lời có dễng chục lần (Traft cúi xuống nhặt quả mận dại
rơi từ giỏ tôi khi nãy). Mãi sau này, tôi mới phát hiện ra. Mẹ tôi nhỏ to với
ngài Thống đốc để ông ấy chỉ định tôi vào Hội đồng Tự vệ. Ban quân dịch bảo làm
ở đó sẽ được miễn nghĩa vụ quân sự.

Traft mân mê trái mận trước
khi vung tay ném nó vào bầu trời đen kịt. Cảm xúc biểu lộ trên mặt Traft bây
giờ quá quen thuộc với tôi. Khi sống với mợ Ivy, tôi đã thấy nó trên chính mặt
mình không biết bao nhiêu lần. Nó như một miếng vải cuối cùng gắn vào tấm chăn
ghép quái dị. Anh ta đang giận dữ. Tất nhiên, Traft giận bà mẹ. Nhưng rõ ràng
anh ta còn giận chính mình vì đã để người khác chi phối cuộc đời mình. Một ý
nghĩa hiện rõ trong tôi, một ý nghĩ đầy cảm thông. Trước khi đến Montana này,
tôi cũng không được tự làm chủ đời mình.

Giờ tôi muốn giận cũng không
được. Trong khoảnh khắc đó, tôi tha thứ cho Traft mọi hành động xấu xa mà từ
trước đến nay anh đã làm và cả những cay đắng đã xui khiến anh ta nhúng tay
vào. Người ta thường nói: “Đã thương thì thương cho trót”.

- Tôi rất lấy làm tiếc vì anh
phải chịu nhiều rắc rối đến vậy.

Nói đến đây, tôi những tưởng
vì nghĩa cử cao đẹp đó, sao trên trời sẽ sà xuống đậu trên cái vương miện tưởng
tượng của tôi. Traft quay ngoắt lại:

- Đấy nhé, giờ thì cô đã hiểu
tại sao tôi cần đất của cô.

Cái vương miện lệch hẳn, chực
rơi xuống đất:

- Gì cơ? Không! Ý tôi là tôi
rất thông cảm khi biết anh gặp phải nhiều chuyện không như ý. Nhưng như thế
không có nghĩa...

Traft nhìn xoáy vào mắt tôi:

- Có phải tại anh chàng cô
vẫn gửi thư đó không? Cô nhọc công giữ đất này vì anh ta chứ gì?

Chủ đề cuộc nói chuyện này cứ
đi vòng vo, zic zắc hệt như đường viền chữ chi trên áo đầm của Mattie:

- Anh Traft, tôi rất biết ơn
anh đã cứu kho hộ tôi. Cảm ơn anh định cứu cả kho anh Karl nữa. Nhưng chuyện
hôm nay, ta nên dừng ở đây thôi.

Trời đã tối hẳn. Tôi không
nhìn rõ nét mặt Traft. Nhưng cơn giận dữ bị kiềm chế này giờ đang theo giọng
nói ùa cả ra ngoài.

- Cô nhất định không bán?

Không hiểu vì đâu, ngay trong
thời khắc đó, tiếng mợ Ivy vẳng đến tai tôi: “Trước khi nhận lời, con nhà gia
giáo phải từ chối ít nhất hai lần”. Mợ từng dặn tôi như thế. Tất nhiên, mợ nói
tới chuyện cầu hôn. Nhưng trong chuyện này, tôi nhất quyết làm theo lời mợ. Tôi
từ chối lời đề nghị mua đất lần thứ hai:

- Không. Anh Traft, chúc ngủ
ngon.

Tôi đứng dậy, dẫm lên mấy bậc
tam cấp gỗ kêu kẽo kẹt với lòng tự hào khôn tả. Khi đến ngưỡng cửa, tôi quay
lại nhưng Traft đã trèo lên lưng con Rắc Rối, quay đầu con ngựa to lớn ra
ngoài. Tiếng vó ngựa nện xuống sân nhà tôi nghe như tiếng sấm rền.

Đêm đó, không chỉ có loạt sấm
ấy. Bầu trời đêm đã chịu mở lòng cho mưa. Cơn mưa huy hoàng tưới tắm cho cánh
đồng cỏ nứt nẻ, bụi mù.

Lắng nghe tiếng mưa lộp độp
trên mái nhà, tôi ngồi bên bàn viết nốt đoạn kết cho bài viết đăng trên mục
Chuyện Nhà Nông:

“Tổng thống Abraham Lincoln
là thần tượng của cậu tôi. Chắc chắn ông là biểu tượng cao nhất của tính tự
lập. Tôi thích nhất một giai thoại về Lincoln, trong đó có nói sau khi đắc cử,
ông đã chỉ định vài đối thủ đáng gờm nhất của mình vào nội các. Noi gương ông,
ta hãy trân trọng một khía cạnh của tự do: Hãy bao dung với kẻ thù như bao dung
với chính ta vậy”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1918

Một nơi trên đất Pháp

Hattie mến,

Hồi này anh hay nhớ về em.
Nhớ cách em làm anh phải bật cười, nhớ em thuờng huơ tay tít mù như cối xay gió
trước khi ném bóng chày, nhớ em hay thổi bay mấy lọn tóc xòa xuống trán. Em ạ,
những kỷ niệm êm đềm như thế là vốn quý của một con người.

Khi đến đây, anh tưởng mình
sẽ thắng trận và nhanh chóng về nhà. Nhưng giờ anh lại nghĩ chắc mình chẳng bao
giờ thoát khỏi vũng lầy này, mùa đông này và cuộc sống khổ sở trăm đường nơi
đây.

Anh biết em luôn mong thư anh
phải hài hước, dí dỏm nhưng thân nhất của anh vừa hy sinh sáng nay. Còn anh ở
cách đó chưa đầy hai mươi bước. Trong suốt kỳ huấn luyện, chẳng ai kể cho tụi
anh hay mùi của chết chóc kinh khủng đến thế nào.

Lần đầu tiên, anh không còn
quá tin tưởng vào một ngày sẽ được về cố hương. Anh không còn tin chắc vào bất
cứ thứ gì nữa. Trước anh hay khoác lác rằng sẽ có ngày anh lấy mạng vài tên
lính Đức. Nhưng chết chóc chẳng phải thứ đáng tự hào, khiến người ta ưỡn ngực
huênh hoang. Thật đấy!

Bạn em,

Charlie

Báo cáo nội dung xấu