Khoảng trời mênh mông - Chương 01 - 02

CHƯƠNG 1

Arlington, Iowa

Ngày 19 tháng Mười hai năm
1917

Charlie thân mến!

Mỗi ngày, cô Simpson đều nhắc
chúng em cầu nguyện cho anh và mọi quân nhân khác. Nhưng theo em, ta nên cầu
nguyện cho vua Đức tội nghiệp: Ông ta sẽ phải khấn trời rủ lòng thương ngay khi
giáp mặt anh!

Hôm nay, em tình cờ gặp mẹ
anh ở tiệm cậu Holt. Bà kể qua loa rằng, anh sẽ sớm đến Anh quốc, rồi từ đó
sang Pháp. Từ lúc đó, em không đủ can đảm nhìn bản đồ phía sau cô Simpson vì nó
bắt em nhớ giờ anh và Arlington
đã nghìn trùng xa cách!

“Ngài” Whiskers muốn nhắn anh
rằng “ngài” vẫn mạnh! Mấy hôm nay trời lạnh cóng nên em cho nó ngủ trên giường
em. Khi biết chuyện, mợ Ivy nổi cơn tam bành. Ơn trời, vì mợ bảo em lớn rồi,
đánh mãi sẽ lì đòn.

Nếu không, chắc bây giờ em
chẳng còn chân mà đi.

Anh không biết chứ mợ Ivy bây
giờ khác lắm. Mợ tự may mũ màu trắngcó đắp dấu thập đỏ chói bằng vải ở vành. Mợ
đội mũ ấy mỗi khi dự họp ở Hội Chữ Thập Đỏ. Chắc mợ muốn mọi người phải biết
mình có góp tiền cho Hội này. Hồi này, mợ cư xử lạ lắm, thậm chí sáng nay còn
hỏi em thấy trong người thế nào. Lần đầu tiên trong nhiều năm ròng, mợ hỏi em
khỏe hay yếu. Lạ thật. Chắc nhờ tham gia Hội Chữ Thập Đỏ nên mợ dịu hiền hơn.

Chị Mildred Powell đang đan
đôi vớ thứ năm. Đừng vội mừng vì anh không được hưởng trọn cả năm đâu. Chị ấy
đan cho Hội Chữ Thập Đỏ đấy. Hồi này, nữ sinh chúng em ai nấy đều bận rộn đan
lát cho Hội. Tuy nhiên, em nghĩ rằng đôi đẹp nhất của chị là dành cho anh.

Chắc anh phải cố gắng lắm mới
ních được vào bộ quân phục nhỉ! Đúng là con lật đật (Hì hì). Đùa tí thôi chứ
thật lòng em biết chắc anh sẽ khiến người thân và bạn bè được thơm lây.

Mợ Ivy vừa đi họp về, đang gọi
em đấy. Em phải dừng bút thôi, nhưng sẽ sớm viết thư sau gửi anh.

Bạn cùng trường

Hattie Inez Brooks

Thấm mực xong, tôi nhẹ tay
đẩy bức thư vào phong bì. Mợ Ivy sẽ không chần chừ đọc bất kì thứ gì lọt vào
mắt bà, dù thứ đó trong phòng tôi, trên bàn riêng của tôi.

Mợ gọi lảnh lót:

- Hattie đâu? Xuống đây ngay.

An toàn vì ở khuất tầm mắt
mợ, tôi giúi lá thư vào dưới cái gối vẫn còn hơi ẩm từ trận khóc thầm như mưa
như gió đêm qua. Từ khi Charlie nhập ngũ, gặp ai Mildred Powell cũng khóc rưng
rức. Tôi không giống chị: Chỉ có “Ngài” Whiskers và cái gối biết khi đêm về tôi
thường lặng lẽ khóc thầm vì nhớ Charlie. Tất nhiên, tôi rất lo cho sự an nguy
của anh, nhưng nói thực trò mít ướt lúc nửa đêm ấy chỉ đơn thuần xuất phát từ
nỗi nhớ Charlie. Biết là ích kỉ và yếu đuối, nhưng không hiểu sao tôi không thể
cầm lòng được.

Từ nhỏ tới khi mười sáu tuổi,
tôi chưa từng gặp ai tuyệt vời như Charlie Hawley. Anh là một trong những món
quà quí giá nhất cuộc đời dành tặng tôi. Thời gian đầu dọn đến ở với cậu Holt
và mợ Ivy, tôi bẽn lẽn đến độ nói tên mình còn không rõ. Anh luôn bênh vực tôi.
Ngày đầu tiên đi học, anh dẫn tôi vào trường và cả những ngày sau cũng thế.
Cũng chính anh cho tôi “Ngài” Whiskers, con mèo có vẻ mặt buồn xo tìm đường đến
thẳng trái tim tôi bằng tiếng kêu nũng nịu. Charlie còn dạy tôi ném bóng chày,
dù tôi thuận tay trái. Nhiều đêm, tôi khờ khạo mộng tưởng về anh, nhắm mắt bưng
tai trước sự thật: Ai cũng biết anh chỉ yêu mình Mildred. Vốn phải ăn nhờ ở đậu
nhiều nơi từ khi còn tấm bé, tôi biết mơ mộng nhiều chỉ rước họa vào thân. Mơ
có bao giờ là thực. Không tin cứ thử vươn tay về phía chúng mà xem: Giấc mơ sẽ
giống lâu đài xây bằng những đám mây nhẹ xốp.

Ngày Charlie ra trận, cả lớp
tiễn anh ngoài sân ga. Mildred bám chặt tay anh không rời. Chắc lưng anh tím
bầm từng mảng vì thỉnh thoảng cha anh vẫn có thói quen vỗ mạnh vào lưng con
trai. Sau khi đọc tràng diễn văn buồn tẻ, cô Simpson thay mặt trường tặng anh
gói quà nhỏ: Một chiếc mũ len và giấy bút viết thư. Người soát vé giục giã:

- Tàu sắp chạy rồi cháu.

Khi Charlie bước lên mấy bậc
thang bằng sắt để vào hẳn toa tàu, tim tôi như chùng xuống. Tôi bắt mình kiềm
chế, không khóc lóc than thở như Mildred. Nhưng rồi, tôi cũng chạy lại gần và
giúi vào tay anh một thứ:

- Để cầu may!

Charlie liếc nhìn, mỉm cười,
vẫy chào lần cuối trước khi bóng anh khuất dần vào trong khoang tàu. Mildred
gục đầu vào vai bà Hawley, thổn thức:

- Ôi, Charlie!

Bà mẹ Charlie vỗ về:

- Thôi nào, nín đi cháu!

Ông Hawley rút khăn tay in
hoa, điệu đà lau mồ hôi trán, khác hẳn tác phong ngày thường. Tôi vờ như không
thấy ông chấm nhẹ khăn nơi khóe mắt.

Sau khi tàu chuyển bánh, mọi
người chầm chậm ra bãi xe ngoài ga. Tôi còn nấn ná ở lại, mắt dõi theo đoàn
tàu, hình ddung Charlie vỗ nhẹ túi quần, nơi có viên đá “cầu được ước thấy” do
tôi tặng. Cũng chính anh dạy tôi chọn đá ước:

- Em nhớ chọn viên đá màu
đen, có vòng tròn trắng ở giữa nhé. Vừa ném đá qua vai trái vừa thầm ước, chắc
chắn sẽ linh nghiệm.

Anh thờ ơ ném đá ước nhiều
lần, còn cười nhạo vì tôi không hề thử. Mơ ước của tôi không thuộc loại chỉ cần
ném vài hòn đá là có ngay.

Hai tháng trôi qua, kể từ khi
buổi tiễn Charlie. Vắng anh, cuộc sống chẳng khác nào một mẻ bột bánh bích qui
không bột nở: xẹp lép, nặng trịch.

Giọng mợ Ivy chuyển sang đe
nẹt:

- Hattie đâu rồi?

- Cháu đây, thưa mợ!

Tôi hối hả xuống cầu thang.
Trông mợ như quan tòa trong chiếc ghế tựa bọc da nâu. Gần đó, cậu Holt thoải
mái lọt thỏm trong ghế xích đu với đống báo chất trên đùi.

Tôi lẻn ra thềm cầm món đồ
đang đan dở lên: Một chiếc tất trông thiên thảm địa sầu. Mũi đan đầu tiên bắt
đầu từ tháng mười, khi Charlie mới nhập ngũ. Nếu chiến tranh kéo dài năm năm
nữa, họa may chiếc tất của tôi hoàn thành đúng ngày đình chiến. Tôi cầm đôi que
đan, hé mắt nhìn qua lỗ thủng do bị tụt mũi. Bạn thân như Charlie cũng chưa chắc
muốn xỏ chân vào tất này.

Mợ Ivy gỡ mũ có đính chữ thập
đỏ xuống:

- Hôm nay, mợ vừa nói chuyện
với bà Iantha Wells, vui quá thể. Ông Holt này, ông còn nhớ Iantha không?

- Hừm.

Cậu Holt vừa ừ hử vừa giở báo
ra đọc.

- Hattie à, mợ có khen cháu
với bà ấy, ở với mợ, cháu rất biết việc.

Tôi làm tuột thêm một mũi
đan. Thực tế, gần như ngày nào, mợ cũng ca thán bảo lỗi nữ công gia chánh của
tôi kể mãi cũng không hết.

- Mà này, mợ đây chẳng cần
học hành đến nơi đến chốn. Con gái học làm gì cho lắm.

Cậu Holt hạ góc tờ báo xuống.
Còn tôi tuột một mũi đan nữa. Có chuyện rồi đây.

- Chữ nghĩa không giúp gì
được đâu cháu ạ. Nhất là khi chỗ thân tình như bà Iantha đang cần giúp một tay
ở nhà trọ.

Ra thế. Mọi chuyện đã năm rõ
mười. Giờ tôi hiểu tại sao hồi này mợ tốt với tôi đến như thế. Hóa ra, mợ đang
tìm cách tống khứ tôi.

Mợ Ivy vuốt vuốt chiếc váy
đang mặc:

- Thượng Đế luôn hành sự theo
cách bí ẩn. Iantha đề nghị hào phóng thế thì gì bằng.

Dù bụng dạ chộn rộn ngay khi
mợ mở lời, tôi biết mình chưa nên nói gì vội. Ít nhất là lúc này. Cậu Holt nhồi
nhúm thuốc lá hiệu Prince Albert
vào tẩu:

- Bà này, mấy tháng nữa là
hết năm học rồi. Cậu châm thuốc trước khi nói tiếp:

- Tôi thấy thì nên để Hattie
học hết năm nay.

Đây không phải lần đầu cậu
Holt bênh tôi. Ngay tối nay tôi sẽ đánh giày cho cậu để tỏ lòng biết ơn. Mợ tôi
nói trơn tru, như thể cậu chưa hề lên tiếng:

- Ông và tôi từng bàn Hattie
sẽ đến nơi nào có người cần nó. Vừa hay nhà Iantha đang cần nó kìa.

Còn ở đây người ta không cần.
Tôi thầm nối lời.

Cậu Holt đưa mắt nhìn tôi qua
vòng khói thuốc xoáy trôn ốc ngát hương anh đào:

- Cháu muốn học đến hết năm
nay không?

Tôi buông kim đan xuống, cân
nhắc câu trả lời. Vì ham đọc sách nên chuyện học hành với tôi không khó. Đặc
biệt là khi không bị phân tâm bởi Charlie. Nhưng so với công việc nhà Iantha
Wells thì…

Mợ Ivy cấm cảu, quắc mắt nhìn
tôi:

- Nó biết quá đi chứ. Vợ
chồng mình phải chú trọng tu dưỡng tâm hồn Hattie. Giúp Iantha nuôi dưỡng lòng
từ tâm của trẻ con. Nhất là lòng từ tâm, với lại…

Tới đây, mợ ấp úng như gà mắc
tóc, như thể ngay cả mợ cũng không tin làm việc trong nhà trọ có thể trau dồi
kiến thức cho ai:

- Và nhiều kĩ năng phụ nữ cần
biết. Cơ hội đích thực cho con gái chuyên cần đấy.

Hai vết đỏ rần lan trên má
mợ. Rõ là mợ đang cáu. Lý do cũng rõ ràng không kém. Mợ tự ái vì cậu Holt hỏi ý
kiến tôi, nhất là hỏi tôi quyết định tương lai mình ra sao. Với mợ, tôi chỉ là
Hattie cù bơ cù bất, không có quyền có quan điểm riêng!

Chưa kịp thay răng sữa, tôi
đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Câu chuyện về cha tôi không khác gì những câu chuyện
của các gia đình thợ mỏ: bụi than ăn rỗng phổi cha. Khi ông qua đời, tôi khoảng
hai, ba tuổi. Lúc tôi lên năm, mẹ cũng theo cha mà đi. Khi đó, dì Seah mang tôi
vôi. Bác sĩ bảo mẹ chết vì viêm phổi, còn dì lại nói chắc như đinh đóng cột,
rằng mẹ tôi mất vì thương nhớ cha. Nhìn lại quãng đời ăn nhờ ở đậu, tôi thấy
chỉ có dì đối tốtvới tôi nhất. Dì tặng tôi món quà vô giá: Niềm tin bất di bất
dịch về tình yêu mãnh liệt cha mẹ dành cho nhau. Khi dì Seah quá già yếu, không
thể tiếp tục nuôi tôi, tôi bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó: Hôm nay ở nhà này,
mai lại sang nhà khác. Có nhiều nhà chỉ là bà con họ xa. Tôi ở nhà họ, giúp
trông nom người ốm, giúp những ai cần đỡ đần việc nhà mà không ngại nuôi thêm
một miệng ăn. Cứ thế cho đến khi tôi chẳng còn nhà bà con nào mà đi.

Khi tôi mười ba tuổi, mợ Ivy
nhận tôi về dù giữa chúng tôi không có quan hệ máu mủ. Cậu Holt chỉ là người bà
con xa. Chắc mợ không muốn tuột mất cơ hội thực hiện nghĩa vụ của một người Cơ
đốc giáo. Hoặc mợ không thể vuột mất cơ hội nhắc tôi mỗi ngày, rằng tôi trắng
tay và chẳng còn ai nương tựa. Mợ thường bảo tôi nên đếm thật kĩ mọi ơn huệ
trời ban. Tất nhiên tôi có đếm. Ngày nào tôi cũng cảm kích món quà quý nhất mà
Thượng đế ban cho: Đó là sự thật mợ và tôi không phải là ruột thịt.

Không khí trong phòng im lặng
đến độ tôi có thể nghe tiếng ống tẩu va vào răng cậu Holt. Ông phà thêm một làn
khói thuốc thật thơm trướckhi lên tiếng:

- Theo tôi, chuyện này để mai
hẵng bàn.

Mợ Ivy không muốn qua mặt
cậu. Không đời nào bà làm thế khi có mặt tôi. Oai phong trong ghế bành, bà
khoát tay:

- Ông muốn sao cũng được.

Cậu hết loay hoay với tẩu
thuốc lại quay sang lục đống báo xếp trên đường ống nước sát ghế ngồi:

- Quái lạ! Tôi để đâu rồi
nhỉ?

- Ông bảo để cái gì?

Giọng vút cao của mợ làm cửa
kính cũng phải bể.

- Thư. Thư của Hattie đến
trong ngày.

Đống báo đổ xuống sàn như một
thác nước nhỏ. Dù cậuchỉ là nhân viên kế toán của một cửa hàng bách hóa, nhưng
tôi chưa thấy ai đọc nhiều như cậu Holt. Tôi mê đọc không kém, nhưng sở thích
tôi là tiểu thuyết. Cậu Holt lại thích báo chí. Cậu là người đầu tiên cảnh báo
có chiến tranh ở châu u. Ngay cả kẻ ngốc, nếu để ý, cũng sẽ biết có binh biến
lớn. Còn tôi, trước khi Charlie nhập ngũ, chẳng buồn để ý đến tình hình chiến
sự. Thế cũng đủ biết tôi thuộc loại người

- Cháu có thư! Thư Charlie
chăng!

- Thư gửi Hattie à? Mợ Ivy
ngờ vực.

Như không thấy mợ giơ tay ra,
cậu Holt trao thẳng thư cho tôi. Mợ Ivy hạch hỏi:

- Thư của ai mới được?

- Một người ở Montana.

Nói xong, cậu Holt biến mất
sau tờ Tin tức Arlington,
dấu hiệu cho biết phần tham gia của cậu vào buổi mạn đàm buổi tối để kết thúc.

Tôi mở phong bì. Bên trong có
hai bức thư. Bức thư thứ nhất đề ngày 11 tháng mười một năm 1917.

Lúc lâm chung, cậu em có nhắn
chị gửi thư cho em. Đó là điều tối thiểu chị có thể làm để đền đáp lòng tốt vô
bờ của ông. Nếu em đồng ý, chị và anh Karl, chồng chị, sẽ hết lòng giúp đỡ em.

Hãy nhận từ chị tình cảm chân
thành nhất

Perille Johnson Mueller

“Đồng ý gì mới được?” Tôi mở
tiếp bức thư thứ hai.

Hattie yêu quí.

Chắc chắn cháu không thể nhớ
cậu. Mẹ cháu chỉ có mình cậu là em trai. Nếu có lấy vợ và sống chỉn chu, cậu đã
gửi thư cho cháu từ lâu. Nhưng cậu chỉ là một gã du thử du thực. Tuy nhiên, ở Montana này, cậu dần tạo
dựng một cuộc đời mới. Chắc cháu không biết ngay khi cậu cắm đất và dựng nên
một chỗ chui ra chui vào, thầy thuốc bảo bệnh ho sẽ kết liễu đời cậu. Ngoài
việc có chung dòng máu nhà Wright trong huyết quản, cháu và cậu giống nhau ở
một điểm. Tuổi thơ ấu, cậu cháu mình đều không có một mái nhà cho ra hồn. Cháu
mồ côi, còn cậu bỏ nhà đi từ khi mới học lớp sáu. Chắc cháu nghĩ ta không bao
giờ nhớ đến cô cháu gái ở tận Iowa.
Nhưng ta chứng minh điều ngược lại bằng chính lá thư này. Nếu đến Vida, cháu sẽ
có cơ hội sở hữu đất. Cậu tin cháu có nghị lực của mẹ. Nó sẽ giúp cháu thực
hiện nốt vài yêu cầu cần đáp ứng đủ tự tin và nghị lực để thực hiện những yêu
cầu ấy (cháu có cả một năm để làm chuyện ấy), 320 mẫu đất Montana sẽ hoàn toàn thuộc về cháu.

Tôi bấu tay chặt vào thành
tràng kỷ:

- Trời!

- Cái gì thế? Chuyện không
hay à?

Mợ Ivy đến bên, hau háu nhìn
qua vai tôi. Sau khi lắp bắp một chút, tôi đọc to đoạn cuối cùng của bức thư:

Tôi, trong tình trạng tinh
thần minh mẫn, tuyên bố để lại cho Hattie Inez Brooks đất đai, căn nhà và toàn
bộ đồ dùng bên trong, kèm theo một con ngựa khỏe mạnh tên Plug và Violet - con
bò cái đê tiện.

Ký tên

Chester Hubert Wright

Cậu của Hattie Inez Brooks

Tái bút: Hattie này, cháu nhớ
mang theo mèo và quần áo ấm nhé.

Mợ Ivy giật phắt lá thư trên
tay tôi. Còn tôi sững sờ đến độ không kịp phản ứng. Ba trăm hai mươi mẫu đất
(khoảng 128 héc ta)! Một căn nhà chỉ của tôi mà thôi! Montana!

Mợ tôi dõng dạc:

- Thật lố bịch! Vả lại, mợ đã
hứa với Iantha cháu sẽ sang làm cho bà ấy.

- Cơ hội tốt cho con gái
siêng năng.

Giọng cậu Holt như có kèm
theo cái nháy mắt tinh quái. Mợ Ivy lắp bắp:

- Điên rồ! Ông thôi đi cho
tôi nhờ. Còn Hattie…

Tôi lấy lại lá thư trên tay
mợ, gấp lại cẩn thận và cất vào túi áo:

- Thì mợ vẫn hay bảo “Thượng
đế hành sự theo cách bí ẩn” đấy thôi. Giờ thì, mợ cho phép cháu phúc đáp thư
này.

Hồi âm của tôi cho chị
Perilee chỉ vỏn vẹn một dòng: “Em sẽ đến”.

Muốn Charlie biết tường tận,
thư cần dài hơn một chút. Tôi không muốn anh lo lắng cho mình khi đang trên đất
khách quê người. Sau hàng chục lần viết nháp, đoạn tái bút có thể gọi là đúng
mực. “Hãy tưởng tượng thư em viết từ đó sẽ thú vị biết chừng nào!”

Tôi gửi cả hai thư, một cho
Charlie, một cho chị Perilee. Thư phúc đáp từ chị Perilee đến ngay sau đó, kèm
theo lời hứa sẽ đón tôi tại ga Woft Point, sau đó đưa tôi đến tận khu đất của
cậu Chester. Như
thể biết tôi nghĩ gì, chị thêm vào danh sách vài hướng dẫn ngắn ngủi của cậu Chester:

Chị nói thêm về vật dụng cần
mang theo. Cậu em có gần như đầy đủ mọi vật dụng trong nhà. Tuy nhiên, một
chiếc mũ bền chắc che nắng mưa và vải trải giường là cần thiết, vì ông Chester không có hai loại
vật dụng đó cho em chọn lựa.

Láng giềng mới của em

Perilee Mueller

Một thiếu nữ thông minh hơn
tôi chắc đã chóng mặt khi toan tính chuyện về miền Tây hoang sơ nhận đất công
để cày cuốc. Tôi từng sốngởnông trại với họ hàng, năm nào cũng giúp cậu Holt
trồng rau trong vườn, nhưng đó chỉ như thực hiện một bài thực hành môn trồng
trọt mà thôi. Tôi cố tình đẩy mọi lo lắng và hồ nghi khỏi tâm trí ngay khi
chúng nhăm nhe tìm đến. Với tôi, toàn bộ chuyện này chỉ là cơ hội bỏ lại sau
lưng mợ Ivy và cảm giác mình là một vật dụng thừa.

Quyết tâm làm theo ý mình,
tôi làm mọi việc mà một chủ trại giỏi giang cần làm: tôi ra ngân hàng, rút 400
đô la tiền bố mẹ để lại, mua quần áo ấm và tấm vé 12 đô la ở ga Great Northern.
Việc thu xếp hành lí không cần nhiều thời gian. Cậu Holt cho tôi đôi ủng cũ, cô
giáo Simpson tặng tôi cuốn Cẩm nang canh tác của Campbell xuất bản năm 1907. Anh trai cô cũng
chuyển đến Montana.
Ông tin chắc đó là cuốn mọi chủ trại cần có khi canh tác tại miền đồng cỏ phía
Đông. Sau cái ôm hôn thắm thiết lúc chia tay, mẹ Charlie tặng tôi đôi lao động
bằng vải bạt dày dặn. Món đồ cuối cùng tôi mua là chiếc lồng đan bằng cây liễu
gai dành cho “Ngài” Whiskers.

Vì vẫn còn tức tối về chuyện
vừa xảy đến, mợ Ivy từ chối không ra ga tiễn tôi. Chỉ có cậu Holt đưa tôi đi
trên chiếc Ford Town Car mới cáu.

Khi bỏ rương của tôi từ xe
xuống và trao chiếc lồng có “Ngài” Whiskers cho tôi, cậu Holt bảo:

- Hattie này, cậu biết cháu
đủ bản lĩnh và nghị lực làm mọi điều mình muốn. Nhưng hãy nhớ trên đời có nhiều
cách học hỏi. Đừng quá kiêu hãnh đến độ không cần nhờ ai giúp. Chắc cháu còn
nhớ lời mợ Ivy thường hay nhắc đi nhắc lại là: Trèo cao…

Tôi tiếp lời:

- Ngã đau.

Mợ Ivy thường lo âu phiền
muộn vì lòng tự hào của tôi. Bao cây roi gãy trong tay mợ chỉ để trị tiệt nọc
cho tôi cái “thói xấu” ấy.

Cậu Holt vờ như bận rộn nhồi
thuốc vào tẩu để lẩn tránh ánh mắt buồn trong cảnh chia ly. Khi cậu châm thuốc,
tôi thấy mắt ông ươn ướt.

Ba năm với bao lần cậu tỏ
chút từ tâm với tôi chợt hiện về. Ánh mắt hai cậu cháu gặp nhau, tôi biết dù
không nói ra nhưng cậu hiểu tình cảm của tôi lúc này. Tôi lắp bắp:

- Cháu mang ơn cậu. Cháu…
cháu hứa sẽ viết thư thăm cậu ạ. Cậu ngượng ngập vỗ vai tôi.

- Giờ chưa cần hứa gì vội kẻo
thành hứa suông đấy. Nhưng nếu nhận được tin của cháu thì tốt. Thỉnh thoảng
thôi cũng được.

Người phục vụ trên tàu hô
lớn:

- Mời hành khách lên tàu cả
đi!

“Ngài” Whiskers và tôi vào
hẳn trong khoang. Cậu Holt vẫn còn đứng trên sân ga vẫy tay lần cuối. Tôi cũng
vẫy tay chào lại. Sau đó, tôi chỉnh tư thế ngồi, xoay mặt về hướng Tây.

 

CHƯƠNG 2

Tháng giêng năm 1918

Trên xe lửa từ ga Great
Northorn

Tại một nơi thuộc Bắc Dakota

Charlie thân mến!

Đêm đầu tiên trên tàu, vì hồi
hộp nên em không sao ngủ được; nhưng đêm thứ ba em vẫn không chợp mắt vì mùi hôi
và tiếng ồn đinh tai nhức óc. Thể nào anh cũng bảo chuyện tàu xe của em sao so
được với vô số lần hành quân trên xứ lạ. Anh đúng trăm phần trăm, nhưng em đang
bực bội, đói và người đầy bụi bẩn nên em cứ kêu ca đấy. Sách cô Simpson tặng
chẳng hấp dẫn tẹo nào. Nó chỉ nhắc em mỗi một từ: làm việc, làm việc và làm
việc. Em thà đọc mấy cuốn sách mỏng phát trên tàu còn hơn, tuy sách ấy khiến
người ta nghĩ làm trang trại chẳng khác nào chà nhẹ bàn tay vào cây đèn thần.

Em biết nơi em đến chẳng có
đèn thần; em cũng sẵn sàng thực hiện mọi yêu cầu đáp ứng để trang trại thuộc về
mình. Chính vì thế mà hàng trăm câu hỏi cứ nhảy múa trong đầu em. Khi đến nơi,
việc phải làm ngay là gì? Để chứng minh khả năng điều hành trang trại, em cần
phải làm những gì? Ngộ nhỡ em không làm được thì sao? Quyết tâm phải làm cho
được thiêu đốt tâm trí em. Nếu biết ruột gan em đang hàng trăm mối tơ vò thế
này, mợ Ivy sẽ hởi lòng hởi dạ, hệt “Ngài” Whiskers vừa vớ được một con mồi
lớn. E rằng, trước khi đường hoàng là một chủ trại, em sẽ nếm phải nhiều bài
học cay đắng.

Tôi dừng tay, ngước lên nhìn
ra ngoài. Quang cảnh nhìn từ cửa khoang tàu mờ tối này khiến bất cứ ai cũng
phải nản lòng. Tôi viết tiếp: “Mấy cuốn sách tuyên truyền nói Montana là miền đất của sữa và mật ong,
nhưng nhìn cảnh tuyết phủ trắng một vùng mênh mông đến vô tận như thế này,
chẳng ai dám chắc điều gì sẽ đến. Tuy nhiên, em tin chắc cảnh trang trại cậu Chester sẽ khác hẳn”.

Tôi lại đoán già đoán non về
cậu mình. Tất nhiên, tôi có nghe nói về cậu, nhưng không nhiều và chưa bao giờ
được thấy mặt ông. Cậu tự xưng là người có thành tích bất hảo, nhưng thực ra đó
là “thành tích” gì? Sao cậu lại đến Montana?
Với tôi, nếu chúc thư của cậu còn nhắc đến cô cháu gái chỉ biết láng máng về
mình, cậu Chester
không xấuời tự giới thiệu. “Cậu tin cháu cũng nghị lực không kém mẹ mình” - Cậu
đã viết như thế. Tôi chỉnh tư thế ngồi thật thẳng. Tôi không biết mình có nghị
lực giống mẹ không; những gì tôi biết về mẹchỉ nhiều hơn sự hiểu biết về ông
cậu “cả đời không gặp”. Tuy nhiên điều đó không ngăn tôi hình dung về bà. Biết
đâu, ngay lúc này, linh hồn bà đang dõi theo tôi. Nếu thế, mẹ sẽ nói gì nhỉ?
Liệu mẹ có đồng tình với mợ Ivy? Hay bà tán thành quyết định của tôi? Tôi tự
hỏi lần thứ bao nhiêu tôi cũng không nhớ rõ, rằng: Người mất cha mẹ từ khi còn
bé, đồng thời không biết chút xíu gì về họ như tôi liệu có dễ sống hơn người
khác? Mọi kí ức về cha mẹ quá mờ ảo. Chúng như tiếng thì thầm vọng về từ quá
khứ. Mọi người bảo tôi thừa hưởng sống mũi thẳng của cha và nụ cười bí ẩn của
mẹ. Không biết cha mẹ còn cách ghi dấu ấn trên con người tôi khác hay không.
Nhưng tôi chắc chắn việc đồng ý đến Montana,
đến trại của cậu Chester
đã chứng tỏ sự tháo vát truyền thống của gia đình, dòng họ.

“Ngài” Whiskers ngọ nguậy
trong chiếc lồng hẹp.

- Meo.

Tôi nhìn chiếc đồng hồ đeo
tay của mẹ đeo trên vạt áo:

- Tội nghiệp mày. Sắp được
rộng cẳng rồi, đừng lo.

Thời gian từ bây giờ đến khi
tàu vào ga Woft Point chỉ tính bằng thời gian chờ mẻ bột làm bánh nở đều. Tôi
nhấp nhổm trên ghế, kín đáo vuốt nếp váy áo đã nhàu dưới cặp mông đau ê ẩm. Tôi
vừa nhúc nhích, ông béo tốt đẫy đà ngồi ghế đối diện đang ngáy như sấm đã
choàng tỉnh. Tôi vội quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ. Ông ta hỏi:

- Thấy xứ này rồi, chẳng ai
mừng nổi nhỉ?

Tôi ậm ừ đáp lễ.

- Cô định đi đâu?

Ông ta nghiêng người ra phía
trước nêu câu hỏi, nhân tiện gửi vào không khí hơi thở đậm mùi khói thuốc lá
thui quyện mùi rượu nồng nặc.

Chàng cao bồi thân hình mỏng
dẹt, ngay đơ như tấm ván giặt ngồi ủ rũ cạnh ông béo, góp lời:

- Đến Helena chứ còn đi đâu nữa. Cô gái trẻ nào
chẳng muốn đến đó.

Dù mợ Ivy nhắc tôi chớ nói
chuyện với người lạ, nhưngởcộng đồng nhỏ xíu trong toa tàu chật chội này, không
trả lời chắc sẽ bị coi là thất lễ.

- Tôi đến trang trại của cậu
ruột ở Vida, gần Circle. Ông béo vỗ đùi đen đét, miệng huýt sáo:

- Trời, trang trại ở đó có
cũng như không. Cứ coi là tay trắng đi.

- Dân nhà quê.

Gã cao bồi ấn sâu cái mũ bẩn
xuống đầu, lẩm bẩm:

- Này, xin lỗi, anh vừa bảo
gì?

- Gì chẳng được: quê một cục,
kẻ chiếm đất công, bán mặt cho đất bán lưng trời.

Nói đến đây, gã lấy con dao
lạ kiểu trong túi cắt mẩu sợi thuốc từ thanh thuốc dài đang cầm trên tay.

- Đám nông dân ngu dốt cứ
tưởng đến đó sẽ làm nên chuyện.

Vừa nói, ông béo vừa rút khăn
tay nhem nhuốc lau trán.

Tôi chỉnh lại cái vành mũ
trên đầu:

- Cậu… cậu tôi có trang trại
đẹp như mơ. Năm ngoái còn được mùa… bội thu đấy.

Phải nói dối, tôi cũng hơi
ngượng. Nhưng vì lúc ấy tôi chưa biết năm rồi cậu tôi chẳng bội thu bội hoạch
gì nên tội lỗi cũng giảm đi phân nửa.

- Lại mấy công ty đường sắt
chết tiệt.

Gã cao bồi vươn cổ dài định
phun vào cái ống nhổ bằng đồng đặt giữa lối đi. Tiếc thay, cái thứ đáng lẽ phải
bay vào ống nhổ lại không đến đích. Thấy cảnh đó, tôi bỗng lợm giọng.

Ông béo khẽ lắc đầu:

- Chắc ông cậu cô lại bị mấy
tờ rơi trên tàu nó “thuốc” chứ gì. Tưởng đào được vàng cục thay vì củ cải chắc?

- Nông trại của cậu tôi rất…
(lúng túng, tôi không tìm được từ thích hợp)… trù phú.

Ông béo tức tối buông lời lỗ
mãng khiến bụng tôi muốn sôi lên:

- Gã trời đánh. Cậu cô vào
hùa với đám dân đường sắt, dám hứa những điều đất Montana không thể thực hiện nổi.

Từng từ ngữ như ngọn roi da
quất túi bụi vào mặt tôi. Hơn nữa, mọi hành khách trong toa đều gật gù đồng
tình với gã cao bồi bẩn thỉu và ông béo có cái mặt đỏ tía kia. Người bảo tồn
chính kiến của mình duy nhất chỉ có một ông mặc áo khoác đen.

Tôi moi óc cố tìm cách nói
thật sâu cay đối đápvới nhóm phàm phu này. Ôm chiếc giỏ đựng đồ ăn chặt hơn,
tôi tự nhủ một quí cô phải có chính kiến riêng. Nhớ khi xưa, mợ Ivy thường dùng
roi dán cái thông điệp ấy lên đôi chân tôi không biết bao nhiêu lần.

- Ga Woft Point rồi đây! Ai
định đến Woft Point thì xuống cả đi!

Người soát vé ló đầu vào
khoang tôi:

- Này cô, đến ga của cô rồi
đấy.

Tàu chạy chậm dần nhưng ông
béo vẫn nói không ngừng nghỉ. Nhìn ông tôi nhớ lại cha xứ Porter trong buổi lễ
vừa rồi, thao thao bất tuyệt với bài diễn thuyết dài ba tiếng đồng hồ. Khi lấy
hành lí, tôi tìm cách làm người kia phải câm miệng.

Ông béo liến láu:

- … chết đói mất thôi. Đúng
là không biết dừng ở đâu cho hợp lí. Nếu cô là con gái tôi…

Đúng lúc ấy, con tàu lắc
mạnh. Tay xách nách mang nào hành lí, nào lồng
mèo, tôi lảo đảo giữa lối đi, cố lấy lại thăng bằng (và lòng tự trọng). Quí cô
đáng nể nhất đời cũng không thể chịu đựng như tôi. Quả là chuyến đi này quá
dài, quá khổ sở. Sự kiên nhẫn của tôi xơ xác, hao mòn chẳng khác nào chiếc áo
đẹp thứ hai có trong túi tôi đây.

Tôi nhìn thẳng vào ông béo mà
rằng:

- Nếu tôi là con gái ông, tôi
sẽ lao thẳng vào đoàn tàu đang chuyển bánh.

Cả khoang lặng đi. Lát sau,
gã cao bồi huýt sáo:

- Ông Chet, hình như cô ấy
vừa cảm ơn ông đấy.

Tôi run rẩy nói thêm:

- Thôi các ông ở lại, tôi đi.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, tôi
thấy một bàn tay đàn ông chộp lấy cánh tay

- Ông muốn gì?

Lập tức, tôi hối hận vì trót
nổi đóa lên. Chỉ vì hành xử nóng vội, nên tôi sắp phải trả giá bằng chính mạng
sống của mình. Mợ Ivy đã cảnh báo tôi hàng trăm lần về thứ “đàn ông miền Tây
hoang dã” mà tôi nào có nghe. Nhìn xuống, tôi mới nhận ra tay kia là của người
mặc áo măng tô đen vẫn im lặng nãy giờ.

- Đừng chấp người say cô ạ.
Rượu vào lời ra là chuyện thường mà.

Ông ta đẩy nhẹ chiếc mũ trên
đầu.

- Nếu cô cho phép, tôi nói
rằng tôi hết sức tin tưởng cô sẽ thành công tại vùng đất khắc nghiệt này.

Giá chân tôi đừng run bắn lên
thế này. Rủi thay, cặp chân vẫn không chịu nghe lời khổ chủ.

- Cảm ơn. Nhưng chắc giờ này
cậu tôi đang ngóng trông tôi.

Ông khách nhẹ nhàng:

- Vâng, cô nói phải.

Nói xong, ông quay vào
khoang.

Tôi đi dọc hành lang, xuống
tàu trên đôi chân rã rời không chỉ mệt và giận. Dù khuôn mặt Charlie có hiện rõ
mồn một cùng bao kỷ niệm dịu êm chân tình nhất, tôi vẫn không phấn chấn lên
được. Tủi thân quá, tôi còn ước được gặp cả mợ Ivy. Tưởng đâu, ở đó con người
không chỉ có ước mơ mà còn giữ được chúng, không để mơ ước tan thành mây khói.
Nhưng lúc này, tôi không còn dám chắc nữa.

Tôi dợm quay gót, định trở
lên tàu về nơi xuất phát. Nhưng người soát vé đã đặt rương của tôi xuống đất:

- Chúc may mắn. Mừng cô đến
với Montana.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3