Lolita - Phần II - Chương 30 - 31 - 32

Chương 30

Rời Coalmont vào quãng bốn giờ chiều (theo Quốc lộ X - tôi
không nhớ là số bao nhiêu), lẽ ra tôi có thể tới Ramsdale vào lúc rạng đông nếu
không bị cám dỗ bởi một con đường tắt. Tôi phải bắt vào Xa lộ Y. Bản đồ của tôi
chỉ đơn thuần hướng dẫn là sau khi qua Wbodbine, nơi tôi tới vào lúc chập tối,
tôi có thể rời Quốc lộ X rải nhựa và tới Xa lộ Y bằng một con đường đất rẽ
ngang. Theo bản đồ của tôi, đi lối này chỉ độ sáu mươi cây số. Nếu không, tôi
sẽ phải tiếp tục đi một trăm sáu mươi cây số nữa trên Quốc lộ X, rồi theo con
Xa lộ Z ngoằn ngoèo nhàn tản để bắt vào Xa lộ Y dẫn tới đích đến của tôi. Nhưng
con đường tắt này cứ xấu dần, càng lúc càng xóc hơn, lầy lội hơn, và đúng lúc
tôi định lộn lại sau khi đã rờ rẫm, oằn oại bò như rùa chừng mười lăm cây số,
thì chiếc Melmoth già yếu của tôi bị lún sâu kẹt cứng trong đất sét. Tất thảy
quanh tôi chỉ là bóng tối, oi bức và vô vọng. Ánh đèn pha xe tôi rọi vật vờ
trên một cái hào rộng đầy nước. Vùng quê xung quanh, trong phạm vi nhìn thấy
được, chỉ là một hoang địa đen ngòm. Tôi ráng sức bứt ra, nhưng hai bánh sau
chỉ rền rĩ trong bì bõm và đau đớn. Vừa nguyền rủa số phận, tôi vừa cởi bỏ bộ
đồ sang trọng, mặc chiếc quần thường và chiếc áo pun lỗ chỗ vết
đạn [1] và bì bõm lội trở lại sáu cây số tới một nông trại ven đường.
Đang đi thì trời đổ mưa, nhưng tôi không đủ sức để quay lại lấy áo mưa. Những
sự cố kiểu này khiến tôi tin rằng tim tôi về cơ bản vẫn lành mạnh bất luận
những chẩn đoán gần đây. Vào quãng nửa đêm, một chiếc xe giải “pan” tới kéo xe
tôi ra khỏi vũng lầy. Tôi quay trở về Quốc lộ X và tiếp tục cuộc hành trình.
Một giờ sau, tôi tới một thị xã nhỏ vô danh trong trạng thái mệt oải cực kì.
Tôi dừng xe bên vỉa hè và trong bóng tối, tu ùng ực từ một bình nước thân
thiện.

[1] Coi như H.H. mặc vào mình số phận mà ông ta rắp tâm
dành cho Quilty.

Mưa đã tạnh từ trước đó mấy cây số. Đó là một đêm nóng nực
và tối mò, đâu đó trong vùng Appalachia. Thi
thoảng, có những xe qua mặt tôi, đèn hậu đồ lui dần, đèn pha trắng tiến tới,
nhưng thị xã vẫn chết lịm. Không ai dạo chơi, cười nói trên hè phố như đám dân
tỉnh lẻ thư giãn thường làm thế ở bên châu Âu êm ái, ngọt ngào và mục rữa của
chúng tôi. Chỉ có một mình tôi tận hưởng cái đêm vô tội này và những ý nghĩ ghê
sợ của mình. Một cái giỏ bằng dây thép trên vỉa hè tỏ ra rất kén chọn nội dung
có thể chấp nhận: Rác vệ sinh. Giấy. Không trút rác từ trong nhà ra. Những dòng
chữ huỳnh quang màu đỏ anh đào làm nổi bật một cửa hàng bán máy ảnh. Một chiếc
nhiệt kế lớn ghi tên một loại thuốc xổ bình thản ngự trước cửa một hiệu tân
dược. Công ti Kim Hoàn Rubinov trưng bày một bộ hạt xoàn nhân tạo lung linh
phản chiếu trong một tấm gương đỏ. Một chiếc đồng hồ mặt dạ quang màu xanh bồng
bềnh trong lòng sâu vải vóc của Tiệm Giặt Jiffy Jeff. Bên kia đường, một xưởng
sửa chữa ô tô, trong cơn ngái ngủ, nói nhịu: genuflexion lubricity,
rồi vội chỉnh lại thành Gulflex Lubrication [2]. Một chiếc phi
cơ, cũng được tô điểm bằng đá quí của Công ti Kim Hoàn Rubinov, bay qua, ro ro
trong bầu trời nhung. Biết bao thị xã nhỏ tôi đã từng thấy nằm chết lịm trong
đêm sâu! Đây đâu phải lần cuối cùng.

[2] “Genuflexion lubricity” nghĩa là sùng bái dâm dục.
“Gulflex lubrication” nghĩa là tra dầu mỡ Gulfex (Gulfex EPG 2 là một loại mỡ
bôi trơn đa công dụng rất được ưa chuộng). Hai cụm từ này phát âm gần giống
nhau, do đó có sự “nói nhịu”. Chúng tôi để nguyên không dịch vì không thể tìm
ra cách chuyển ngữ tương đương.

Cho phép tôi nấn ná một chút, hắn thì coi như xong, tiêu
diệt rồi. Xa hơn tí nữa bên kia đường, những ánh đèn nê ông lập lòe với nhịp độ
hai lần chậm hơn nhịp tim của tôi: liên tục tùng giây trọn vẹn, đường viền của
một tấm biển nhà hàng với hình một bình cà phê lớn bùng lên một sức sống màu
xanh ngọc bích, và mỗi khi nó tắt, những dòng chữ màu hồng “Fine
Foods” [3] lại nối tiếp, nhưng hình ảnh bình cà phê vẫn chập chờn như
một cái bóng tiềm ẩn trêu ngươi trước khi nó lại tái sinh trong màu xanh ngọc
bích. “Tụi này còn làm bóng chiếu nữa” [4]. Cái thị trấn vật vờ này không
xa khách sạn The EnchantedHunters là mấy. Tôi lại khóc, say đừ
với quá khứ bất khả.

[3] Các món ăn ngon.

[4] Câu nói của Lolita trở lại trong kí ức H.H. Xem
chương 27, Phần Một.

Chương 31

Ở điểm dừng chân cô đơn này để giải khát, giữa Coalmont và
Ramsdale (giữa Dolly Schiller ngây thơ và ông Chú Ivor vui vẻ), tôi điểm lại
trường hợp của mình. Giờ đây, tôi nhìn thấy mình, bản thân tôi và mối tình của
tôi, cực kì rõ ràng và đơn giản. So với lần này, những cố gắng tự soi mình
trước kia có vẻ lu mờ hẳn. Hai năm trước, dưới sự hướng dẫn của một vị linh mục
thông minh nói tiếng Pháp, mà, trong một cơn hiếu kì siêu hình, tôi đã từ bỏ
đạo Tin Lành tẻ nhạt nhuốm màu vô thần để chọn lấy sự cứu chuộc theo niềm tin
Ca Đốc cổ điển [1], tôi đã hi vọng từ ý thức về tội lỗi của mình mà suy ra
sự tồn tại của một Đấng Tối Cao. Vào những buổi sáng lạnh giá ấy ở thành phố
Quebec đầy sương muối, vị linh mục đôn hậu chăm sóc tôi với sự thương mến và
thông cảm tuyệt vời. Tôi vô cùng biết ơn ông và cái Đại Viện mà ông là đại
diện. Than ôi, tôi không sao vượt qua nổi cái sự thật đơn giản rất người này:
bất kể tôi có thể tìm thấy an ủi về tâm linh như thế nào, bất luận tôi có được
ban cho cõi vĩnh hằng sáng trong [2] như thế nào, không gì có thể làm
cho Lolita của tôi quên được sự dâm dục bỉ ổi mà tôi đã giáng xuống em. Trừ phi
người ta có thể chứng minh cho tôi thấy -cho cái thằng tôi như lúc này đây, với
trái tim tan nát và râu ria lởm chồm và đang thối rữa - rằng việc một bé gái
Bắc Mĩ tên là Dolores Haze bị một kẻ cuồng si tước đoạt mất tuổi thơ, tựu
trung, chẳng hệ trọng chút nào trong vô tận thời gian, trừ phi người ta có thể
chứng minh là thế (và nếu thế thì cuộc đời chỉ là một trò đùa), tôi thấy chẳng
có phương cách nào để chữa trị cho nỗi khốn khổ của mình, ngoài cái thứ thuốc
giảm đau tạm thời, u buồn và rất cục bộ, là nghệ thuật diễn ngôn. Để dẫn một
nhà thơ xưa [3]:

Ý thức đạo lí là thuế mà người phàm chúng ta phải trả

Cho ý nghĩa chết người của cái đẹp siêu phàm vô giả

[1] Đây chỉ là cách nói thậm xưng của H.H. vì thực ra đạo
Tin Lành không phải là “vô thần”.

[2] Nguyên văn: “lithophanic eternities”; lithophane
là một loại sứ rất mỏng và trong, có in hoặc khắc hình chìm chỉ thấy được khi có
ánh sáng rọi vào.

[3] Nhà thơ do H.H bịa ra.

Chương 32

Tôi nhớ một ngày trong chuyến hành trình đầu tiên của chúng
tới - tầng đầu thiên đường của chúng tôi - hôm đó, để bình yên tận hưởng các
huyễn tưởng của mình, tôi kiên quyết quyết định phớt lờ những gì tôi không thể
không cảm nhận thấy, cụ thể là, đối với em, tôi không phải là một bồ trai,
không phải một chàng trai đầy sự hấp dẫn, cũng không phải một bạn cánh hẩu,
thậm chí không phải là một con người, mà chỉ là hai con mắt và một cái chân đầy
cơ bắp co quắp - để chỉ nhắc tới những gì có thể nhắc tới được. Có một hôm
khác, sau khi rút lại lời hứa đầy tính thực dụng đã thỏa thuận với em hôm trước
(bất cứ điều gì trái tim bé nhỏ đồng bóng của em đã chọn - một sân trượt pa
tanh có sàn đặc biệt bằng plastic hay một bộ phim chiếu buổi sáng mà em muốn đi
xem một mình), tôi tình cờ chớp nhìn thấy từ buồng tắm, nhờ sự kết hợp ngẫu
nhiên của độ chếch tấm gương với khe cửa he hé, một vẻ trên khuôn mặt của em...
cái sắc diện tôi không thể mô tả chính xác được... một vẻ bất lực hoàn toàn đến
nỗi dường như chuyển thành một vẻ ngu ngơ bình thản, chính bởi vì đây là giới
hạn tột cùng của bất công và thất vọng - và mọi giới hạn đều bao hàm một cái gì
đó bên kia nó - do vậy mà bừng sáng một cách trung lập. Và khi mà nhớ đây là
cặp lông mày nhướn lên và đôi môi he hé của một bé gái, có lẽ bạn sẽ hiểu rõ
hơn rằng tôi đã toan tính nhục dục sâu xa nhường nào và tuyệt vọng nhường nào
trong suy nghĩ thì mới không phủ phục dưới đôi chân yêu dấu của em mà vỡ òa
thành nước mắt con người, và hi sinh lòng ghen của mình để đáp ứng bất kì khoái
thú nào mà Lolita hi vọng tìm thấy trong việc đàn đúm với bọn trẻ bẩn thỉu và
nguy hiểm trong một thế giới bên ngoài mà đối với em là có thật.

Và tôi còn có những kỉ niệm tắc nghẹn khác giờ đây đang bung
ra thành những quái vật không chân không tay của nỗi đau. Một lần, trên một con
phố ở Beardsley, với cảnh mặt trời lặn phía cuối đường, em quay sang Eva Rosen
(tôi đưa cả hai tiểu nữ thần đến một cuộc hòa nhạc và đang đi đằng sau, bám sát
đến nỗi người tôi gần như chạm vào họ), phải, em quay sang Eva khi cô bé này
nói thà chết còn hơn phải nghe Milton Pinski, một nam học sinh sở tại mà cô
quen, bàn về âm nhạc, và đáp lại nhận định đó, Lolita của tôi hạ một lời bình
hết sức thản nhiên và hết sức nghiêm túc:

“Cậu biết không, điều cực kì khủng khiếp khi ta chết là ta
hoàn toàn trơ trọi một mình”; và, trong khi đôi đầu gối rô-bốt của tôi nhấc lên
hạ xuống, tôi chợt nhận ra rằng tôi hoàn toàn không biết gì về tâm tư cục cưng
của mình và rằng rất có thể đằng sau những từ ngữ gớm ghiếc đám trẻ ưa dùng,
trong em có một khu vườn và một hoàng hôn, và cánh cửa vào một cung điện -
những vùng mơ tối và đáng yêu mà rõ ràng là tôi bị cấm tuyệt đối không được đặt
chân vào với bộ đồ rách rưới nhớp nhúa và những co giật khốn khổ của tôi; vì
tôi nhiều lần nhận thấy rằng, sống như cách chúng tôi, em và tôi, đang sống,
trong một thế giới của cái ác bao trùm, chúng tôi ắt sẽ trở nên bối rối lạ lùng
mỗi khi tôi thử bàn luận về một điều gì đó mà em và một người bạn lớn tuổi hơn,
em và một người bà con, em và một bồ trai thực sự lành mạnh, tôi và Annabel,
Lolita và một ông Harold Haze cao cả, đã được phân tích, thanh lọc, thánh hóa,
có thể đã từng bàn luận - một ý tưởng trừu tượng, một bức tranh, một Hopkins
lốm đốm [1]hay một Baudelaire bị xén trụi lông [2], Thượng Đế hay
Shakespeare [3], bất kì đề tài nào thuộc loại thứ thiệt. Chẳng sao! Em sẽ
che đậy chỗ yếu của mình bằng sự ngược ngạo tầm thường và vẻ chán ngấy, còn tôi
thì đưa ra những bình luận tưng tửng bằng một giọng giả tạo đến độ làm ghê hết
cả những chiếc răng còn lại của chính mình, và như thể khuấy lên trong cử tọa
những cơn bùng nổ lỗ mãng khiến không thể nào tiếp tục trò chuyện được, ôi, bé
em bị bầm giập tội nghiệp của tôi.

[1] “Strippled Hopkins”: Gerald Manley Hopkins
(1844-1889), nhà thơ Anh. Từ “stripple" (đốm) được dùng trong bài thơ
“Pied Beauty” (Vẻ đẹp lốm đốm) của ông: “Glory be to God for dappled things...
For rose-moles all in stipple upon trout that swim”, tạm dịch: “Vinh quang
thuộc về Thượng Đế vì đã sinh ra những vật lốm đốm... Vì những nốt ruồi hồng
lốm đốm khắp trên mình cá hồi đang bơi”. Theo lời của chính Hopkins: “Bài thơ
này là sự mô tả ưa thích nhất của tôi về những điều kì diệu của Thượng Đế”.

[2] Ám chỉ cái đầu trọc trứ danh của thi hào Pháp.
Trên tấm ảnh do Carjat chụp ông năm 1863, pho tượng của nhà điêu khắc Raymond
Duchamp Villon năm 1911 và bức chân dung khắc kẽm củaa Jacques Villon, em trai
nhà điêu khắc nói trên (1920), cũng như chân dung tự họa (vào khoảng năm 1860),
tóc Baudelaire nom như bị vặt trụi.

[3] Nhại lời kêu cầu của Stephen Dedalus: “God, the
sun, Shakespeare (Thượng đế, mặt trời, Shakespeare)” trong tác phẩm bất hủ
Ulysses của James Joyce, phần “Nighttown".

Anh yêu em. Anh là một con quái vật năm chân, nhưng anh yêu
em. Anh thô bạo, đáng khinh, và xấu xa đê tiện, và đủ mọi thứ, mais je
t’aimais, je t’aimais!*
(nhưng anh yêu em, anh yêu em). Và có những
lần anh biết em cảm thấy thế nào và điều đó là một cực hình địa ngục đối với
anh, bé yêu của anh, Lolita kiều nữ, Dolly Schiller trung hậu.

Tôi nhớ một số khoảnh khắc, ta hãy gọi chúng là những tảng
băng trôi nơi thiên đường, những khoảnh khắc mà sau khi đã no nê em - sau những
chầu dốc sức hoang đường điên dại khiến tôi lử lả đầu váng mắt hoa - tôi gom em
trong vòng tay với, rốt cuộc, một tiếng rên câm lặng của âu yếm tình người (da
em lấp lánh trong ánh đèn nê ông từ ngoài sân lọt vào qua những khe mành cửa
sổ, hàng mi đen nhánh bết vào nhau, cặp mắt xám nghiêm nghị xa vắng hơn bao giờ
hết - hình ảnh hoàn hảo của một bệnh nhân nhỏ còn mụ mị vì thuốc mê sau một
cuộc phẫu thuật quan trọng) - và niềm âu yếm lắng sâu để chuyển thành hổ thẹn
và tuyệt vọng, và tôi vỗ về và ru Lolita mảnh dẻ cô đơn của tôi trong đôi cánh
tay cẩm thạch, và rên lên trong mái tóc ấm của em, và vuốt ve em khắp chỗ, và
thầm xin em ban phước và tới đỉnh điểm của cơn âu yếm quên mình, xé lòng, đầy
tình người ấy (hồn tôi thực sự lơ lửng quanh thân thể trần truồng của em, sẵn
sàng sám hối) thì đột nhiên, mỉa mai làm sao, lòng dục lại bùng lên một cách
khủng khiếp - và “ồ, không,” Lolita nói với một tiếng thở dài như
phân bua với trời, và phút sau, âu yếm và màu thiên thanh - tất cả đều vỡ vụn.

Vào giữa thế kỉ hai mươi, những ý niệm về quan hệ giữa con
cái và cha mẹ đã bị ô nhiễm bởi lối diễn ngôn kinh viện rườm rà và những biểu
tượng qui chuẩn hóa của cái mánh tâm phân học, nhưng tôi hi vọng là tôi đang
nói với những độc giả không thiên vị. Một lần, khi cha của
Avis [4] bóp còi bên ngoài nhà chúng tôi để báo hiệu là ba đến đón
cục cưng của ba về nhà, tôi cảm thấy buộc phải mời ông ta vào phòng khách; ông
ngồi một lát và trong khi chúng tôi trò chuyện, Avis, một cô bé mập mạp, ân
cần, không có gì là hấp dẫn, xáp tới ông và cuối cùng, vắt vẻo phục phịch lên
lòng ông. Tôi không nhớ kể là Lolita luôn dành cho những khách lạ một nụ cười
thực sự mê hồn, dịu dàng him cặp mắt nhung với hàng mi rối, tất cả các nét mặt
ngời lên một vẻ mơ màng êm dịu, sắc diện này dĩ nhiên chẳng hàm nghĩa gì, nhưng
nó đẹp, nó thân ái đến nỗi người ta khó mà suy diễn vẻ ngọt ngào này chỉ đơn
thuần do một thứ gien thần kì làm gương mặt em tự động bừng sáng lên như là một
biểu hiện hồi tổ về một nghi thức chào đón cổ xưa - kiểu niềm nở của gái làng
chơi, loại độc giả thô lỗ có thể nói vậy. Thế đấy, em đứng đó trong khi ông
Byrd xoay xoay chiếc mũ trong tay và nói chuyện, và - à phải, tôi thật ngu xuẩn
làm sao, lại bỏ sót không nói đến cái đặc tính chủ yếu trong nụ cười trứ danh
của Lolita, cụ thể là: cái vẻ ngời sáng dịu ngọt như mật hoa và đầy những lúm
đồng tiền ấy, trong khi thể hiện lên, không bao giờ hướng thẳng về phía người
khách lạ trong phòng, mà bồng bềnh trong khoảng trống xa xăm đầy hoa nở của
chính nó, có thể nói thế, hoặc vẩn vơ lướt nhẹ theo cách của nguời cận thị trên
những đồ vật tình cờ bắt gặp - và đó là điếu xảy ra lúc đó: trong khi Avis béo
rúc vào người ông bố, Lolita dịu dàng mỉm cười với một con dao bổ hoa quả, mân
mê nó trên mép bàn, nơi em tì khuỷu tay cách xa tôi hàng dặm. Đột nhiên, trong
khi Avis bá cổ bố và ông này, bằng một cánh tay ơ hờ, quàng quanh đứa con gái
cục mịch to đùng của mình, tôi thấy nụ cười của Lolita mất hết ánh ngời và trở
thành một cái bóng nhỏ đông cứng lại của chính nó, và con dao bổ hoa quả tuột
khỏi bàn rơi xuống, cái cán bạc của nó đập vào mắt cá chân em khiến em hức lên
và ngồi thụp xuống, đầu chúi về phía trước, rồi, nhảy lò cò một chân, mặt rúm
lại như sắp sửa mếu, cái kiểu mếu mà trẻ con thường duy trì cho đến khi nước
mắt trào ra, em ra khỏi phòng - và Avis liền theo em vào trong bếp để dỗ dành,
Avis, cô bé có một người cha tuyệt vời, béo tốt hồng hào và một đứa em trai bụ
bẫm, và một em gái sơ sinh mới toanh, và một tổ ấm, và hai con chó nhe răng
cười, trong khi Lolita chẳng có gì hết. Và tôi xin kể một vế đi đôi rất xứng
hợp với màn kịch nhỏ này - cũng trong khung cảnh Beardsley. Lolita đang đọc bên
lò sưởi, bỗng vươn vai, rồi giơ một khuỷu tav lên, làu bàu hỏi: “Đúng ra, bà ấy
được chôn ở đâu?” “Ai cơ?” “Dào, ông thừa biết, bà mẹ bị ám sát của tôi chứ còn
ai.” “Còn em thì thừa biết mộ bà ấy ở đâu,” tôi nói, cố tự
chủ, rồi tôi nói tên của nghĩa trang ấy - ở ngay bên ngoài Ramsdale, giữa đường
xe lửa và Đồi Lakeview. “Hơn nữa,” tôi nói thêm, khía cạnh bi kịch của một tai
nạn như vậy bị làm rẻ đi phần nào bởi cái hình dung từ mà em thấy thích hợp để
gán cho nó. Nếu em thực sự muốn thắng ý tưởng về cái chết trong đầu em...”
“Hô,” Lo nói thay vì “hoan hô” và uể oải ra khỏi phòng, và hồi lâu, tôi trân
trân nhìn ngọn lửa trong lò sưởi bằng đôi mắt nhức nhối. Rồi tôi nhặt cuốn sách
của em lên. Đó là một thứ truyện lá cải cho đám trẻ. Nó kể về một cô gái âu sầu
Marion và bà mẹ kế, bà này, ngược với mọi sự chờ đợi, hóa ra lại là một thiếu
phụ tóc đỏ vui tươi, đầy lòng thông cảm, bà giải thích cho Marion hiểu rằng mẹ
quá cố của cô là một phụ nữ anh hùng: biết mình sắp chết, bà cố tình giấu tình
yêu cao cả dành cho Marion vì bà không muốn con gái nhớ tiếc mình. Tôi không
chạy bổ lên phòng em, nước mắt giàn giụa. Xưa nay tôi vốn ưa phép vệ sinh tinh
thần là không can thiệp. Giờ đây, quằn quại và biện bạch với kí ức của mình,
tôi nhớ rằng lần ấy cũng như nhiều lần tương tự, thói quen và phương pháp của
tôi bao giờ cũng là lờ đi không đếm xỉa gì đến tâm trạng của Lolita, trong khi
vỗ về bản ngã đê tiện của chính mình. Khi mẹ tôi, trong chiếc áo dài ướt sũng
nhợt nhạt, dưới sương mù đổ xuống như thác (tôi hình dung bà rõ mồn một như
thế) hổn hển chạy lên tới cái đỉnh núi nhìn xuống Moulinet[5] ấy để rồi bị
sét đánh ở đó, tôi mới chỉ là một đứa hài nhi, hồi cố lại, tôi không bao giờ có
thể tìm thấy một khao khát thèm muốn nào khả dĩ ghép được vào bất kì khoảnh khắc
nào trong tuổi trẻ của tôi, bất kể các bác sĩ tâm lí hỏi vặn vẹo tôi man rợ như
thế nào trong thời kì suy sụp sau này của tôi. Nhưng tôi thừa nhận là một người
có sức tưởng tuợng như tôi không thể xưng xưng cãi là cá nhân mình không hề
biết đến những cảm xúc phổ biến ở mọi người. Có thể tôi đã dựa quá nhiều vào
mối quan hệ giá lạnh đến độ bất bình thường giữa Charlotte và con gái. Nhưng
điểm ghê sợ trong toàn bộ lập luận này là đây: Trong quá trình sống chung kì
quái và thú vật của chúng tôi, Lolita công thức của tôi dần dần thấy rõ rằng
ngay cả cuộc sống gia đình khốn khổ nhất cũng còn hơn cái trò giễu nhại loạn
luân, điều mà, về lâu về dài, là thứ tốt nhất tôi có thể trao tặng cô bé bị bỏ
rơi này.

[4] Tên đầy đủ là Avis Byrd. Một ngón chơi chữ:avis, tiếng
Latinh, nghĩa là chim (bird) ghép với họ Byrd thành một điệp âm “bird bird”
(chim chim).

[5] Một làng nhỏ ở vùng A pes giáp biển (Alpes-Maritimes)
phía Bắc Menon.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3