Lolita - Phần II - Chương 23 - 24
Chương 23
Từ Kasbeam, nơi mà theo tôi biết, con quỉ đỏ đã lập trình để
xuất hiện lần đầu tiên, đến thành phố Elphinstone định mệnh, nơi chúng tôi đặt
chân tới độ một tuần trước Ngày Độc Lập, là một chặng đường khoảng một nghìn
sáu trăm cây số đường nhẵn mượt như dải lụa. Cuộc hành trình đã chiếm đa phần
tháng Sáu vì ít khi vượt quá hai trăm cây số một ngày, chúng tôi qua số thời
gian còn lại, có lần lên tới năm ngày, ở những điểm dừng khác nhau, chắc cũng
được sắp đặt trước tất cả. Vậy là phải lần theo dấu vết của con quỉ dọc theo
chặng đường này; và tôi dốc hết mình vào nhiệm vụ này, sau mấy ngày khôn tả
xiết tới lui sục sạo những con đường tỏa nhánh miên man ở vùng lân cận
Elphinstone.
Độc giả hãy hình dung tôi, với bản tính rụt rè, ghét mọi sự
phô trương, với ý thức cố hữu về sựcomme il faut* (chỉn chu), hãy
hình dung tôi cố che giấu nỗi đau cuồng khấu đằng sau một nụ cười cầu tài run
rẩy trong khi cố bịa ra một cái cớ vu vơ cốt để lật giở quyển sổ đăng kí của
khách sạn: “Ồ, tôi gần như chắc chắn là tôi đã ở đây một đêm... cho phép tôi
xem phần ghi vào sổ quãng giữa tháng Sáu... không, xét cho cùng, tôi thấy mình
đã nhầm... chà, thành phố gì mà có cái tên kì quái thế này, Kawtagain [1].
Cảm ơn lắm lắm.” Hoặc: “Tôi có một khách hàng đã ở đây... tôi để đâu mất địa
chỉ của ông ta... liệu tôi có thể…?” Và thỉnh thoảng, yêu cầu có tính chất
riêng tư này của tôi bị từ chối, nhất là khi người quán lí là một cha giống đực
mặt mày khó đăm đăm.
[1] Đồng âm với “Caught again” nghĩa là bị bắt lại. Khỏi
cần nói chẳng có thành phố nào có cái tên như thế.
Tôi còn giữ ở đây một cuốn sổ ghi nhớ: trong khoảng từ 5
tháng Bảy đến 18 tháng Mười một, ngày tôi trở lại Beardsley mấy hôm, tôi đã ghi
tên trong sổ đăng kí của 342 khách sạn, motel, nhà trọ các loại; tuy không nhất
thiết là đã thực sự qua đêm ở tất cả những nơi đó. Con số này bao gồm cả một số
lần đăng kí ở khoảng giữa Chestnut và Beardsley, trong đó có một lần tạo cơ hội
cho thấy thoáng hiện cái bóng con quỉ (“N. Petit, Larousse, Ill.” [2]);
tôi phải thận trọng phân bố thời gian và không gian cho các cuộc điều tra của
mình để khỏi thu hút sự chú ý; và chắc phải có tới ít nhất năm mươi chỗ mà tôi
chỉ tạt qua hỏi dò ở quầy tiếp tân - nhưng làm thế chỉ uổng công vô ích, và tôi
ưng xây dựng một cái nền thiện chí và có vẻ thật bằng cách ngay từ đầu đã trả
trước tiền thuê một phòng mà tôi không cần đến. Trong số khoảng 300 sổ đăng kí
mà tôi đã xem được trong quá trình điều tra, có ít nhất hai mươi quyển cung cấp
cho tôi một chút manh mối: con quỉ nhênh nhang thậm chí còn hay dừng nghỉ hơn
chúng tôi, hoặc giả - hắn hoàn toàn có thể chơi trò ấy - hắn đã đăng kí khống
thêm nhiều chỗ để chọc giễu tôi bằng những chỉ dẫn đểu. Chỉ có một lần hắn đã
thực sự ở cùng một motel với chúng tôi, chỉ cách đầu giường Lolita có mấy bước.
Trong một số trường hợp, hắn đã đóng “đại bản doanh” trên cùng phố với chúng
tôi hoặc một phố bên cạnh; không ít lần, hắn đã mai phục ở một nơi trung gian
giữa hai địa điểm dự tính trước. Trong kí ức tôi còn rõ mồn một hình ảnh
Lolita, ngay trước khi chúng tôi rời khỏi Beardsley, nằm bò ra trên tấm thảm
phòng khách, nghiên cứu bản đồ và sách hướng dẫn du lịch, lấy son môi đánh dấu
từng chặng và điểm dừng chân!
[2] Viết tắt đầu đề cuốn từ điển tiếng Pháp Nouveau Petit
Larousse lllustré.
Tôi phát hiện ngay ra rằng hắn đã tiên đoán những điều tra
của tôi và đã đặt các biệt danh thóa mạ dành riêng cho tôi. Ở ngay motel đầu
tiên tôi đến, Ponderosa Lodge, biệt danh hắn dùng để đăng kí lồ lộ giữa một
chục cái tên khác hiển nhiên là tên người: tiến sĩ Gratiano Forbeson, Mirandola, NY [3].
Dĩ nhiên, cái hàm ý qui chiếu về hài kịch Ý không khỏi làm tôi chú ý. Bà quản
lí khách sạn hạ cố cho tôi biết ông khách đó đã nằm liệt giường năm ngày vì một
cơn cảm hàn tai ác; đã gửi xe ở một ga ra nào đó để sửa chữa và đã trả phòng
vào đúng hôm mồng 4 tháng Bảy. Phải, một cô gái tên là Ann Lore trước đây đã
làm ở khách sạn này, nhưng nay đã lấy một chủ tiệm thực phẩm khô ở Cedar City.
Một đêm sáng trăng, tôi mai phục Mary đi giày trắng ở một phố vắng; như một
người máy, ả toan rú lên, nhưng tôi đã kịp hoàn nhân cho ả bằng cái hành động
đon giản là quì gối và rền rĩ van xin ả giúp đỡ. Ả thề rằng ả chẳng biết gì.
Cái tay Gratiano Forbeson ấy là ai? Ả có vẻ hơi lưỡng lự. Tôi xoẹt ra một tờ
trăm đô la. Ả giơ nó lên soi dưới ánh trăng. “Ông ta là chú của ông,” cuối
cùng, ả thì thào. Tôi giật tờ giấy bạc khỏi bàn tay lạnh giá ánh trăng và vừa
văng ra một câu chửi thề bằng tiếng Pháp vừa quay ngoắt đi, chạy biến. Chuyện
này dạy tôi chỉ có thể dựa vào bản thân mình thôi. Không thám tử nào có thể khám
phá ra những đầu mối mà Trapp đã cài cho phù hợp với cung cách và nếp nghĩ của
tôi. Tất nhiên, tôi không thể hi vọng là hắn sẽ để lại tên và địa chỉ chính
xác; nhưng tôi vẫn hi vọng là hắn có thể trượt chân trên lớp vẹc-ni láng bóng
sự tinh vi của chính mình do cả gan đưa vào, chẳng hạn, một vệt màu đậm hơn, rõ
cá tính hơn mức cần thiết tối thiểu, hoặc do tiết lộ quá nhiều qua việc bổ sung
chất lượng cho yếu tố số lượng mà nếu để nguyên thì bộc lộ quá ít. Có một điều
hắn thành công: làm cho tôi, tôi và nỗi đau quằn quại của tôi, mắc hoàn toàn
vào mành lưới do trò chơi quỉ quyệt của hắn giăng ra. Với một kĩ thuật vô cùng
khéo léo, hắn chao đảo, tròng trành, rồi lấy lại thăng bằng một cách không tin
nổi, luôn để cho tôi một hi vọng đầy tinh thần thể thao - nếu tôi có thể dùng
cụm từ như vậy khi nói về phản trắc, cuồng nộ, hoang tàn, khủng khiếp và căm
thù - rằng lần sau hắn có thể lộ mặt. Điều đó không bao giờ xảy ra - mặc dù, mẹ
kiếp, đôi khi chỉ thiếu chút xíu nữa. Tất cả chúng ta ai nấy đều khâm phục người
làm xiếc mặc đồ trang kim, đầy vẻ duyên dáng cổ điển, đi trên một sợi dây căng
thẳng cực kì chính xác trong ánh sáng như rắc phấn rôm; nhưng còn cao siêu hơn
gấp bội, là nghệ thuật của người đi trên dây chùng, trang phục như thằng bù
nhìn rơm, đóng giả một gã say nhố nhăng! Tôi biết thế.
[3] Trong commedia dell’arte, một hlnh thức sân khấu của
Ý khởi từ thế kỉ 12 và phát triển cực thịnh vảo thế kỉ 16 và 17, tiến sĩ
Gratiano cùng một lúc là triết gia, nhà thiên văn học, văn nhân, kẻ âm mưu
chính trị, luật sư, nhà ngữ pháp, nhà ngoại giao và nhà vật lí. Khi ông ta nói,
người ta không thể phân biệt được đó là ngôn ngữ gì và luôn luôn trích dẫn méo
mó những danh ngôn bằng tiếng Latinh hay Hi Lạp. Cử tọa thường phải cắt ngang
và cho ông ta ăn đòn để chặn đứng “ngọn triều hùng hồn của diễn giả".
Mirandola là bịa: không có thành phố nào mang tên đó.
Những đầu mối hắn để lại không giúp xác định nhân thân của
hắn, nhưng phản ánh cá tính của hắn, hay ít ra, một cá tính thuần nhất và nổi
bật nào đó; về một phương diện cụ thể: cái loại, cái kiểu hài hước - ít nhất
vào những lúc thăng hoa nhất -cái giọng điệu trí não, hắn có những nét tương
đồng với tôi. Hắn nhại bộ điệu của tôi và giễu tôi. Hắn biết tiếng Pháp. Hắn
rất sành ngón làm xiếc với chữ và bói chữ [4]. Hắn ham tích lũy vốn kiến
thức tình dục. Tự dạng của hắn đầy nữ tính. Hắn có thể thay tên đổi họ, nhưng
muốn thế nào mặc lòng, hắn vẫn không thể ngụy trang được những chữ t, w và l
rất đặc biệt của hắn. Quelquepart [5] Island là một trong những nơi
cư trú ưa thích của hắn. Hắn không dùng bút máy, điều này tự bản thân nó nói
lên, như bất kì nhà tâm phân học nào đều sẽ cho ta biết, rằng người bệnh là một
thủy thần [6] tâm thức bị dồn nén. Đội ơn Chúa, hi vọng rằng ở Sông
Mê cũng có nữ thủy thần.
[4] “Logodaedaly”: thuật chơi chữ, làm trò ảo thuật với
ngôn từ, “bịa” chữ. Để chứng tỏ mình rành môn này, liền sau đó H.H. “bịa” luôn
từ “logomancy” bằng các ghép đầu ngữ “logo” (chữ) với vĩ ngữ “mancy” (từ tiếng
Hy Lạp “manteia” nghĩa là đoán, ghép với những phương thức đặc thù, như
“cartomancy”: bói bài, “chiromancy”: coi chỉ tay…).
[5] Tiếng Pháp: ở đâu đó.
[6] Nguyên văn: “undinist”. “Undinist", theo định
nghĩa trong Urban Dictionary là: 1/người đàn ông dễ bi gợi dục bởi
nước; 2/ người đàn ông thích đái vào phụ nữ. Nhưng theo The
Annotated Lolita của Alfred Appel, Jr, một “undinist” là một nữ thủy thần mà
nếu lấy được một người trần, sẽ có linh hồn. “Nhưng,” chính Nabokov bổ sung,
“điểm chủ yếu là undinist này lại là một người (thường là nam) bị kích dục khi
thấy một người khác (thường là nữ) đang đái. Theo tinh thần ấy, chúng tôi tạm
dịch là “thủy thần”.
Nét đặc điểm chính của hắn là mê thích cái trò nhử để chọc
tức. Chúa ơi, cái thằng cha này mới đùa dai làm sao! Hắn thách thức học vấn của
tôi. Tôi tự hào về một số hiểu biết khá đủ để khiêm tốn hiểu rằng mình không
thể biết tất cả; và tôi phải công nhận rằng tôi thiếu một số yếu tố trong cuộc
đua văn tự mã hóa này. Có lần tấm thân mảnh dẻ của tôi xiết bao hồi hộp run lên
vì đắc thắng và kinh tởm khi, giữa những cái tên chân phương và hồn nhiên trong
sổ đăng kí của một khách sạn, trò đố chữ quỉ quái của hắn xuất tinh đánh phọt
một cái vào giữa mặt tôi! Tôi nhận thấy khi nào câu đố của hắn trở nên quá bí
hiểm, ngay cả với một kẻ giải mã cỡ tôi, hắn liền quay về các câu dễ để dụ tôi.
“Arsène Lupin” [7] là rành rành đối với một ngưòd Pháp còn nhớ những
truyện trinh thám đã đọc hồi trẻ; và đâu cần phải là một nguời chuyên nghiên
cứu về Coleridge mói đánh giá được lời châm chọc quá nhàm “A. Person, Porlock,
England” [8]. Một số tên giả hắn dùng thật mô-ve-gu khủng
khiếp, nhưng, về cơ bản, vẫn cho thấy hắn là người có học - chứ không phải một
cảnh sát, một tên thủ hạ tầm thường, một gã chào hàng dâm đãng - chẳng hạn
“Arthur Rainbow - rành là giả trang tác giả của Le Bateau Bleu -
xin các vị cho phép tôi cũng được cười một tí - và “Morris Schmetterling”, tác
giả trứ danh củaL’Oiseau Ivre (touché* (trúng pắp), bạn đọc
ạ!) [9]. Cái tên đần độn nhưng ngộ nghĩnh “D. Orgon, Elmira, NY” cố nhiên
là mượn từ Molière [10], và vì mới đây thôi, tôi đã cố làm cho Lolita quan
tâm đến một vở kịch nổi tiếng của thế kỉ mười tám, nên tôi hoan nghênh như một
người bạn cũ cái tên “Harry Bumper, Sheridan, Wyo.” [11]. Một bộ bách khoa
toàn thư bình thường cung cấp cho tôi thông tin về cái nhân vật kì dị “Phineas
Quimby, Lebanon, NH” [12]; và bất kì tín đồ tốt nào của Freud mang một cái
tên Đức và có đôi chút quan tâm đến chuyện mãi dâm tôn giáo, ắt chỉ liếc nhìn
một cái cũng đủ nhận ra hàm ý của “Tiến sĩ Kitzler, Eryx, Miss.” [13]. Cho
tới đây thì vẫn ổn. Cái kiểu giỡn mặt này là mạt hạng, nhưng nhìn chung, thiếu
cá tính và do đó, vô hại. Tôi không muốn nhắc đến khá nhiều trong số những tên
đăng kí khiến tôi chú ý với tư cách rành là đầu mốiper se [14] không
thể nghi ngờ, nhưng lại làm tôi bối rối về hàm ý tinh vi của chúng, vì tôi có
cảm giác như mình đang lần mò trong một vùng giáp ranh mù sương với những bóng
ma ngôn từ có khả năng vụt biến thành những người đi nghỉ mát bằng xương bằng
thịt. Anh chàng “Johnny Randall, Ramble, Ohio” này là ai vậy? Hay anh ta là một
người có thật, chỉ tình cờ có nét chữ viết giống với “N.S.Aristoff, Catagela,
NY” thôi? Cái nọc độc trong “Catagela” [15] nằm ở đâu. Và còn “James
Mavor Morell [16], Hoaxton, Anh Quốc” thì sao? “Aristophanes”, “hoax” -
đúng rồi, nhưng có thiếu gì nữa chăng?
[7] Nhân vật chính trong các tiểu thuyết trinh thám của
nhà văn Pháp Maurice Leblanc (1864-1941).
[8] Nhà thơ Anh Samuel Taylor Coleridge (1772-1834),
trong bài thơ “Kubla Khan”, có một ghi chú giải thích giấc mơ của mình bị ngắt
đứt như thế nào: “At this mome it, he was unfortunately called out by a person
on business from Porlock (Vào lúc ấy, chẳng may có một người từ Porlock gọi ông
vì công chuyện)”. Quilty đã ghép mấy chữ (người dịch in nghiêng) trong câu này
thành cái tên “A. Person, Poriock” để đăng kí vào sổ của khách sạn.
[9] H. H. coi như độc giả đương nhiên hiểu được những câu
đố “dễ” này. Rainbow (nghĩa là cầu vồng) gần như đồng âm với Rimbaud (xem chú
thích ở chương 18, Phần Một) và Morris Schmetterling đương nhiên là nhằm vào
Maurice Maeterlinck (xem chú thích ờ chương 13, Phần Hai). Có điều hai tính từ
“ivre” và "bleu” trong hai tác phẩm của họ - bài thơ “Le Bateau Ivre” (Con
tàu say) và vở kịch “L'Oiseau Bleu“ (Con chim xanh) được hoán vị cho nhau.
[10] Orgon là chồng của Elmire trong vở Tartuffe của
Molière (1622-1673), kịch tác gia lớn của Pháp.
[11] Bumper là nhân vật trong vở The School for Scandal
(Trường dạy gây bê bối) của Richard Sheridan (1751-1816).
[12] Trong thần thoại cỏ Hi Lạp, Phineas đã chì dẫn cho
Jason tìm được Bộ Lông Cừu Vàng. Còn Phineas Quimby (1802-1866) là một nhà khoa
học Mĩ đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu điều trị bệnh tâm thần.
[13] “Kitzler”, tiếng Đức, nghĩa là âm vật. “Eryx” là tục
thờ nữ thần tình yêu Aphrodite (hay Venus) trong đó việc hành nghề “mãi dâm tôn
giáo” là có thật. Dạng viết tắt của Mississipi – “Miss” – cũng là chỉ danh của
hoa hậu trong các cuộc thi sắc đẹp. Vậy nên cụm chơi chữ này có thể đọc thành:
“tiến sĩ Âm vật, Venus, hoa hậu”.
[14] Tiếng Latinh: tự thân.
[15] Catagela là tên (bịa) của một thành phố trong vở
Người Acharnia của Aristophanes (445-385 trước Công nguyên), kịch tác gia cổ Hi
Lạp, gốc từ tiếng Hi Lạp, có nghĩa là “cười nhạo”.
[16] James Mavor Morell là một trong những nhân vật chính
trong vở Candida của nhà viết kịch Ailen Georges Bernard Shaw (1856-1950).
Hoxton là một địa danh trong đó. Quilty thêm chữ cái a vào thành Hoaxton, ra ý
rằng hắn thường trú ở “hoax town” (thành phố đánh lừa, chơi xỏ).
Có một nét xuyên suốt cái mớ tên đểu ấy, luôn gây cho tôi
những phấp phỏng đặc biệt đau đớn mỗi khi nó lộ diện. Những thứ như “G. Trapp,
Geneva, NY” là dấu hiệu phản trắc từ phía Lolita. “Aubrey Beardsley,
Quelquepart Island” là một gợi ý sáng rõ hơn, so với cái lời nhắn rối rắm qua
điện thoại, rằng nên tìm điểm xuất phát của toàn bộ vụ việc này ở miền Đông.
“Lucas Picador, Merrymay, Pa.” [17] ám chỉ rằng Carmen của tôi đã
tiết lộ cho tên mạo danh biết những từ âu yếm lâm li tôi thường dùng để gọi em.
Độc ác đến khủng khiếp, thật vậy, là “Will Brown, Dolores, CoIo.” [18].
Dòng ghi gớm ghiếc “Harold Haze, Tombstone, Arizona” [19] (mà vào một
lúc khác ắt đã hấp dẫn ý thức hài hước của tôi) hàm ý biết rành quá khứ của cô
bé khiến tôi, trong một thoáng và theo một cách thảng thốt như trong ác mộng,
đồ rằng con mồi của tôi từng là một người bạn cũ của gia đình, có thể là một
người yêu cũ của Charlotte, có thể là một kẻ chuộc lỗi (“Donald Quix, Sierra,
Nev.”). Nhưng cú dao đâm thấm thía nhất là dòng ghi theo phép đảo chữ trong sổ
đăng kí của khách sạn Chestnut Lodge “Ted Hunter, Cane, NH.” [20].
[17] Trong tác phẩm Carmen của Prosper Mérimée, Lucas, kị
sĩ dùng thương trong các cuộc bò tót (picador), là người tình cuối cùng của
Carmen. Merrymay không phải là địa danh có thực, mà là một phiên âm kiểu Mĩ của
Mérimée. Pa., dạng viết tắt của Pennsylvania, ở đây là một lời gọi giễu của
Lolita cho H.H.: “Thế đấy, ba ạ!”.
[18] Quilty nhại H. H. Xem câu đầu khổ thơ của R.
Brovvning được dẫn ờ chương 27, Phần Một: “Đức Thánh, thật vậy. Trong khi
Dolores tóc nâu” (Saint, torsooth. VVhile brown Dolores). Hai tiếng “thật vậy”
H. H. thốt ra là một sự xác nhận.
[19] Harold Haze: người cha quá cố của Lolita. Tombstone:
bia mộ.
[20] Được tạo thành bằng cách đảo trật tự các chữ cái
trong “Enchanted Hunter”.
Những số xe lung tung mà tất cả những cha mang tên Person,
Orgon, Morell, Trapp ấy để lại, chỉ khẳng định một điều: những người quản lí
motel không hề kiểm tra xem xe của khách có đăng kí hợp lệ hay không. Những đề
cập - không đầy đủ và không đúng cách - đến những chiếc xe mà con quỉ đã thuê
từng chặng ngắn giữa Wace và Elphinstone, dĩ nhiên là đều vô dụng; số của chiếc
Aztec đầu tiên là một mớ lung linh các con số biến hóa, con thì chuyển vị, con
thì được sửa lại hoặc bỏ đi, nhưng cách nào đó vẫn tạo thành những kết phối
liên quan với nhau (chẳng hạn như “WS 1564” và “SH 1616” và “Q32888” hay “CU
88322”) chúng được xếp đặt một cách ranh ma đến nỗi không bao giờ để lộ một mẫu
số chung nào.
Tôi chợt nghĩ, sau khi hắn trả chiếc xe mui trần cho bọn
đồng lõa ở Wace và chuyển sang hệ thống thay xe từng chặng theo kiểu ngựa trạm,
những người thuê sau hắn có thể kém thận trọng và ghi vào sổ một khách sạn nào
đó nguyên mẫu của các con số tương quan kia. Nhưng nếu tìm cái con quỉ ấy theo
một con đường mà tôi biết hắn đã chọn đã là một công việc phức tạp đến thế, mơ
hồ đến thế và vô vọng đến thế, thì mọi cố gắng dò theo những kẻ xa lạ rong ruổi
xe trên các lộ trình xa lạ phỏng có ăn thua gì?
Chương 24
Vào lúc tôi tới Beardsley, sau cả một thời gian day dứt tổng
kết lại sự việc mà tôi đã kể lại khá dài dòng, một hình ảnh trọn vẹn đã hình
thành trong đầu tôi; và qua quá trình loại trừ - bao giờ cũng nguy hiểm - tôi
đã qui hình ảnh đó về cái nguồn cụ thể duy nhất mà sự suy xét bệnh hoạn và trí
nhớ đờ đẫn có thể gán cho.
Ngoại trừ Đức cha Rigor Mortis [1] (như bọn học
trò con gái gọi lão thế) và một ông già dạy tiếng Đức và tiếng Latinh, hai môn
không bắt buộc, trường Beardsley không có giáo sư nam chính ngạch nào khác.
Nhưng có hai lần, một giảng viên nghệ thuật bên trường Đại học Beardsley sang
giới thiệu cho các nữ sinh xem các lâu đài và tranh của Pháp thế kỉ mười chín
qua đèn chiếu. Tôi đã muốn đến dự những buổi chiếu và thuyết trình đó, nhưng
Dolly, như thường lệ, dứt khoát yêu cầu tôi đừng đến. Tôi cũng nhớ là Gaston đã
nhắc tới chính tay thuyết trình viên này, khen gã là một garcon* (gã
trai) xuất sắc; nhưng chỉ chừng đó thôi; trí nhớ từ chối không cung cấp cho tôi
tên của gã máu mê lâu đài đó.
[1] “Sự cứng đờ của xác chết”: chỉ Gaston.
Vào hôm ấn định cho việc thực thi kế hoạch, tôi bước trên
lớp tuyết đang tan, qua khuôn viên trường Đại học Beardsley, đến phòng chỉ dẫn
trong Maker Hall của trường. Tại đây, tôi được biết rằng họ gã là Riggs (khá
giống với họ của cha tuyên úy), rằng gã sống độc thân và rằng mươi phút nữa, gã
sẽ ra khỏi “Bảo tàng”, nơi gã đang có giờ giảng. Trong hành lang dẫn tới giảng
đường, tôi ngồi trên một chiếc ghế băng cẩm thạch, quà tặng của Cecilia
Dalrymple Ramble. Trong khi ngồi chờ đó trong một trạng thái bí đái, say khướt,
đói ngủ, tay thủ trong túi áo mưa khư khư nắm khẩu súng ngắn, tôi chợt nghĩ ra
rằng mình điên và sắp sửa làm một điều ngu xuẩn gì đó. Không thể có một phần
triệu tỉ lệ xác suất rằng Albert Riggs, trợ lí giáo sư, đang giấu Lolita của
tôi ở nhà gã, số 24 đường Pritchard, Beardsley. Gã không thể là tên gian tặc.
Hoàn toàn phi lí. Tôi đang phí phạm thì giờ và tâm trí. Hắn và em đang ở California chứ đâu có ở
đây. Thế rồi tôi nhận thấy một sự nhốn nháo gì độ đằng sau mấy pho tượng trắng;
một cánh cửa - không phải cái tôi đang trân trân nhìn - mở phắt ra và giữa một
bầy nữ sinh, một cái đầu hoi hói và một cặp mắt nâu lấp lánh, nhấp nhô tiến
tới.
Gã là một kẻ hoàn toàn xa lạ đối với tôi, nhưng gã khăng
khăng là chúng tôi đã gặp nhau tại một cuộc liên hoan ngoài trời ở trường
Beardsley. Cô con gái tuyệt vời chơi quần vọt của tôi có khỏe không? Gã còn có
một giờ giảng khác. Hẹn gặp lại.
Một nỗ lực điều tra khác không được kết thúc chóng vánh như
thế: qua một mục quảng cáo trên một số tạp chí của Lo, tôi đánh bạo tiếp xúc
với một thám tử tư, một cựu võ sĩ quyền Anh và chỉ để giúp anh ta có một khái
niệm về phương phápmà con quỉ vận dụng, tôi đã cung cấp cho anh ta
các loại tên và địa chỉ tôi thu thập được. Anh ta đòi một khoản đặt cọc nặng
đô, và trong hai năm - hai năm, ôi quí độc giả! Cái cha ngu xuẩn ấy miệt mài
kiểm tra những dữ liệu vô nghĩa ấy. Và khi tôi đã thôi liên hệ gì về tiền nong
với anh ta từ lâu, thì bỗng một hôm, anh ta xuất hiện trở lại với vẻ đắc thắng,
báo cho tôi biết là có một lão già tám mươi tuổi người Anhđiêng tên là Bill
Brown sống ở Dolores, Colo.