Lolita - Phần II - Chương 13 - 14
Chương 13
Vào lúc mùa xuân điểm xuyết những sắc màu vàng-xanh-hồng
thắm vào phố Thayer Street
thì Lolita đã đắm đuối với sàn diễn đến độ không sao xa rời nổi. Một hôm Chủ
nhật, tôi tình cờ thấy Pratt ăn trưa với mấy người ở quán Walton Inn, bà ta bắt
gặp luồng mắt của tôi từ xa, liền tỏ thiện cảm bằng cách kín đáo vỗ tay, trong
khi Lo không nhìn về hướng ấy. Tôi thậm ghét sân khấu và, nói theo quan điểm
lịch sử, coi nó là một loại hình nguyên thủy, thối rữa; một loại hình sực mùi
nghi thức thời đồ đá và những thứ nhăng nhít thời công xã, mặc dù thi thoảng
được chế vào tí ti thiên tài cá nhân, chẳng hạn như mạch thơ thời Nữ hoàng
Elizabeth mà một độc giả cặm cụi trong phòng có thể chắt ra từ cả mớ chả khó
khăn gì. Hồi ấy, bận bù đầu với những công trình văn chương của chính mình, tôi
chẳng rỗi hơi đọc toàn bộ văn bản Những thợ săn bị mê hoặc, vở kịch
nhỏ trong đó Dolly Haze được phân sắm vai con gái một nông dân; cô này tưởng
tượng mình là một nữ phù thủy miền sơn cước, hoặc là nữ thần săn bắn Diana,
hoặc gì gì đó, và, nhờ vớ được một cuốn sách về thuật thôi miên, làm cho một số
thợ săn bị lạc đắm vào những cơn mê loạn tức cười, trước khi chính cô, đến lượt
mình, rơi vào vòng si mê một thi sĩ lang thang (Mona Dahl). Đó là những gì tôi
lượm lặt được từ những tờ kịch bản đánh máy lem nhem và nhàu nát mà Lo để vương
vãi khắp nơi trong nhà. Cách nào đó, sự trùng hợp của nhan đề vở kịch với tên
của một lữ quán không thể quên mang lại một niềm thích thú đượm chút u sầu: tôi
mệt mỏi tự nhủ rằng đừng có dại mà lưu ý kẻ đã mê hoặc chính tôi đến điểm đó,
kẻo lại bị kết tội một cách trơ tráo là ướt át mùi mẫn, và điều này thậm chí có
thể còn làm tôi tổn thương hơn cả việc em không tự mình nhận ra sự trùng hợp
ấy. Tôi đồ rằng vở kịch nhỏ này chỉ là một dị bản khác, hầu như khuyết danh,
của một giai thoại tầm thường nào đó. Dĩ nhiên, chẳng có gì ngăn ta giả dụ
rằng, người sáng lập ra khách sạn, trong khi tìm kiếm một cái tên hấp dẫn, đã
chịu ảnh hưởng trực tiếp và duy nhất bởi sự ngông tưởng ngẫu nhiên của tay họa
sĩ hạng hai vẽ tranh tường mà ông ta đã thuê, và rồi sau đó, tên của khách sạn
lại gợi ý cho nhan đề của vở kịch. Nhưng với đầu óc cả tin, giản đơn, nhân hậu
của mình, tôi đảo ngược trật tự diễn biến và chẳng cần suy nghĩ thực sự sâu xa
về toàn bộ vấn đề, tôi giả định rằng cả ba - tranh tường, tên khách sạn và nhan
đề vở kịch - đều xuất xứ từ một nguồn chung, từ một truyền thống nào đó của địa
phương mà tôi, một kẻ ngoại bang mù mờ về văn hóa dân gian New England, không
nhất thiết được xem như biết rành. Do đó, tôi cứ có cảm giác (toàn bộ điều này
là ngẫu nhiên thôi, các vị hiểu cho, hoàn toàn nằm ngoài quĩ đạo của những gì
quan trọng) rằng cái vở kịch nhỏ chết tiệt kia thuộc về cái loại trò bốc đồng
được soạn đi soạn lại nhiều lần dành cho tuổi trẻ, như Hansel và Gretel của
Richard Roe, hoặc Người Đẹp ngủ trong rừng của Dorothy Doe,
hoặc Bộ quần áo mới của Hoàng Đế [1] của Maurice Vermont
và Marion Rumpelmeyer - tất cả những thứ vớ vẩn này đều có thể tìm thấy trong
bất kì tuyển tập Plays for School Actors (Kịch cho diễn viên
trường phổ thông) hay Let’s Have A Play (Ta hãy dựng một vở
kịch) nào! Nói cách khác, tôi không biết - hoặc nếu có biết thì cũng bất cần -
rằng Những thợ săn bị mê hoặc thực ra là một vở độc đáo về mặt
kĩ thuật, được soạn rất gần đây và được một nhóm trí thức ở New York trình diễn
lần đầu mới cách đây có ba, bốn tháng thôi. Đối với tôi - trong chừng mực tôi
có thể nhận định từ vai của người bỏ bùa cho tôi - nó có vẻ như một thứ trước
tác làm cảnh xoàng xĩnh, đầy những dư vang đến từ Lenormand, Maeterlinck và
những nhà mộng mơ trầm lắng người Anh [2]. Đám thợ săn đội mũ đỏ, ăn vận
giống nhau, trong đó một người là chủ nhà băng, người thứ hai là thợ ống nước,
người thứ ba là cảnh sát, người thứ tư cho thuê xe đòn đám ma, người thứ năm
nhân viên bảo hiểm, người thứ sáu vừa trốn khỏi nhà tù (quí vị thấy biết bao
khả năng!) trải qua một chuyển biến tâm thái hoàn toàn trong Thung lũng nhỏ của
Dolly và chỉ còn nhớ về cuộc đời thực của mình như những giấc chiêm bao hoặc ác
mộng từ đó Diana bé nhỏ đã đánh thức họ ra; nhưng tay Thợ Săn thứ bảy (cái gã
ngu xuẩn này lại đội mũ xanh) là một Thi Sĩ Trẻ, gã một mực cả
quyết rằng cả Diana lẫn các trò vui (cuộc khiêu vũ của các nữ thần, quỉ lùn
cùng quái vật) đều là do gã, Thi Sĩ này, bịa ra và lời mạo nhận đó khiến nàng
rất phiền lòng. Theo chỗ tôi hiểu, cuối cùng, Dolores-chân-đất, quá ngán với
cái thói vênh váo đó, phải đưa gã huếnh (Mona mặc quần ca rô) về nhà trại của
cha ở bên kia Khu Rừng Hiểm Nghèo để chứng tỏ với gã rằng nàng không phải là
sản phẩm của trí tưởng tượng một nhà thơ, mà là một thôn nữ chân lấm tay bùn -
và một nụ hôn vào phút cuối để nhấn mạnh cái thông điệp sâu xa của vở kịch, cụ
thể là ảo ảnh và thực tại quyện vào nhau thành tình yêu. Tôi tự nhủ chớ có dại
mà đi phê phán cái của khỉ này trước mặt Lo: em đang dốc hết tâm trí một cách
lành mạnh vào những “vấn đề biểu hiện”, và em chắp đôi bàn tay nhỏ, mềm mại,
một cách duyên dáng xiết bao, chóp chóp hàng mi và xin tôi đừng có đến những
buổi tập như một số bậc cha mẹ lố lăng nọ, vì em muốn chói sáng khiến tôi ngỡ
ngàng vào Đêm Công Diễn Đầu Tiên - và vì, bất kể thế nào, tôi cũng luôn xía vô
và nói những điều trật lấc, khiến diễn xuất của em đâm mất thoải mái trước mặt
những người khác.
[1] Cả ba vở này đều được phỏng theo những truyện cổ tích
nhằm đề tài mê hoặc và lừa lọc.
[2] Henri René Lenormand (1882-1951), kịch tác gia Pháp
được coi là thuộc dòng Freud, nhưng ông nói rằng kịch của mình dựa trên những
xung đột cảm xúc hơn là trên trí năng. Tác phẩm nổi bật: Thời gian là một
giấc mơ (1919) và Dưới bóng cái ác (1924). Maurice Maeterlinck
(1862-1949), nhà văn Pháp gốc Bỉ, đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1911. Có
ảnh hưởng sâu rộng nhất vào thập niên cuối của thế kỉ 19 và thập niên đầu của
thế kỉ 20, thời kì đỉnh cao của ông. Pelléas và Mélisande (1892)
và Con chim xanh(1909) là hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. “Những nhà
mộng mơ người Anh” được nhắc tới ở đây là: Sir James M. Barrie (1860-1937),
tiểu thuyết gia và kịch tác gia người Xcôtlen, tác giả củaPeterPan (1904)
và Một nụ hôn cho Nàng Lọ Lem(1916) và Lewis Carroll (1832- 1898), nhà văn
Anh, tác giả cuốn Alice ở xứ sở thần tiên.
Có một buổi tập rất đặc biệt... tim tôi, ôi trái tim tôi...
có một ngày tháng Năm đầy kích động vui vẻ - tất cả vèo qua như một tia chớp,
ngoài tầm nhận thức của tôi, không để lại chút dấu vết nào trong kí ức tôi, và
khi tôi gặp lại Lo sau đó, vào cuối chiều, em giữ thăng bằng trên yên xe đạp,
áp lòng bàn tay lên lớp vỏ ẩm ướt của một cây phong non bên rìa bãi cỏ nhà
chúng tôi, nụ cười âu yếm rạng ngời của em khiến tôi ngạc nhiên đến nỗi, trong
một thoáng, tôi ngỡ tất cả những khúc mắc giữa chúng tôi đã tan biến. “Mình có
nhớ,” em nói, “tên của cái khách sạn... mình biết đấy (nheo mũi), thôi nào,
mình lạ gì... cái khách sạn có những cột trắng và con thiên nga bằng cẩm thạch
ở sảnh ấy? Chao, mình thừa biết (thở hắt ra hào hển)... cái khách sạn nơi mình
đã hiếp em ấy. Ôkê, thôi bỏ qua. Này, có phải (gần như thì thầm) là Những
thợ săn bị mê hoặc không? Ồ, đúng chứ? (bâng khuâng) Đúng thế chứ?” -
và phá lên cười, một tiếng cười đượm tình yêu và xuân sắc, em vỗ vào thân cây
bóng loáng và lao lên dốc tới cuối phố, rồi quay trở xuống, thả đà ổ líp, chân
để nguyên trên bàn đạp, tư thế thư giãn, một bần tay mơ mộng đặt lên trên cặp
đùi dưói lớp vải hoa.
Chương 14
Vì điều này coi như gắn liền với niềm say mê khiêu vũ và
kịch nghệ của em, tôi cho phép Lo học piano tại nhà một Miss Emperor [1] (như
bọn trí thức Pháp chúng tôi có thể thuận miệng gọi bà ta như thế); bà này ở một
ngôi nhà nhỏ màu trắng có cửa chớp sơn xanh cách Beardsley khoảng một cây rưỡi,
Lo có thể guồng xe đạp tới mỗi tuần hai lần. Một tối thứ Sáu khoảng cuối tháng
Năm (độ một tuần sau cái buổi tập đặc biệt mà Lo không muốn tôi đến dự), chuông
điện thoại reo trong thư phòng của tôi, nơi tôi đang càn quét các quân vây
quanh Nhà Vua bên Gustave [2] - tôi muốn nói là Gaston - và đầu dây
đằng kia, Miss Emperor hỏi thứ Ba tới, Lo có đến học không vì em đã bỏ học cả
thứ Ba vừa rồi lẫn hôm nay. Tôi nói thế nào em cũng đến và tiếp tục chơi nốt
ván cờ. Như độc giả có thể dễ dàng hình dung ra, năng lực của tôi lúc này đã
suy giảm, và sau đó một vài nước, khi đến lượt Gaston đi, tôi nhận thấy, qua
màn sương mù, lão sẽ có thể bắt được Hoàng Hậu bên tôi; lão cũng nhận thấy thế,
nhưng ngỡ đó có thể là một cái bẫy do đối thủ đầy mưu mẹo giăng ra, lão phân
vân đến cả một phút, thở ậm ạch và khò khè, lắc lư hai cái má sệ, thậm chí còn
lấm lét nhìn trộm tôi, và chụm những ngón tay múp míp dấn quân tiến lên những
bước ngập ngừng - thèm nhỏ dãi muốn bắt quân Hậu cực kì hấp dẫn, mà chưa dám -
rồi đột ngột chộp lấy nó (biết đâu cú ấy chẳng dạy cho lão sau này dám táo bạo
hơn?) và tôi trải qua một giờ thê thảm để có được một ván cờ hòa. Lão uống nốt
chỗ rượu brandy của mình rồi lạch bạch đi khỏi, hoàn toàn thỏa mãn với kết quả
đó (mon pauvre ami, je ne vous ai jamais revu et quoiqu ’ily ait bien peu de
chance que vous voyiez mon livre, permettez-moi de vous dire queje vous serre
la mam bien cordialement, et que toutes mes fillettes vous saluent* (ông
bạn tội nghiệp của tôi, từ đó tôi không bao giờ gặp lại ông nữa và mặc dù chẳng
có mấy cơ may ông thấy được cuốn sách của tôi, hãy cho phép tôi nói rằng tôi
siết chặt tay ông rất thân ái và rằng tất cả các bé gái của tôi chào ông)). Tôi
tìm thấy Dolores Haze ngồi ở bàn bếp, miệng ngốn một khúc bánh nhồi thịt, mắt
dán váo những trang kịch bản. Đôi mắt ấy ngước lên giao mắt tôi với một vẻ lãng
đãng thiên thần. Em vẫn bình tĩnh lạ thường khi đối mặt với sự phát hiện của
tôi và nói d’un petit airỷaussement contri* (với một vẻ ăn năn
giả trá) rằng em tự biết mình là một đứa bé rất xấu nhưng quả thật em không sao
cưỡng nổi sự cám dỗ và đã dùng toàn bộ những giờ học nhạc ấy - ôi Độc Giả, Độc
Giả của tôi! - để cùng Mona đến một công viên gần đó tập cái màn thần diệu
trong rừng. Tôi nói “được lắm” và cả quyết bước tới máy điện thoại. Mẹ của Mona
trả lời: “À, vâng, nó có nhà đấy” và rút lui với cái điệu cười trung lập nhưng
thích thú của một bà mẹ lịch sự và lớn tiếng gọi vọng xuống “Roy gọi đấy!” và
liền sau đó, Mona sột soạt đi lên, và ngay lập tức, bằng một giọng đơn điệu
nhưng không kém phần âu yếm, bắt đầu trách Roy về một điều gì đó mà cậu ta đã
nói hoặc làm, và tôi ngắt lời cô ta, và Mona liền nói bằng cái giọng nữ trầm
nhún nhường nhất và gọi dục nhất của mình, “vâng, thưa ông,” “chắc chắn thế,
thưa ông,” “trong cái vụ việc đáng tiếc này, thưa ông, lỗi thuộc về một mình
cháu,” (nói năng thật lưu loát! thật đĩnh đạc bình tĩnh!) “thực tình, cháu cảm
thấy rất áy náy về chuyện ấy,” - li la li lô, dẻo mồm chẳng khác những ả điếm
choai choai.
[1] Trong tiểu thuyết Bà Bovary, Mille Lempereur là cô
giáo dạy nhạc của Emma Bovary. Viện cớ đi học nhạc, Emma có thể đánh lừa chồng,
đi gặp người tình Léon ở Rouen.
[2] Tức Gustave Flautert. Bởi lẽ Lolita đang “noi gương”
Emma, nên đầu óc Humbert vẫn mãi nghĩ đến Flautert.
Thế là tôi xuống nhà, vừa đi vừa hắng giọng, ôm tim đau. Lo
lúc này đang ở phòng khách, lút trong chiếc ghế bành nhồi căng ưa thích của
mình. Trong khi em ngồi ườn đó, nhấm nhấm chỗ móng tay bị xước măng rô, chọc
tức tôi bằng đôi mắt mơ hồ, vô cảm, duỗi một chân không đi giày đu đua hoài một
chiếc ghế đẩu, tôi chợt nhận ra, với một nỗi day dứt nao lòng, là em đã thay
đổi biết bao kể từ khi tôi gặp em lần đầu cách đây hai năm. Hay là điều đó mới
chỉ xảy ra trong vòng hai tuần gần đây thôi? Tendresse* (yêu
thương) chăng? Chắc chắn đó là một huyền thoại đã phá sản. Em ngồi đúng vào
tiêu điểm cơn giận dữ cháy sáng của tôi. Màn sương mù của lòng dục đá bị quét
sạch, chẳng để lại gì ngoại trừ sự sáng suốt khủng khiếp này. Ôi, em đã thay
đổi! Nước da em giờ đây là nước da của bất kì nữ học sinh trung học tầm thường
nhếch nhác quen thói tia được tí mĩ phẩm nào của ai là phết đại lên gương mặt
chưa rửa bằng những ngón tay cáu ghét, chẳng cần biết da mình phải tiếp xức với
làn da nhớp nhúa nào, loại biểu bì đầy mụn mủ nào. Nước da ấy dạo xưa, ở độ
khai hoa mịn mượt, nõn nà, mới tuyệt vời làm sao, long lanh nước mắt mỗi khi
tôi đùa nhả vò cái đầu tóc xù của em trong lòng mình. Giờ đây, một sắc đỏ thô
kệch đã thế chỗ cái ánh rực rỡ ngây thơ ấy. Cái chứng bệnh mà dân địa phương
gọi là “cảm lạnh thỏ” đã điểm một màu hồng rực lửa lên hai cánh mũi ngạo mạn
của em. Tựa hồ khiếp hãi, tôi cụp mắt xuống và tia nhìn của tôi tự động lướt
như máy dọc mé dưới cặp đùi trần duỗi căng của em - chân cẳng em đã trờ nên
nhẵn và vạm vỡ làm sao! Em vẫn đăm đăm nhìn tôi bằng đôi mắt xám màu thủy tinh
mờ, hơi vằn tia máu, cách khá xa nhau, và tôi ngỡ thấy nhoe lên trong đó cái ý
nghĩ vụng trộm rằng xét cho cùng, có lẽ Mona đã nói sự thật, và em, bé Lo mồ
côi, có thể tố cáo tôi mà bản thân vẫn vô can. Tôi thật sai lầm. Tôi thật là
điên! Mọi thứ nơi em đều cùng một tính chất bí hiểm đến tức điên - sức mạnh của
bộ giò thon đẹp, cái gót bẩn của chiếc tất trắng, chiếc áo săng đay dày em mặc
cho dù căn phòng vừa nóng vừa bí, cái mùi gái tơ và nhất là cái bộ mặt kín bưng
với sắc ủng đỏ kì lạ và đôi môi vừa mới tô son. Một chút son dính trên mấy
chiếc răng cửa của em và tâm trí tôi dội lên một hồi ức ghê rợn - hình ảnh được
gợi lại không phải là Monique, mà là một ả điếm trẻ khác ở một nhà chứa, lâu
lắm rồi, mà tôi bị một kẻ nào khác nẫng tay trên trước khi kịp quyết định xem
có bõ chấp nhận nguy cơ mắc một loại bệnh gớm ghiếc chỉ vì ả trẻ và cũng
có maman* (mẹ) vừa chết, có pommettes* (đôi
gò má) cao ửng đỏ và những cái răng cửa to tướng và một mẩu ruy băng đồ nhớp
bẩn trên mái tóc một màu nâu quê kệch.
“Thế nào, nói xem,” Lo nói. “Có thỏa mãn với việc xác nhận
không?”
“À, có,” tôi đáp. “Hoàn hảo. Phải. Và tôi tin chắc là hai
người đã dựng lên chuyện ấy. Thực tế, tôi dám chắc em đã nói với Mona mọi
chuyện về hai chúng ta.”
“Ô, thế à?”
Tôi cố giữ cho nhịp thờ bình thường và nói: “Dolores, điều
này phải chấm dứt ngay lập tức. Tôi sẵn sàng dứt phăng em khỏi Beardsley, đem
nhốt ở nơi nào em thừa biết, nhưng phải ngừng ngay trò này đi. Tôi sẵn sàng đưa
em đi khỏi đây, trong khoảng thời gian cần thiết để xếp đồ vào một chiếc va ly.
Trò này phải thôi đi, bằng không bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.”
“Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra ư?”
Tôi giật phắt chiếc ghế đẩu em đang dùng gót chân đu đưa và
chân em rớt đánh thịch xuống sàn nhà.
“Hứ,” em kêu to, “bình tĩnh nào.”
“Trước hết, đi lên gác ngay,” đến lượt tôi cao giọng, đồng
thời túm lấy em, kéo lên cầu thang. Từ lúc đó, tôi thôi không kìm nén giọng
mình nữa, và chúng tôi tiếp tục quát tháo vào mặt nhau, và em xổ ra những từ
không thể in lên mặt giấy. Em nói em ghê tởm tôi. Em trợn mắt rệch mồm làm mọi
bộ điệu mặt gớm ghiếc để giễu tôi, phồng má, phát ra một tiếng bụp! Ma quái. Em
nói tôi đã nhiều lần định cưỡng hiếp em khi còn là người thuê nhà của mẹ em. Em
dám chắc tôi đã mưu sát mẹ em. Em tuyên bố sẽ ngủ với bất kì kẻ đầu tiên nào gạ
gẫm, mà tôi chẳng thể làm gì ngăn được. Tôi bảo em phải lên gác và chỉ cho tôi
tất cả những chỗ cất giấu bí mật. Thật là một cuộc cãi vã om sòm và bỉ ổi. Tôi
nắm chặt cổ tay xương xẩu của em và em không ngừng vặn vẹo, quay quắt, lén tìm
một điểm yếu để vùng thoát vào một lúc thuận tiện, nhưng tôi riết em rất chặt
và thực sự làm em khá đau - mong sao tim tôi thối rữa vì hành động này! - và
một đôi lần em giật cánh tay mạnh đến nỗi tôi sợ em có thể gãy cổ tay, và suốt
thời gian ấy, em cứ trừng trừng nhìn tôi bằng cặp mắt không thể quên trong đó
sự giận dữ lạnh lùng tranh chấp với những giọt nước mắt nóng hổi, và tiếng la
hét của chúng tôi át cả tiếng chuông điện thoại, và khi tôi chợt nhận ra âm
thanh đó, em lập tức vùng thoát khỏi.
Hình như, cùng với dân điện ảnh, tôi được chung hưởng những
ân huệ của machina telephonica và vị thần bất chợt của nó. Lần
này, vị thần là một bà hàng xóm nổi giận. Cửa sổ phía Đông của phòng khách lúc
ấy mở rộng, tuy nhiên, may sao mành vẫn hạ; và bên ngoài, đêm đen ẩm ướt của
một mùa xuân New England bẩn tính đang nín thở rình nghe chúng tôi. Tôi vẫn
thường nghĩ cái loại gái-già-cá-đuối đầu óc tục tĩu này là kết quả của sự nội
phối văn học phổ biến trong tiểu thuyết hiện đại; nhưng lúc này, tôi tin rằng
cái bà Phía Đông dâm đãng song lại ra cái điều tiết hạnh ấy - hay, để phá tan
tính nặc danh của bà ta, Miss Fenton Lebone - đã vươn ba phần tư người ra ngoài
cửa sổ phòng ngủ của mình trong nỗ lực nắm được cốt lõi cuộc cãi cọ của chúng
tôi.
“... Làm gì ầm ĩ lên thế... hoàn toàn vô ý thức... ” tiếng
bà ta quàng quạc trong ống nghe, “đây không phải là cái chợ. Tôi phải nhấn
mạnh…”
Tôi xin lỗi vì các bạn của con gái tôi làm ồn thế. Tuổi trẻ
mà, bà thông cảm - và gác máy giữa đợt quàng quạc tiếp theo.
Dưới nhà, cánh cửa chấn song phía ngoài dập đánh sầm. Lo? Bỏ
trốn?
Qua cửa sổ giữa cầu thang, tôi trông thấy một bóng ma nhỏ
phăng phăng lách qua đám cây bụi; một đốm bạc trong đêm đen - ổ trục bánh xe
đạp - chuyển động, run rẩy rồi biến mất.
Đêm ấy, xe của chúng tôi lại nằm tại một xưỏng sửa chữa ô tô
ở trung tâm thành phố. Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc chạy bộ đuổi
theo kẻ trốn chạy có cánh. Ngay cả bây giờ, sau khi hơn ba năm đã dập dềnh trôi
qua, tôi vẫn không thể hình dung lại con phố trong đêm mùa xuân ấy, con phố đã
um tùm lá ấy, mà không thấy giật thót kinh hoàng. Trước cổng nhà sáng đèn của
họ, Miss Lester đang dắt con chó chồn phù thũng của Miss Fabian đi dạo. Ông
Hyde [3] suýt xô nó lộn phộc. Đi ba bước rồi chạy ba bước. Một cơn
mưa âm ấm bắt đầu lộp độp trên vòm lá của những cây hạt dẻ. Ở góc phố tiếp
theo, một gã thanh niên nhạt nhòa ép Lo vào một hàng giậu sắt, ghì và hôn...
không, không phải em, nhầm. Móng vuốt còn giần giật, tôi tiếp tục lao đi.
[3] Nhân vật trong Tiến sĩ Jekyll và ông Hyde của Robert
Louia Stavenson (1850 – 1894). Tiểu thuyết ngắn này của nhà văn Xcôtlen dựng
lên một điển hình về hai mặt tính cách, bàn ngã xấu trong con người Jekyll.
Thành công của tác phẩm này khiến cho “Jekyll and Hyde” trở thành một cụm từ
thông dụng trong tiếng Anh để chỉ người có tính cách hai mặt. Humbert tự đồng
nhất mình với Hyde. Trong Tiến sĩ Jekyll và ông Hyde, cũng có đoạn Hyde xô ngã
một bé gái.
Cách số nhà mười bốn khoảng tám trăm mét về phía Đông, phố
Thayer Street vướng vít với một khu đất tư và một phố ngang; con phố này dẫn
hẳn vào thành phố; ngay trước cửa hiệu thuốc đầu tiên, tôi trông thấy chiếc xe
đạp xinh đẹp của Lo - ôi, giai diệu du dương nhẹ cả người! - đang chờ em. Tôi
đẩy cửa -đáng lẽ phải kéo ra - kéo, đẩy, kéo, và bước vào. Cảnh giác! Cách đó
mươi bước, qua vách kính của một buồng điện thoại công cộng (vị thần có màng
mỏng vẫn không rời chúng tôi), Lolita, tay khum khum giữ ống nghe, khom người
che, vẻ bí mật, him mắt nhìn tôi, quay đi với cái vật báu của mình, vội vã gác
máy [4] và bước ra với một điệu bộ khoa trương.
[4] Cuộc điện đàm này là với Quilty.
“Định gọi về nhà cho papa đấy,” em vui vẻ nói. “Vừa có một
quyết định quan trọng. Nhưng trước hết, hãy mua cho đây một cái gì uống đã,
papa.”
Em nhìn cô phục vụ rót Coca, bỏ đá, chế thêm chút xi rô anh
đào - và tim tôi tràn đầy yêu thương đến muốn vỡ ra. Cái cổ tay trẻ thơ ấy. Bé
yêu của tôi. Ông có một bé gái đáng yêu biết bao, ông Humbert. Chúng tôi bao
giờ cũng ngưỡng mộ mỗi khi em đi qua. Ông Pim nhìn Pippa [5] uống ừng
ực.
[5] Ám chỉ vở kịch Mr Pim Passes By (Ông Pim đi ngang
qua) của A.A.Milne và bài thơ “Pipps Passes” (Pipps đi qua) của Browning.
J’ai toujours admiré l’ceuvre ormonde du sublime
Dublinois* (Tôi bao giờ cũng ngưỡng mộ tác phẩmormonde của con
người vĩ đại của thành phố Dublin[6]). Và trong khi đó, cơn mưa nhẹ đã chuyển
thành một trận mưa rào tràn trề khoái cảm.
[6] ”Con người vĩ đại của Dublin” dĩ nhiên là James
Joyce, đại văn hào Ailen, tác giả cuốn tiểu tuyết bất hủ Ulysses, nhưng còn tử
“ormonde” thì không có trong tiếng Pháp; nó ám chỉ đến khách sạn Ormond (không có
“e”) ở Dublin, mà quán ăn đó là khung cảnh cho cái đoạn gọi là “Nữ thủy thần”
trong Ulysses; cái tên của nó là một ngón chơi chữ rất “Joyce”: “Ormonde” đồng
âm với “hors mode”, hiểu là “hors [de ce] monde”, nghĩa là: “ngoài cái thế giới
này”.
“Này,” em vừa nói vừa cưỡi xe đạp bên cạnh tôi, một chân kéo
rệt trên vỉa hè tối đen và lấp lánh ướt, “này, em vừa quyết định một chuyện. Em
muốn thôi học. Em ghét cái trường này. Em ghét vở kịch, phải, thật đấy. Bỏ hẳn
không bao giờ trở lại. Bỏ ngay tức thì. Lại rong ruổi một chuyến đi dài nữa.
Nhưng lần này, phải đi bất cứ nơi nào em muốn, có đuợc không?”
Tôi gật đầu. Lolita của tôi.
“Em chọn nhé? C’est entendu?* (Đồng ý nhé)” em
hỏi, hơi loạng choạng bên cạnh tôi. Chỉ dùng tiếng Pháp mỗi khi là một bé gái
rất ngoan.
“Ôkê. Entendu* (Đồng ý). Giờ thì a-lê hấp!
hấp! hấp! Lenore [7], kẻo em ướt hết bây giờ.” (Một xoáy lốc nức nở dâng
đầy ngực tôi.)
[7] Mặc dù Edgar Poe có một bài thơ nhan đề “Lenore”, ở
đây, cái tên này chủ yếu ám chỉ đến vở kịch theo thể loại ba lát của nhà thơ
Đức Gottfried August Buger (1747-1794). H.H. nhái bài thơ khi người tình của
Lenore – một hồn ma – phóng ngựa đi khỏi: “Und burre, bure, hop, hop, hop!...”
Em nhe răng cười, rồi với phong cách nữ sinh đáng yêu của
em, rướn người về phía trước và phóng đi, ôi con chim nhỏ của tôi.
Bàn tay trau chuốt của Miss Lester giữ một cánh cổng mờ cho
một con chó già lạch bạch vào nhà, quiprenait son temps* (nó
cứ đủng đà đủng đỉnh).
Lo chờ tôi bên cạnh cây phong đầy vẻ ma quái.
“Đây ướt đến tận xương rồi!” em la lên hết cỡ giọng. “Mình
sướng chưa? Ma quỉ bắt cái vở kịch ấy đi!”
Móng vuốt của một mụ phù thủy vô hình đóng sập một của sổ
trên gác một ngôi nhà.
Trong ánh đèn sáng choang chào mời của tiền sảnh nhà chúng
tôi, Lolita của tôi cỏi bỏ chiếc áo săng đay, rũ mái tóc ướt mưa như dát đá
quí, vươn hai cánh tay trần về phía tôi và nhấc cao một đầu gối:
“Bế em lên gác nào, em xin mình. Đêm nay, em cảm thấy mình
rất chi là lãng mạn.”
Có lẽ các nhà sinh lí học sẽ thích thú khi biết rằng, đến
nước này, tôi vẫn có thể - một “ca” hết sức kì lạ, tôi đồ là thế - trút hàng
thác lệ suốt trong cơn bão kia.