Cây bách buồn - Chương 20 + 21
CHƯƠNG
20
Poirot
gõ cửa căn nhà tranh của bà điều dưỡng Hopkins. Bà mở cửa ra, miệng ngậm đầy
bánh bao.
Bà
gay gắt nói:
-
À, ông Poirot, bây giờ thì ông muốn gì nào?
-
Tôi có thể vào được chứ?
Bà
Hopkins miễn cưỡng lui vào, nhường chỗ cho Poirot bước qua ngưỡng cửa. Bà đem
bình trà ra mời khách. Một phút sau Poirot hơi kinh hoàng nhìn cái ly đựng thứ
nước đen như mực.
- Vừa
mới pha xong, ngon và đặc lắm - bà Hopkins nói.
Poirot
khuấy trà một cách thận trọng, rồi oai hùng nhấp một hớp. Ông nói:
-
Bà có ý nghĩ gì về lý do tại sao tôi đến đây không?
-
Tôi không thể nói ra được, tôi chắc thế, cho đến khi nào ông cho tôi biết. Tôi
không tự nhận là người đọc được ý nghĩ của kẻ khác.
-
Tôi đến đây để hỏi bà về sự thực.
Bà
Hopkins nổi sùng lên:
-
Thế là thế nào chứ, tôi muốn được biết? Tôi bao giờ cũng là một người thật thà,
chớ chẳng phải là kẻ che đậy lấp liếm. Lúc thẩm vấn tôi đã nói về cái ống thuốc
morphine bị mất trong khi nhiều kẻ khác ở vào địa vị tôi hẳn là đã ngồi im,
không nói gì cả. Tôi hiểu khá rõ rằng tôi sẽ bị khiển trách vì đã bất cẩn để
cái cặp ở đó, thế nhưng, dù sao thì đó cũng chỉ là một điều có thể xảy đến cho
bất cứ ai. Tôi bị khiến trách về lỗi đó - thế cũng chẳng tốt đẹp gì cho nghề
nghiệp của tôi, tôi xin nói để ông biết. Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng gì
đối với tôi cả. Tôi biết một điều gì đó có liên quan đến vụ án này, thì tôi nói
ra thế thôi. Thưa ông Poirot, cái sự nói bóng gió bẩn thỉu đó, xin ông vui lòng
giữ lấy cho ông. Không có điều gì về cái chết của Mary Gerrard mà tôi đã không
mở miệng công khai nói thẳng ra; nếu như ông nghĩ khác thế, thì xin hãy nói có
sách, mách có chứng cho. Tôi không giấu diếm gì - không giấu diếm gì cả. Tôi sẵn
sàng tuyên thệ, đứng trước tòa mà nói như vậy.
Poirot
không chủ tâm ngắt lời. Ông biết quá rõ cách đối xử với một người đàn bà đang tức
giận. Ông để mặc cho bà Hopkins bùng nổ lên rồi kìm nén xuống. Rồi sau đó ông
nói - một cách bình thản, hòa nhã.
Ông
nói:
-
Tôi không có ý nói là có một điều gì về tội ác đó mà bà đã không nói ra.
-
Thế thì ông đã gợi ý gì, tôi muốn được biết?
-
Tôi xin bà cho biết sự thực - không phải về cái chết, mà về cuộc đời của Mary
Gerrard.
- Ồ!
- Bà Hopkins có vẻ hơi thoáng ngạc nhiên, nói - Té ra là ông muốn biết thế?
Nhưng điều đó có dính dáng gì với vụ sát nhân này đâu?
-
Tôi không nói là có dính dáng. Tôi nói là bà đã khước từ không cho biết về cô
ta.
- Tại
sao tôi lại không được thế cơ nhỉ - nếu điều đó chẳng dính dáng gì với tội ác
kia?
Poirot
nhún vai:
- Tại
sao bà lại thế?
Bà
Hopkins bừng đỏ mặt nói:
- Bởi
vì đó là phép lịch sự thông thường. Bây giờ tất cả họ đều đã chết rồi - mọi người
có liên hệ đều đã chết rồi. Chẳng còn phải là phận sự của ai khác nữa.
- Nếu
đó chỉ là sự phỏng đoán - có lẽ không phải thế. Nhưng nếu bà biết sự thực, thì
lại khác.
Bà
Hopkins chậm rãi nói:
-
Tôi không hiểu đúng ông muốn nói gì?
Poirot
nói:
-
Tôi xin giúp bà. Tôi đã nghe lời nói bóng gió của cô O’Brien, tôi đã trò chuyện
lâu với bà Slattery, bà ta nhớ rất dai những việc xảy ra cách đây hơn hai chục
năm. Tôi xin nói để bà biết đúng những gì tôi đã nghe được. Cách đây hơn hai chục
năm về trước, có một cuộc tình giữa hai người. Một người là bà Welman; bà ta đã
ở góa trong mấy năm nay và là một phụ nữ có khả năng yêu đương thắm thiết, nồng
nàn. Còn người kia là ngài Lewis Rycroft; ông này rất không may là có một bà vợ
mất trí hoàn toàn. Luật pháp thời bấy giờ không cho phép được ly dị, mà phu
nhân Rycroft với sức khỏe thể chất rất dồi dào thì còn có cơ sống đến chín chục
tuổi. Cuộc giao du thân mật giữa hai người, tôi nghĩ là, người ta chỉ phỏng
đoán mà thôi, còn họ thì đều rất kín đáo, thận trọng để giữ thể diện. Thế ngồi
ngài Lewis Rycroft tử trận.
-
Thế sao? - Bà Hopkins nói.
Poirot
nói:
-
Tôi nghĩ là sau khi ông ta chết thì có một đứa bé chào đời, đứa bé đó là Mary Gerrard.
Bà
Hopkins nói:
-
Hình như ông biết tất cả mọi điều về chuyện đó?
Poirot
nói:
-
Tôi nghĩ thế. Nhưng có thể là bà đã có chứng cớ rõ rệt là chuyện đó là như vậy.
Bà
Hopkins ngồi yên một hai phút, nhắm mắt, rồi bỗng đứng lên, đi ngang qua phòng,
mở ngăn kéo, lấy ra một chiếc phong bì. Bà đem phong bì đến cho Poirot.
Bà
nói:
-
Tôi xin nói ông biết phong thư này đã đến tay tôi như thế nào. Xin lưu ý là,
trước đây tôi đã có nghi ngờ. Một đằng là cái cách bà Welman nhìn cô gái kia,
thêm vào đó là những lời bàn tán xì xào. Lão Gerrard khi đau bệnh cũng đã nói với
tôi là Mary không phải là con gái ông ta.
Sau
khi Mary chết tôi thu dọn nhà săn. Trong một ngăn kéo, giữa các đồ vật của lão
ta, tôi đã kiếm được bức thư này. Ông hãy xem đây trên thư đã viết gì.
Poirot
đọc hàng chữ đề trên phong bì bằng mực phai màu: Gửi Mary - thư này gửi cho
Mary sau khi tôi chết.
Poirot
hỏi:
-
Hàng chữ này không mới được viết đây sao?
-
Không phải lão Gerrard viết hàng chữ này - bà Hopkins giảng giải - Đó là mẹ của
Mary, chết cách đây mười bốn năm. Bà ta có ý định gửi thư này cho cô ta, nhưng
lão già giữ lại trong số các đồ vật của mình, cho nên cô ta chẳng bao giờ trông
thấy thư này cả. Tôi cho là rất may là cô ta đã không trông thấy. Cô ta có thể
ngẩng cao đầu lúc tạ thế, và chẳng có lý do gì để cảm thấy hổ thẹn.
Bà
ngừng lại rồi nói tiếp:
-
Thư này dán kín, nhưng khi tôi kiếm thấy, tôi xin thú thực với ông là tôi có mở
ra đọc - lẽ ra tôi không nên làm thế. Nhưng Mary đã chết rồi; vả lại; tôi đã
đoán được ít nhiều những gì viết trong đó; tôi cũng không thấy nó có liên quan
gì với ai khác cả. Dù sao chăng nữa, tôi không muốn hủy nó đi, vì tôi không cảm
thấy làm thế là phải chút nào. Nhưng, nó đây, ông hãy nên tự đọc lấy.
Poirot
rút ra tờ giấy phủ đầy những hàng chữ nhỏ không gọn nét.
“Đây
là sự thực tôi viết ra, phòng hờ có lúc phải cần đến. Tôi là người hầu gái của
bà Welman ở Hunterbury; bà đã đối xử với tôi rất mực tử tế. Tôi gặp rắc rối bà
đã bênh vực tôi, lại đem tôi về làm việc cho bà khi sự việc đã kết liễu; nhưng
đứa bé đã chết. Bà chủ tôi và ngài Lewis Rycroft yêu nhau, nhưng không lấy được
nhau, vì ông đã có vợ mà bà phu nhân đáng thương đó lại đang ở nhà điên. Ông ta
là một nhà quý tộc tốt, hết lòng yêu thương bà Welman. Ông ta chết trận. Ít lâu
sau bà chủ nói với tôi là bà sắp có con. Sau đó bà đi lên Tô-cách-lan, có đem
theo tôi. Đứa bé sinh ra ở đó - ở Ardlochrie. Bob Gerrard đã phủi tay, hất hủi
tôi khi tôi có rắc rối, bây giờ lại viết thư cho tôi. Sự việc được dàn xếp như
sau: chúng tôi phải lấy nhau và ở tại nhà săn; anh ta phải nghĩ đứa bé đó là
con của mình. Nếu chúng tôi sống ở khu nhà đó thì đương nhiên là bà Welman sẽ
quan tâm đến đứa bé, sẽ lo liệu dạy dỗ nó, cho nó một vị trí ở trên đời. Bà
nghĩ không bao giờ nên cho Mary biết sự thực thì hơn. Bà Welman cấp cho hai
chúng tôi một số tiền kha khá; nhưng cho dù không có số tiền đó, tôi vẫn sẵn
lòng giúp bà. Tôi sống rất hạnh phúc với Bob, nhưng anh ta chẳng bao giờ ưa
Mary cả. Tôi đã giữ miệng, không nói hở cho ai biết, nhưng tôi nghĩ tôi phải viết
sự việc này xuống giấy phòng khi tôi chết, thì mới là phải lẽ”.
ELIZA
GERRAD
(tên
khai sinh: Eliza Riley)
Poirot
hít một hơi dài, rồi gấp thư lại.
Bà
Hopkins băn khoăn nói:
-
Ông sẽ làm gì về bức thư này? Bây giờ họ đều chết cả rồi mà. Chẳng nên bới móc
chuyện đó nữa. Ở đây mọi người đều tôn kính bà Welman, chẳng hề có tiếng gì về
bà ta cả. Gợi lại tất cả những đều nhơ nhuốc xưa - thì thực là độc ác. Đối với
Mary cũng vậy. Cô ta là một cô gái đáng yêu. Tại sao người ta lại phải cần biết
cô ta là đứa con hoang? Hãy để cho kẻ chết yên nghỉ trong mồ, tôi xin nói như vậy.
Poirot
nói:
-
Ta phải quan tâm đến người sống chứ?
Bà
Hopkins nói:
-
Nhưng chuyện này thì có dính dáng gì tới vụ sát nhân kia đâu?
Poirot
nghiêm trọng nói:
-
Có thể có nhiều điều dính dáng tới vụ đó.
Ông
ra khỏi căn nhà tranh, để lại bà Hopkins miệng há hốc, chằm chằm nhìn theo.
* *
*
Poirot
vừa đi được một quãng thì nghe thấy tiếng bước chân ngập ngừng ngay đằng sau.
Ông đứng ngừng rồi quay lại.
Đó
là Horlick, chàng trai trẻ làm vườn ở Hunterbury. Anh ta có vẻ đang bối rối,
tay xoắn xoắn mũ.
-
Xin ông thứ lỗi cho. Xin cho phép tôi được thưa với ông một lời?
Horlick
nghẹn ngào nói.
-
Được lắm. Có gì thế?
Horlick
xoắn mũ mạnh hơn, ngoảnh mắt đi, có vẻ khỗ sở, băn khoăn.
-
Thưa đó là về chiếc xe.
-
Chiếc xe đậu bên ngoài cổng sau buổi sáng hôm đó, phải không?
-
Thưa phải. Sáng nay bác sĩ Lord bảo đó không phải là xe của ông ta - nhưng,
thưa ông, quả đúng là xe của ông ta.
-
Chú biết chắc chắn thế sao?
-
Thưa chắc. Vì số xe. Đó là MSS2022. Tôi nhớ đó là con số đặc biệt - MSS 2022.
Thưa ông, trong làng này chúng tôi biết xe đó, chúng tôi thường gọi nó là
cô-tu-tu. Tôi chắc chắn là nó.
Poirot
mỉm cười nói:
-
Nhưng bác sĩ Lord nói sáng hôm ấy ông ta sang Widthenbury kia mà.
Horlick
đau khổ nói:
-
Thưa, đúng vậy. Tôi có nghe ông ta nói thế. Nhưng, thưa ông, quả đúng là xe của
ông ta. Tôi xin thề về điều này.
Poirot
nhẹ nhàng nói:
-
Cám ơn Horlick, đó đúng là việc có thể chú phải làm.
CHƯƠNG
21
Trong
tòa có nóng lắm không? Hay rất lạnh? Elinor Carlisle không thể nào hoàn toàn chắc
chắn được. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy bỏng rát rồi ngay sau đó lại rùng mình.
Nàng
đã không nghe thấy đoạn cuối lời diễn từ của Ủy viên công tố. Nàng đã trở về dĩ
vãng, đi chậm chạp qua toàn thể sự việc, từ cái ngày nhận được bức thư khốn khổ
kia cho đến cái lúc viên sĩ quan cảnh sát mày râu nhẵn nhụi nói bằng giọng lưu
loát khủng khiếp.
-
Cô là Elinor Katharine Carlisle. Tôi đây có lệnh bắt giữ cô về tội giết Mary
Gerrard bằng cách đầu độc vào ngày 27 tháng bảy vừa rồi. Tôi cần báo cho cô biết
trước rằng bất cứ điều gì cô nói ra cũng sẽ được ghi lại và có thể được dùng
làm bằng chứng trong phiên xét xử.
Thực
là lưu loát khủng khiếp ghê người. Nàng cảm thấy bị mắc trong một bộ máy dầu mỡ
trơn tru, chuyển động nhịp nhàng - bạo tàn và điềm tĩnh.
Bây
giờ nàng đứng đây, trước vành móng ngựa, trong ánh sáng công khai, với hàng
trăm con mắt chẳng hững hờ cũng không tàn bạo, đang hả hê hau háu nhìn nàng.
Chỉ
có bồi thẩm đoàn là không nhìn nàng. Họ bối rối cố tình ngoảnh mắt nhìn đi nơi
khác. Nàng nghĩ, chỉ là bởi vì - không bao lâu nữa - họ biết họ sẽ nói gì.
Bác
sĩ Lord đang làm chứng. Đây có phải là Peter Lord - cái anh chàng bác sĩ mặt
tàn nhang, trẻ trung, vui vẻ, tử tế, rất thân thiết ở Hunterbury không? Lúc này
anh ta trông cứng nhắc. Nghiêm nghị chuyên nghiệp. Những câu trả lời tuôn ra đều
đều đơn điệu. Anh đã được điện thoại gọi đến phủ đệ Hunterbury; đã quá trễ
không làm gì được nữa; Mary Gerrard đã chết mấy phút sau khi anh tới; cái chết
này, theo ý anh, phù hợp với sự trúng độc morphine ở một trong số những hình
thái ít thấy - đó là thứ “Mạnh như sét đánh”.
Ngài
Edwin Bulmer đứng lên thẩm vấn.
-
Có phải ông là bác sĩ thường chăm sóc bà Welman quá cố không?
-
Thưa phải.
-
Trong những lần đến thăm Hunterbury vào tháng sáu vừa rồi, ông có dịp nào trông
thấy bị cáo và Mary Gerrard ở cùng với nhau không?
-
Thưa nhiều lần.
-
Theo ý ông, thái độ của bị cáo đối với Mary Gerrard như thế nào?
-
Tôi thấy hoàn toàn vui vẻ, tự nhiên.
Ngài
Edwin Bulmer hơi khinh khỉnh mỉm cười nói:
-
Chúng ta đã nghe nói nhiều về cái nỗi “hờn ghen” ấy, ông không bao giờ thấy có
dấu hiệu nào sao?
Peter
Lord bạnh hàm lại, nói quả quyết.
-
Không.
Elinor
nghĩ “Nhưng anh ta đã - đã trông thấy. Anh ta đã vì mình mà nói dối. Thực ra
anh ta đã biết”.
* *
*
Sau
Peter Lord thì đến bác sĩ phẩu thuật của cảnh sát. Ông này làm chứng dài và tỉ
mỉ hơn. Cái chết này là do trúng độc morphine thuộc loại “mạnh như sét đánh”.
Ông ta có vui lòng cắt nghĩa cái từ ngữ đó không? Với niềm hứng thú ông ta đã
giải thích. Cái chết do trúng độc morphine có thể đưa đến nhiều hậu quả khác
nhau. Trường hợp thường thấy nhất là một khoảng thời gian bị kích động mạnh, tiếp
theo là tình trạng thờ thẫn, mê man, con ngươi mắt thu nhỏ lại. Có một hình
thái không thông thường khác đã được người Pháp gọi là “mạnh như sét đánh”.
Trong trường hợp này, người trúng độc ngủ li bì sau một khoaảng thời gian rất
ngắn - chừng mười phút; con ngươi mắt thường thường mở rộng ra.
Phiên
tòa hoãn rồi họp lại. Có mấy giờ dành cho lời chứng thuộc về chuyên môn y học.
Bác
sĩ Alan Gercia, nhà phân tích lỗi lạc, rất khoái trá dùng toàn những từ thông
thái, nói về những thứ tìm thấy trong dạ dày. Bánh mì, bột cá nhồi, nước trà,
có chất morphine - thêm nhiều từ thông thái và những dấu thập phân khác nhau.
Lượng chất độc được người chết dùng ước chừng vào khoảng 4 gren (1 gren bằng
0,0648 gram). Mà một gren thì cũng đủ tai hại rồi.
Ngài
Edwin đứng lên, vẫn giọng dịu dàng nói:
-
Tôi muốn được biết thực rõ ràng. Ông chỉ tìm thấy trong dạ dày có bánh mì, bơ,
bột cá nhồi, trà và chất morphine thôi. Ngoài ra không có gì khác nữa sao?
-
Thưa, không có gì khác.
-
Thế tức là người chết chỉ ăn có bánh xăng-uých và uống nước trà trong một khoảng
thời gian đáng kể nào đó, phải không?
-
Thưa, đúng thế.
-
Có cái gì cho biết chất morphine đã được dùng trong thức truyền nào không?
-
Tôi không hiểu rõ câu hỏi của ngài.
-
Tôi xin hỏi đơn giản hơn. Chất morphine đã có thể được dùng hoặc trong bột cá
nhồi, hoặc trong bánh mì, hoặc trong bơ phết lên bánh mì, hoặc trong nước trà,
hoặc trong sữa hòa thêm vào nước trà, có phải thế không?
-
Thưa, chắc chắn thế.
-
Không có bằng chứng đặc biệt cho biết chất morphine đã có ở trong bột cá nhồi,
chứ không phải ở trong các thức môi giới khác, phải thế không?
-
Thưa, đúng thế.
-
Thế thì, thực ra là, chất morphine có thể đã được dùng riêng rẽ - tức là, không
dùng trong một thức truyền nào cả, phải thế không. Nó có thể chỉ đã được nuốt
trong hình thức thuốc viên thôi, phải thế không?
- Cố
nhiên là thế rồi.
Ngài
Edwin ngồi xuống.
Ngài
Samuel Attenbury thẩm vấn lại.
-
Tuy nhiên, ông có ý kiến là, dù chất morphine có được dùng cách nào đi nữa, thì
nó cũng đã được dùng cùng một lúc với thức ăn uống khác, phải thế không?
-
Thưa phải.
-
Cám ơn ông.
* *
*
Thanh
tra Brill đã tuyên thệ một cách mau lẹ máy móc. Ông đứng dậy, có dáng vẻ quân
nhân, bình thản, tuôn ra hàng tràng bằng chứng một cách thành thạo, lưu loát.
-
Được gọi đến khu nhà… Bị cáo đã nói: “Chắc chắn đây là bột cá hồi hư…” Lục soát
nhà cửa, vườn tược… Một hũ cá nhồi đã rửa sạch được đặt trên máng thoát nước
trong phòng kho, một hũ khác còn đầy một nửa… Lục soát thêm trong nhà bếp phòng
kho…
-
Ông đã kiếm thấy gì?
-
Trong một kẽ nứt ở dưới cái bàn, giữa hai tấm ván sàn, tối kiếm thấy một mẫu giấy
nhỏ.
Tang
vật được đưa đến bồi thẩm đoàn.
MIC
TABLET
10rphin.
Hydro
Gr.
1/2
-
Theo ông thì đó là cái gì?
-
Đó là một mảnh rời của một nhãn hiệu in - như thường được dùng trên những ống
thủy tinh đựng chất morphine.
Luật
sư biện hộ ung dung đứng lên.
Ông
nói:
-
Ông đã tìm thấy mẩu giấy này trong một kẽ nứt trên sàn nhà, phải không?
-
Thưa phải.
-
Đó là một phần của nhãn hiệu, phải không?
-
Thưa phải.
-
Ông có tìm thấy phần còn lại của nhãn hiệu không?
-
Thưa không.
-
Ông không tìm thấy một cái ống thủy tinh hay một cái chai nào mà cái nhãn hiệu
đó có thể đã được dán vào sao?
-
Thưa không.
-
Lúc ông tìm thấy thì tình trạng của mẫu giấy đó ra sao? Sạch hay bẩn?
-
Nó hoàn toàn mới.
-
Ông muốn nói gì, hoàn toàn mới?
-
Có một mặt giấy có bụi ở trên sàn, nhưng mặt kia thì hoàn toàn sạch.
-
Nó không thể đã ở đấy lâu chứ?
-
Thưa không. Nó rơi xuống đó mới đây thôi.
-
Ông cho là nó đã rơi xuống đó vào đúng hôm ông tìm thấy - chứ không lâu hơn, phải
không?
-
Thưa phải.
Ngài
Edwin lầm bầm ngồi xuống.
Elinor
nghĩ, dù sao thì bà Hopkins cũng không làm cho mình hoảng sợ bằng thanh tra
Brill. Chính cái tính vô nhân đạo của thanh tra Brill đã làm cho người ta phải
đớ ra vì sợ hãi. Ông ta rõ ràng là bộ phận của một bộ máy lớn. Còn bà Hopkins
có nhiệt tình của con người và những định kiến.
-
Tên bà là Jessie Hopkins?
-
Thưa phải.
-
Bà là điều dưỡng khu vực có chứng thực, bà trú ngụ tại Hồng hoa trang, ở
Hunterbury, phải không?
-
Thưa phải.
-
Ngày 28 tháng sáu vừa rồi, bà ở đây?
-
Tôi ở phủ đệ Hunterbury.
-
Bà đã được phái tới đó?
-
Thưa phải. Bà Welman đã phát cơn bệnh - lần thứ hai. Tôi đến để giúp cô điều dưỡng
O’Brien cho tới khi nào kiếm được một điều dưỡng viên thứ hai.
-
Lúc ấy bà có mang cái cặp nhỏ theo không?
-
Thưa có.
-
Bà hãy trình bày cho bồi thẩm đoàn biết trong cặp đó đựng gì.
-
Bông băng, quần áo, một ống chích dưới da, vài thứ thuốc, trong đó có một ống
morphine hydrochloride.
-
Thuốc morphine đem theo đó để làm gì?
-
Trong làng có một trường hợp bệnh cần phải chích morphine vào buổi sáng và buổi
tối.
-
Trong ống thuốc đó đựng gì?
-
Có hai chục viên thuốc, mỗi viên chứa nửa gren chất morphine hydrochloride.
-
Bà làm gì với cái cặp đó?
-
Tôi để ở trong phòng đợi.
-
Đó là vào buổi tối ngày 28. Sau đó thì lúc nào bà có dịp nhìn lại chiếc cặp?
-
Vào sáng hôm sau khoảng chín giờ, lúc tôi sửa soạn rời khu nhà.
-
Có thấy thiếu gì không?
-
Thiếu ống thuốc morphine.
-
Bà có nói ra việc mất thuốc này không?
-
Tôi đã nói việc đó với cô điều dưỡng O’Brien, phụ trách trông nom bệnh nhân.
-
Cái cặp để trong phòng đợi, là nơi người ta thường qua lại sao?
-
Thưa phải.
Ngài
Samuel ngừng lại, rồi nói tiếp:
-
Bà quen thân với cô gái chết kia, cô Mary Gerrard, phải không?
-
Thưa phải.
-
Bà có ý nghĩ gì về cô ta?
-
Cô ta là một cô gái rất xinh xắn - và rất tốt.
-
Cô ta có được sung sướng không?
-
Thưa, rất sung sướng.
-
Bà biết cô ta không có rắc rồi gì chứ?
-
Thưa không có rắc rối gì.
-
Vào lúc cô ta chết có sự việc gì làm cho cô ta phải lo lắng hay khổ sở về tương
lai không?
-
Thưa không.
-
Cô ta không có lý do gì để tự hủy mình, phải không?
-
Thưa, không có lý do nào cả.
Cái
câu chuyện định tội ấy cứ tiếp tục kể ra. Bà điều dưỡng Hopkins đã đi cùng Mary
đến nhà săn, vẻ mặt của Elinor, cử chỉ dễ bị kích động của nàng, lời mời đến ăn
bánh xăng-uých, cái khay được đưa cho Mary trước tiên. Lời Elinor đề nghị nên rửa
sạch mọi thứ, lại bảo bà Hopkins cần lên gác giúp nàng sắp xếp quần áo.
Luôn
luôn có lời ngắt hay phản đối của ngài Edwin Bulmer.
Elinor
nghĩ. “Phải rồi, tất cả đều thực - bà ta tin thế. Bà ta chắc chắn tin mình đã
làm thế. Mỗi tiếng bà ta nói ra đều là sự thực cả - đó mới là khủng khiếp. Tất
cả đều thực”.
Một
lần nữa, khi nhìn qua phòng tòa, nàng trông thấy khuôn mặt của Hercule Poirot
đang nhìn nàng đăm chiêu - hầu như ân cần, thân ái. Nhìn nàng với quá nhiều hiểu
biết.
Mảnh
bìa cứng có dán mẩu nhãn hiệu được đưa đến cho nhân chứng.
-
Bà có biết cái này là cái gì không?
-
Đó là một mẩu nhãn hiệu.
-
Bà hãy nói cho bồi thẩm đoàn biết là mẩu nhãn hiệu gì?
-
Thưa đúng rồi - đây là một phần của nhãn hiệu tách ra từ ống đựng những viên
thuốc dùng để chích dưới da. Những viên morphine nửa gren - giống như cái ống
thuốc tôi đã đánh mất.
-
Bà chắc thế chứ?
- Cố
nhiên là tôi chắc. Đây là mẫu nhãn hiệu tách ra từ ống thuốc của tôi.
Quan
tòa nói.
-
Có dấu hiệu đặc biệt nào trên mẩu giấy mà nhờ đó bà có thể nhận ra nó là nhãn
hiệu của ống thuốc bà đã mất không?
-
Thưa ngài, không, nhưng chắc hẳn là cũng như thế.
-
Thực sự là, bà chỉ có thể nói là nó giống hệt, phải thế không?
-
Thưa phải, tôi có ý định nói thế.
Phiên
tòa hoãn lại đến một ngày sau.