Tokyo hoàng đạo án - Hồi 3 - Cảnh 2 - 3
Cảnh 2: Hành động báng bổ
Chúng tôi ngồi giết thời gian trong một quán cà phê bằng cách chậm rãi nhâm
nhi ly nước hoa quả. Gần đến 5 giờ, Kiyoshi đột nhiên đứng lên và đi tới một
máy điện thoại công cộng. Cậu nói chuyện một lúc rồi quay lại.
“Tôi nắm được rồi!” Kiyoshi chỉ nói vậy. Tôi vớ vội hành lý của mình và chạy
theo cậu ra khỏi cửa.
Đường phố giờ tan tầm bắt đầu đông dần lên. Kiyoshi đi thẳng qua đám đông
vượt qua cây cầu bắc qua sông Kamo.
“Thế ông ta sống ở đâu?”
“Ở Neyagawa, trên đường đi Osaka. Chúng ta có thể đón tàu tuyến Keihan từ
đằng kia.”
Nhà ga ngay trước mặt chúng tôi.
Từ sân ga, chúng tôi trông thấy dòng sông đang từ từ đổi màu khi ánh chiều
tà buông xuống.
Chúng tôi xuống ga Korien. Tiếng Trung Quốc của tên gọi này nghĩa là “Hương
Lí Viên” cho nên tôi hình dung vùng này sẽ nhiều cây cối thật dễ chịu. Nơi này
quả đúng như tôi đã hình dung. Tôi thấy có mấy quán rượu và hộp đêm nhỏ với
những biển hiệu đèn nê-ông lòe loẹt vừa mới được bật sáng để đón chào những
người khách đầu tiên của buổi tối. Một số nhân viên văn phòng chếnh choáng đi
trên hè phố vì rõ ràng vừa kết thúc sớm chầu nhậu, còn vài cô tiếp viên phấn
son lòe loẹt vượt lên trước chúng tôi để kịp giờ đi làm.
Khi chúng tôi tìm được địa chỉ Okawa đưa, trời đã tối mịt. Quản lý tòa nhà
đi vắng, nên chúng tôi lên gác và lại bắt đầu gõ từng cánh cửa. Một phụ nữ
trung niên nói chưa bao giờ nghe bất kỳ ai có tên Yasukawa ở đây cả.
Chúng tôi may mắn hơn khi gặp vị chủ nhà tiếp theo. “Mới hôm trước vừa có
người dọn đi,” ông cho biết. “Tôi nghĩ tên ông ấy đúng là Yasukawa. Chúng tôi
chưa bao giờ nói chuyện với nhau, nên tôi không biết ông ấy chuyển đi đâu. Sao
các vị không hỏi người quản lý.”
Kiyoshi không giấu được nỗi thất vọng của mình. Nhưng chúng tôi cố gắng tới
văn phòng người quản lý lần nữa và ngạc nhiên thay, ông ấy mới quay trở lại sau
khi giải quyết mấy việc vặt.
“Tôi không biết gia đình đó chuyển đi đâu,” ông nói với thái độ hết sức hợp
tác. “Hình như họ không muốn cho ai biết và tôi cũng chẳng quan tâm. Gia đình
có vẻ không vui vì cụ ông vừa mới qua đời.”
“Chết rồi ư?!” Kiyoshi và tôi cùng kêu lên.
“Ý ông là ông Tamio Yasukawa phải không?,” Kiyoshi hỏi.
“Tamio à? Ồ, phải, chính là tên ông ấy đấy.”
Vậy là Yasukawa đã chết ngay tại Osaka này. Tôi cảm thấy nản chí. Giờ chẳng
còn cách nào tìm hiểu được cuộc đời của ông ấy nữa. Ông ấy từng sống ở Tokyo,
tham gia chiến tranh, rồi chuyển đến Osaka. Cuộc đời ông cụ đã kết thúc trong
một căn hộ cũ kỹ xung quanh bốn bức tường nứt nẻ.
Tuy nhiên người quản lý cung cấp cho chúng tôi một số thông tin mới ngoài
mong đợi. Ông kể rằng Yasukawa không sống một mình, ngược lại còn có một cô con
gái trạc ngoài 30 tuổi. Chị này lấy một anh thợ mộc và họ có hai đứa con.
Bóng đèn trong hành lang nhấp nháy, người quản lý ném cho nó cái nhìn khó
chịu mỗi lần ánh sáng sụt xuống.
Tim tôi trĩu nặng một nỗi buồn ghê gớm. Tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ bị
bắt quả tang phạm lỗi. Chúng tôi đang theo dấu một con người tội nghiệp không
thể có được một cuộc sống hạnh phúc và vừa mới qua đời. Đây không còn là một
cuộc phiêu lưu nữa. Có gì đó rất báng bổ khi cứ bới móc vào đời tư của ông già
này - một hành vi báng bổ thiếu nhân đạo.
Kiyoshi dường như cũng chìm trong suy tư.
“Nếu các anh thật sự muốn biết họ chuyển đi đâu,” người quản lý tình nguyện,
“tôi có thế hỏi công ty vận chuyển. Chỉ mới tháng trước họ còn ở đây, cho nên
tôi nhớ tên họ. Hãng vận chuyển Neyagawa, trụ sở ngay phía trước ga Neyagawa.”
Chúng tôi cảm ơn ông quản lý và ra đi.
“Mấy giờ rồi nhỉ?” Kiyoshi hỏi.
“Tám giờ kém mười.”
“Vậy là chúng ta vẫn có thể hành động,” cậu hào hứng thấy rõ. “Chúng ta tới
hãng vận chuyển Neyagawa!”
Chúng tôi đi bộ trở lại ga tàu và đón chuyến tàu tới Neyagawa.
Không khó để tìm được công ty này, nhưng đã quá muộn vì tan sở mọi người đã
đi về hết. Căn cứ vào một tấm biển có ghi “DỌN NHÀ? HÃY GỌI CHO CHÚNG TÔI!”
Kiyoshi ghi lại số điện thoại của công ty. Sáng mai cậu sẽ gọi. Sau đó chúng
tôi quay trở về căn hộ của Emoto.
Và ngày thứ Sáu mùng 6 tháng Tư, kết thúc như vậy.
Cảnh 3: Bắc qua mặt trăng
Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng của Kiyoshi nói chuyện với ai đó
trên điện thoại. Lúc ấy khá muộn nên Emoto đã đến công sở. Tôi ngồi dậy, cất
túi ngủ vào tủ và xuống bếp kiếm ít cà phê.
Khi tôi vào phòng khách tiện thể mang cho Kiyoshi một tách cà phê thì cậu
vừa mới kết thúc cuộc gọi. Cậu xé một tờ giấy nhắc việc và nói, “Con gái
Yasukawa đang ở Higashi-yodogawa tại Osaka. Tôi không thể hỏi được địa chỉ
chính xác của chị ấy, nhưng công ty vận tải nói ở gần bến xe buýt tại
Toyosato-cho, cuối một con hẻm và gần một cửa hàng bánh tráng có tên Omichi-ya.
Chồng chị ấy tên là Kato. Chúng ta đi nào!”
Khi chúng tôi đến Toyosato-cho, từ xa chúng tôi có thể nhìn thấy cây cầu
thép bắc qua sông Yodo. Khu vực này vẫn còn rất kém phát triển. Rải rác khắp
những rẻo đất bỏ trống mọc đầy lau lách là những chiếc lốp xe cũ. Tuy nhiên,
đường phố dường như mới được rải nhựa. Chúng tôi đi xuống một con hẻm nằm giữa
một cụm lều lán và tìm thấy ngay cửa hàng bánh tráng. Qua một chút là vài cụm
nhà bình dị. Căn cứ vào những hòm thư có ghi tên, chúng tôi tìm được căn hộ của
bà Kato.
Chúng tôi leo lên thang gỗ và tìm đường vào căn hộ, len qua khu vực giặt
ngay trên lối đi. Cửa sổ của họ mở hé, chúng tôi nghe thấy tiếng rửa bát đĩa và
tiếng khóc của một đứa bé.
Kiyoshi gõ cửa, lập tức một phụ nữ xuất hiện. Người phụ nữ không trang điểm
và mái tóc thì rối bù. Đó chính là con gái của Yasukawa. Kiyoshi bắt đầu giải
thích mục đích chuyến thăm của chúng tôi, nhưng chủ nhà ngắt lời khi Kiyoshi
chưa kịp nói gì nhiều.
“Tôi chẳng có gì để nói về việc đó! Cha tôi không làm gì cả. Chúng tôi đã
chán lắm rồi. Hãy để chúng tôi yên!” Chủ nhà đóng sầm cửa, khiến cho đứa bé
khóc càng to hơn.
Kiyoshi đứng trước cửa, không nhúc nhích. Trông cậu mất hết tinh thần.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe con gái Yasukawa nói phương ngữ vùng Kanto;
chúng tôi đang ở sâu trong vùng Kansai và suốt hai ngày qua chúng tôi được nghe
mọi dạng biến thể của thổ âm Kansai.
Khi chúng tôi rời khỏi khu chung cư, Kiyoshi nói khẽ “Tôi biết chị ấy sẽ từ
chối nói chuyện với chúng ta mà. Ông bố cũng sẽ như vậy nếu ông ấy vẫn còn
sống. Tôi chỉ muốn tới gặp Yasukawa nhân danh Bunjiro Takegoshi. Thôi, chúng ta
hãy quên Yasukawa và con gái ông ấy đi.”
“Vậy giờ chúng ta làm gì đây?”
“Tôi không biết. Chúng ta quay về Kyoto đã.”
Vậy là chúng tôi lên tàu mà chẳng có một kế hoạch nào trong đầu.
Kiyoshi chìm trong suy nghĩ suốt đường đi, rồi đột ngột lên tiếng, “Kazumi,
giờ anh đã ở Kyoto, sao anh không nhân cơ hội này đi thăm chú một chút nhỉ? Tôi
gợi ý tới thăm Arashiyama, hoa anh đào vùng này đang độ rực rỡ. Anh có thể đổi
tàu ở trạm tiếp theo, Katsura. Cẩm nang chỉ dẫn ở đây. Tôi muốn ở một mình để
tập trung suy nghĩ. Tôi sẽ gặp anh ở nhà Emoto.”
Tôi xuống tàu tại Arashiyama và đi thẳng ra phía sông. Kiyoshi nói đúng một
chi tiết: hoa anh đào tuyệt đẹp.
Một cô maiko - thiếu nữ trẻ được huấn luyện để trở thành geisha - đi ngang
qua khiến tất cả mọi người chú ý. Cô mặc bộ kimono và đi cùng một cậu choai
choai có mái tóc nhuộm vàng. Cậu nhóc đeo một cái máy ảnh trên cổ. Đôi dép gỗ
đế dày tạo ra thứ âm thanh êm dịu, dễ chịu theo mỗi bước chân của cô gái.
Tôi theo đám đông đi về phía sông Katsura. Theo sách hướng dẫn, cây cầu có
tên gọi Togetsu-kyo, có nghĩa là “cầu bắc qua mặt trăng”. Chắc là khi mặt trăng
được phản chiếu trên mặt sông, du khách sẽ có cảm giác mình đang trôi bồng bềnh
phía trên mặt trăng.
Gần đây là một ngôi miếu nhỏ. Nhưng khi đến gần, tôi mới nhận ra đó là một
trạm điện thoại được thiết kế giống như một miếu thờ. Tôi nghĩ đến việc gọi cho
ai đó từ chỗ này cho lạ, nhưng trong đầu chẳng nghĩ ra ai cả.
Sau bữa trưa, tôi bắt xe điện đi dạo. Việc này làm tôi rất thích thú vì
Tokyo không còn xe điện nữa. Tôi nhớ đã từng đọc trong một cuốn tiểu thuyết
trinh thám rằng nhân vật thám tử nảy ra cảm hứng trong lúc đi xe điện. Tôi cảm
thấy những tiểu thuyết trinh thám hay ho ngày trước đều lỗi thời như những
chiếc xe điện vậy!
Tôi chẳng biết xe điện đang đi đâu nên đành xuống ở trạm cuối cùng,
Shijo-Omiya. Tôi đi bộ dọc một con phố đông đúc và đột nhiên nhận ra mình đã
quay lại Shijo-Kawaramichi. Không lẽ tất cả đường phố ở Kyoto đều dẫn về
Shijo-Kawaramachi?
Từ đó, tôi đi thẳng tới đền Kiyomizu nổi tiếng thả bộ theo vỉa hè lát đá
Sannen-zaka và dừng lại ở một quán trà nhỏ để uống tách rượu gạo amazake ngọt
lịm. Rồi lại tiếp tục lang thang.
Trước cửa một tiệm đồ cổ nhỏ có một phụ nữ mặc kimono đang rẩy nước ra vỉa
hè cho đỡ bụi. Cô làm rất cẩn thận, không để bắn lên người tôi và tôi cảm kích
vì sự chu đáo ấy.
Tôi quay lại Shijo-Kawaramachi. Đã thấm mệt với chuyến du lịch vất vả này,
tôi quyết định quay về nhà Emoto.
Emoto đã về đến nhà.
“Ồ, ông về rồi à! Tham quan có thích không?”
“Có, tuyệt lắm!”
“Kiyoshi đâu rồi?”
“Chúng tôi tách nhau trên tàu… Chà, thật ra thì cậu ấy bỏ tôi!”
Emoto nhăn mặt, nửa thích thú, nửa cảm thông.
Khi chúng tôi đang chuẩn bị món sốt hải sản cho bữa tối thì Kiyoshi thẫn thờ
bước vào như người mộng du. Cậu chẳng nói gì, dù chỉ một câu chào cộc lốc.
Ăn xong bữa tối, tình trạng của Kiyoshi cũng chẳng có gì khác. Đồ ăn của
Emoto rất tuyệt, nhưng Kiyoshi không chú ý lắm.
“Ngày mai là Chủ nhật,” Emoto nói với Kiyoshi. “Mai tôi được nghỉ nên ta làm
một chuyến lên phía bắc Kyoto nhé? Tôi biết các ông bận, nhưng theo lời Kazumi,
việc các ông đang làm ở đây chủ yếu là vận dụng trí não. Cho nên tại sao các
ông không đi xe? Các ông vẫn có thể làm việc trên xe mà.”
Kiyoshi ngoan ngoãn gật đầu. “Được, miễn là các vị để tôi ngồi yên ở phía
sau.”