Lều chõng - Chương 08 phần 1
Chương 8
Đêm ấy không có trăng.
Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất biến thành một khối đen
sì.
Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi.
Chín mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch hết thảy điên cuồng lồng phách
như muốn lia những bó đuốc nứa nhảy vọt lên từng mịt mù. Quang cảnh trường thi
hôm nay rộn ràng hơn mấy hôm trước.
Dưới lớp mái ngói của nhà Thập đạo, mũ áo thấp thoáng hiện trước bóng
đèn lồng.
Trong mấy gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, trống cái đi đôi với
thanh la, chốc chốc lại đưa ra những tiếng oai nghiêm trịnh trọng.
Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín lấy khu nền tường,
đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của quan giám trường đề điệu diễu từ mặt
nọ đến mặt kia. Tiếng nhong nhong của nhạc ngựa hòa với tiếng dình dình của trống
quân, càng giúp cho cuộc tuần phòng thêm vẻ cẩn mật.
Trên nếp cổng tiền, một bức hoành biển nghiêng mình nằm ghếch đầu trên
đôi đồng trụ, chiều dài thườn thượt không kém một chiếc thuyền thoi. Sóng biển
phủ một bức diềm nhiễu điều, chính giữa kết thành một hoa sen to bằng cái mâm,
hai đầu thì hai trái găng lớn như cái thúng lủng lẳng đu ở cạnh cột. Lòng biển,
bốn chữ "Tân hưng thịnh điển" song song đứng ngang một hàng, nét vàng
lóng lánh trong nền sơn son như muốn cười với ánh lửa của trời tối.
Từ mật tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến
mặt tiền, bốn cửa của bốn vi giáp, ất, tả, hữu đều thênh thang.
Những cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người đều ngoảnh bộ mặt
"dán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử.
Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cũng doãi bốn chân và đứng ngất
ngưởng ở ngoài các cửa như đương đợi các ông khảo quan.
Trước hai cửa của hai vi tả hữu, cũng như trước hai cửa của hai vi giáp
ất, toàn lính thể sát đo nhau đứng chực ngoài cửa với những dáng bộ rất nghiêm
trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ ngọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu.
Những sợi dây tòng của chiếc tay thước khảm chai, bông bênh rủ xuống miếng ban
kiên sặc sớ.
Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào bắt đầu nổi ở nẻo xa xa. Rồi nó dần dần
gần lại. Rồi nó dần dần rõ thêm. Rồi nó dần dần đưa đến những đám đèn đuốc lập
lòe như đám ma chơi. Học trò các nơi tấp nập kéo đến cửa trường.
Gió bấc thổi càng dữ.
Những cây đình liệu cháy càng nỏ.
Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người chật như đám hội.
Có người tóc đã bạc phơ. Cũng có người hồng mao còn ngất nghểu trong
vành khăn nhiễu. Có người không giấu sự nghèo túng, thân hình gầy guộc so sởi
trong mảnh áo đơn. Cũng có người như muốn khoe vẻ phong lưu, quanh mình quấn mấy
lần áo bông sù sù, hai hàm răng còn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu khuỷu
tay còn đủ sức thích bên kia gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng
có người cất cổ không lên, lều chiếu đều bị lôi sềnh sệch ở mặt đất. Vênh cái mặt
dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu.
Vẻ lo ngại hiện đầy trên bộ trán nhăn nheo ấy là kẻ lảo đảo trường ốc.
Còn nữa, và còn nhiều nữa. tả không thể hết.
Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến
của vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người
cùng một lối trang sức như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều; sườn
kia, thì bó áo tơi và cuộn áo lều, hoặc một đôi chiếu cói; trên ngực, quả bầu
be và chiếc ống quyển; dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ
vật, nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thảy xúm lại và đu cả
lên cái cổ yếu ớt của các ông thư sinh. Hình như trời cũng bắt tội nhà nho, trước
khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm việc của bọn phụ trạo.
Kẻ chen vào người đẩy ra, kẻ du lại, người ẩn lại dưới ánh lửa sáng,
đám người dồn dập bị xô đẩy cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng
hỏi nhau, tiếng chào nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng rầm rầm nói
chuyện với nhau. Các thứ tiếng ấy hợp lại, làm cho bốn khu cửa trường, ầm ầm
như bốn cái chợ.
Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy hết già một nửa. Tàn nứa đỏ
ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp vùng trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu
người, xuống quãng đất không. Xuống những nơi ở tít xa xa, nếu nó không bị tắt ở
trong bóng tối.
Thình lình trong nhà Thập đạo, kiểng đồng gióng với trống khẩu, dõng dạc
đánh luôn ba hồi. Các bóng đèn lồng nhất tề lay động. Các áo thụng lam, các mũ
cánh chuồn đồng thời rộn rịp như sân khấu rạp tuồng.
Sau khi bốn ông ngự sử đã đem chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh, các
ông khảo quan tức thì cắt nhau mỗi người đi mỗi ngả. Cũng như mọi khoa, hai ông
phân khảo phải coi hai cửa tả hữu, ông phó chủ khảo được theo chiếc biển
"phụng chỉ" ra cửa vi ất. Còn cửa vi giáp thuộc quyền ông chánh chủ
khảo và lá cờ "khâm sai" của nhà vua ban.
Dứt mấy tiếng yết hậu của trống khẩu và kiểng đồng, hai hàng đèn lồng bắt
đầu ở nhà Thập đạo từ từ tiến ra. Rồi đến một đôi lọng vàng cung kính rước lá cờ
khâm sai đi trước. Rồi đến ông chánh chủ khảo và bốn chiếc lọng xanh khúm núm
theo sau.
Bộ dạng quan chánh chủ khảo mới oai làm sao?
Cái bối từ hình con công, cái vành đai đột chỉ vàng. cái gấu áo thêu thủy
ba. cái xiêm xanh viền chân chỉ hạt bột, và đôi ủng đen có đôi bướm bạc long
lanh, bấy nhiêu thứ đó hợp lại với cây hốt ngà cầm ở trước ngực và chiếc mũ gấm
xòe hai cánh ra ngoài hai tai, đủ làm cho ngài giống hệt những quan phường chèo
nếu ngài có bộ râu dài như họ. Đám rước ra đến cửa vi, người lính cầm cờ khâm
sai lễ phép leo lên chiếc ghế tréo và cắm cán cờ vào cái lỗ thủng sau ghế. Quan
chánh chủ khảo tạm giữ cây hốt bằng một tay trái để lấy tay phải vịn vào chân
ghế tréo. Rón rén bước qua các bực, và trèo lên ghế, ngài sẽ vén cái vạt sau của
tấm phẩm phục, rồi ngồi vào giữa mặt ghế. Cây hốt lại được trở lại phía trước mặt
ngài với sự nâng niu của hai bàn tay súng sính trong đôi tay áo rộng như cái cống.
Cả sáu chiếc lọng lần lượt nhô lên trên ghế. Những cái xanh che quan chủ khảo.
Còn những cái vàng thì che lá cờ khâm sai.
Tiếng ồn ào ở khu cửa trường tự nhiên im bặt.
Mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan.
Thình lình ở trên lưng trời có tiếng ấm óe:
"Báo oán giả tiên nhập! Báo ân giả thứ nhập? Sĩ tử thứ thứ nhập!"
Hồi loa dữ dội như muốn phá tan cái bầu tịch mịch, làm cho mọi người đều phải
ngơ ngác. Dứt tiếng gầm hét, người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo
theo miệng một người lại phòng cũng đứng chỗ đó với một cuốn sổ trong tay chìa
loa gọi tên một người học trò.
Một tiếng dạ bật lên trong đám đông.
Một chàng thiếu mến, với cái dáng bộ liều chết, cố lách được qua "
vòng vây", để đệ các đồ kềnh càng đến khu đất trước ghế tréo của quan chủ
khảo.
Toán lính thể sát bắt đầu làm việc.
Họ giở bó áo tơi và cuốn áo lều. Họ nhòm những cái "cái
chõng", chân chõng. Họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước. Họ
lần dải lưng và vuốt các gấu áo, gấu quần của chàng thiếu niên. Họ cởi tung cả
bộ gọng lều. Rồi họ lục soát đến cái tráp sơn của chàng ấy đeo ở trước rốn.
Ngoài một hộp mực, vài cái bút, vài cây sáp, một cái dùi vở, một tập giấy
bản và mấy cái bánh giầy, mấy cái bánh giò, một nắm cơm, vài miếng chả trâu,
vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi.
Chàng thiếu niên được phép lĩnh quyển của người lại phòng, cẩn thận cuốn
lại, bỏ vào chiếc ống quyển đeo ở trước ngực, rồi tung tăng đi vào trong trường
với các đồ đạc xúc xích bám quanh vai, quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng
loa gọi tiếng vào.
Bọn lính thể sát lại xúm nhau lại làm các công việc như trước.
Người này cũng không có sách thạch bản hay là văn cũ chữ "kiến"
chi hết, nhưng mà các đồ lặt vặt thì không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên.
Trong cái yên, cũng có giấy, mực, dùi, bút, thịt, chả, cơm, bánh như chàng thiếu
niên vừa rồi, và còn hơn một bộ đồ hút thuốc phiện.
Bọn lính thể sát bĩu môi:
- Vào thi vẫn còn đèo bòng cái của tội này, thì lúc nào hút, lúc nào
làm văn?
Người ấy ngáp một cái dài và trả lời:
- Có hút, văn mới hay! Nếu không hút thì sao ra văn?
Rồi hắn đón lấy quyển của người lại phòng và lểu đểu đi vào trong trường.
Tên lính cầm loa lại gọi đến tên người khác.
Khám trong lều chõng của người này cũng không thấy thứ gì gian lận,
nhưng trong cái yên lại có một chiếc dầm đào cỏ. Bọn lính... thể sát ngạc nhiên
và hỏi:
- Sao lại đem cái này vào trường?
Người ấy khẽ đáp:
- Thưa cậu tôi mắc bệnh đi kiết.
Bọn lính không hiểu lại hỏi:
- Đi kiết thì dùng cái đó làm gì?
Người ấy ngập ngừng:
- Thưa cậu, để khi làm văn, lỡ ra bị mót đại tiện, thì đào nền lều mà
tương nó xuống, rồi lại vùi đi. Chứ làm thế nào? Trong trường, chỗ nào cũng có
lều của học trò, "đi" vào đâu được?
Bọn lính thể sát đã hiểu công dụng của cái dầm, họ liền cho phép người ấy
vào trường sau khi hắn đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển.
Người lính cầm loa lại bắc loa gọi:
- Đào Vân Hạc, Sơn Tây, Đào Nguyên!
Vân Hạc đứng ở ngoài xa, tuy có nghe thấy tên mình, nhưng không thể nào
mà vào được.
Người lính cầm loa gọi đến ba lần, vẫn không thấy có người thưa, hắn
bèn đặt quyển thi của Đào Vân Hạc xuống cạnh chiếc ghế của quan chủ khảo, rồi gọi
đến người tiếp theo.
Một người coi bộ rất khỏe, dạ một tiếng lớn, rồi cố xô đẩy những người
chung quanh, hùng dũng đeo lều chiếu vào tận cửa trường.
Bọn lính thể sát xúm lại lục đồ đạc.
Các vật cần dùng của người này, không khác của mấy người trước. Riêng
có thứ đồ đựng nước, không phải là quả bầu be, mà là một cái lọ sành rộng miệng.
Ngạc nhiên, một người trong bọn liền thò cái que khoắng vào trong lọ, tức
thì ở dưới lọ, có vật tròn tròn bềnh lên mặt nước. Cái gì thế nhỉ? người lính
đó nghiêng cái miệng lọ và móc lấy vật ấy ra. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ
như con kiến, người ta vo lại và trát sáp ong ở ngoài cho khỏi thấm nước.
Của phi pháp liền bị tịch thu. Và cái tội "mang sách vào trường"
liền tống ông học trò ấy ra khỏi cuộc thi cử.
Tên người khác được nhắc đến trong miệng loa.
Và, sau một tiếng dạ gọn gàng, một người đứng tuổi tiến đến trước mặt bọn
lính thể sát với một dáng bộ lo sợ. Thấy người này có vẻ đáng ngờ, bọn lính thể
sát càng lục kỹ các thứ đồ đạc. Nhưng không bắt được cái gì gian lận, họ đã
toan tính cho đi. Thình lình một người trong bọn họ trông thấy phía trong một
cái "cái chõng" có một miếng vá, hắn bèn dùng con dao nhọn cậy tung
miếng vá ấy ra. Thì ra trong đó có để hai cuốn "Hành văn bảo kíp" -thứ
sách thạch bản, chữ in nhỏ bằng hột cám- Cũng như cái ông vừa rồi, người ấy liền
bị trói lại để giải ra dinh tổng đốc với tất cả đồ vật của mình.
Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại cứ tiếp tục
ai làm việc nấy như thường.
Chừng nửa canh năm, sương mù tỏa khắp bầu trời, ngọn lừa ở các cây đình
liệu đã lui xuống gần mặt đất ánh sáng đã hiện ra sắc úa vàng.
Đám người và đám lều chõng ở ngoài đã chuyển hết ba phần tư vào trường,
khu đất của trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò. Tiếng ồn ào dần dần nhỏ bớt.
Mặt trời mọc. Các cây đình liệu cũng vừa cháy hết. Vũ trụ đã khôi phục
cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày.
Mấy nghìn học trò của vi giáp đã được vào trường gần hết. Bấy giờ người
ta mới lại gọi đến những người lúc nãy đã gọi một lần mà chưa thấy vào.
Quyển của Vân Hạc bị đặt ở dưới cuối cùng, cho nên tên chàng phải gọi
sau rốt.
Sau khi chàng vào khỏi cửa, cánh cửa vi giáp liền bị khóa lại. Quan trường
và tất cả các người tùy phái đều theo cửa chính vào nhà thập đạo. Lúc ấy tất cả
học trò vi giáp đóng lều đã xong.
Những chỗ gần nhà Thập dạo đã bị những người vào trước chiếm hết. Chàng
toan đem lều ra đóng ở phía ngoài cùng. Nhưng khổ quá, cái khu đất ấy, lúc nãy
còn là một cõi biên thùy bỏ hoang, các ông vào trước đem bã văn chương tuôn cả
ra đó, mùi theo ngọn gió đưa ra ngạt ngào, không thể nào mà chịu cho nổi. Chàng
lại lếch thếch vác lều chõng đi lùng khắp các miếng đất phía trong.
Trong một cái lều ở gần vi hữu bỗng có tiếng gọi:
- Đào Vân Hạc? Anh tìm ai mà lật đật thế.
Nghe rõ tiếng Nguyễn Khắc Mẫn, chàng đáp:
- Tôi đi kiếm một chỗ đóng lều, chứ không tìm ai!
Khắc Mẫn nói lớn:
- Đến đây! Chỗ này còn rộng! Mau lên!
Vân Hạc mừng quá, chàng vội đeo các đồ đạc lại chỗ gần lều Khắc Mẫn.
Nhanh nhảu, Khắc Mẫn đỡ bộ lều chõng trên vai Vân Hạc xuống đất. Cởi hết mấy nuộc
dây chằng, thầy lấy sáu chiếc gọng lều cắm làm hai hàng, để cho Vân Hạc vít những
đầu gọng sâu vào các ống ròng rọc. Rồi một người trả; áo lều lợp lên, một người
đem đôi áo tơi che kín hai đầu. Bốn phía góc lều đã được Khắc Mẫn đóng bốn cái
cọc nho nhỏ và neo bốn chiếc gọng lều vào đó, cho khi có gió, lều khỏi lay chuyển.
Vân Hạc liền đem cái chõng kê vào trong lều, rồi chàng sang lều Khắc Mẫn, giở bộ
đá lửa đánh lửa hút thuốc.
Chiếc lều bên cạnh, bỗng thấy có khói bốc nghi ngút. Vân Hạc tưởng là bị
cháy, vội chạy ra coi. Nhưng không phải. Người ta đốt vàng. Ông chủ lều ấy sợ
có oan hồn theo vào trường thi báo oán, nên phải dùng thứ lễ ấy tiễn họ. Chàng
mỉm cười và quay vào lều của mình.
Một hồi trống cái từ trên chòi canh giật giọng đưa xuống. Trong vi tức
thì hiện ra cảnh tượng nhốn nháo.
Khắc Mẫn nói với sang lều Vân Hạc:
- Có phải trống "ra đầu bài" đó không?
Vân Hạc gật đầu:
- Chớ còn trống gì bây giờ?
Rồi chàng mở tráp lấy bút vạ hộp mực đem đến cái nhà lợp cót ở gần nhà
Thập đạo.
Hai chiếc lọng xanh và đôi mã tấu sáng quắc vừa rước quan giám trường đề
điệu ở nhà Thập đạo đi xuống. Như hai dòng nước chảy sau chiếc thuyền chạy mạnh,
đám học trò đương đứng lật đật rẽ sang hai bên để cho mặt đất hở ra một con đường
rộng. Bằng dáng điệu hùng dũng, ông đề điệu đi thắng đến trước cái nhà lợp cót
trao tờ giấy yết đầu bài cho người lại phòng dán lên khung bảng, rồi ngài dõng
dạc quay ra và lại lên nhà Thập đạo để đi coi sóc việc trường.
Hàng nghìn học trò trong vi nhất tề xúm lại trước bảng, kẻ đọc người viết.
Khoa này mới đổi phép thi, kỳ đệ nhất thi bằng kinh nghĩa. Hai bài truyện
là:
Luận ngữ: Tắc hà dĩ tai?
Mạnh Tử: Vị thiên hạ đắc nhân.
Năm bài kinh thi:
Kinh dịch: Bạt mao dĩ kỳ vựng chình cát.
Kinh thư: Dụng nhứ tác chân tiếp.
Kinh thi: Nam sơn hữu đài.
Kinh lễ: Tuyển hiền dữ năng.
Kinh Xuân thu: Cập Tề nhân minh vu U.
Vân Hạc không chép, chàng chỉ nhẩm qua một lượt rồi trở về lều. Học trò
ở trước nhà bảng dần dần tản mác, ai nấy trở lại, chỗ ở của mình với cái dáng bộ
lo ngại nhiều hơn vui vẻ.
Trên chiếc chòi canh ở góc vi giáp, quan ngự sử giơ chiếc tay áo lùng
thùng chỉ xuống dưới vi đưa ra một hồi cho che không rõ là những tiếng gì. Tức
thì người anh áo nẹp kề loa vào miệng và thét:
- Bớ truyền sĩ tử? Ai ở lều nấy, không được nhốn nháo chạy đi chạy lại.
Nhưng mà trong vi vẫn cứ nhốn nháo như thường.
Giây lát học trò vào hết các lều. Bấy giờ cả trường đều im phăng phắc.
Vân Hạc lúi húi chép các đầu bài vào một mảnh giấy. Rồi chàng bó gối ngồi nghĩ
không biết nên làm tất cả bảy bài hay chỉ nên làm hai bài. Bởi vì theo phép, kỳ
kinh nghĩa tuy những bảy cái đầu đề, nhưng chỉ những người kiêm trị mới làm tất
cả còn ai chuyên kinh thì chỉ làm hai bài: một bài truyện và một bài kinh trong
bảy bài đó, muốn làm bài nào cũng được.