Người truyền ký ức - Chương 06
Jonas thấy choáng váng. Điều gì sẽ
xảy ra cho các quan hệ bạn bè của cậu? Những giờ chơi bóng không vướng bận suy
nghĩ, hay những lần đạp xe dọc bờ sông? Đó là những khoảng thời gian hạnh phúc
vô cùng thiết yếu của cậu. Giờ đây, phải chăng những điều đó sẽ bị tước mất
hoàn toàn? Những hướng dẫn thời gian biểu đơn giản như đi đâu, vào lúc nào,
không có gì bất ngờ. Mỗi cô cậu Mười hai hẳn đều được hướng dẫn trình diện để
tập huấn ở đâu, như thế nào và bao giờ. Nhưng Jonas hơi rầu lòng khi thấy lịch
của cậu rõ ràng không chừa lại thời gian để giải trí.
Việc không cần tuân theo luật chống
khiếm nhã khiến cậu giật mình. Dù vậy, cậu đã đọc lại và nhận ra nó không bắt
cậu phải bất lịch sự; nó chỉ đơn thuần cho phép cậu làm điều đó. Cậu khá tin
tưởng rằng mình sẽ không bao giờ dùng đến điều đó. Cậu đã quá quen với phép nhã
nhặn trong cộng đồng đến nỗi ý tưởng hỏi người khác một câu hỏi riêng tư, đẩy
họ đến tình huống khó xử, khiến cậu bực mình.
Không được phép kể về giấc mơ, cậu
nghĩ điều đó không thành vấn đề. Cậu rất hiếm khi mơ nên dù sao việc kể về nó
cũng không dễ dàng lắm với cậu, và cậu rất vui vì được miễn làm điều đó. Dù
vậy, trong một chốc, cậu đã tự hỏi, làm thế nào để giải quyết nó vào bữa ban
sáng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cậu có mơ – liệu có nên chỉ việc nói với gia đình
rằng cậu không mơ như cậu vẫn thường làm không? Như thế là nói dối. Tuy nhiên,
điều luật cuối cùng có nói… chà, cậu chưa thật sẵn sàng nghĩ về điều luật cuối
cùng.
Việc hạn chế sử dụng dược phẩm
khiến cậu bức xúc. Mọi cư dân, kể cả trẻ em – thông qua bố mẹ chúng, đều có thể
dễ dàng có được dược phẩm. Lần bị kẹp tay vào cánh cửa, cậu đã nhanh chóng hổn
hển nói vào loa, thông báo cho Mẹ biết, bà vội vàng yêu cầu thuốc giảm đau và
thuốc ngay lập tức được chuyển tới nhà. Gần như ngay tức khắc, cơn đau dữ dội
trên tay cậu chỉ còn hơi nhưng nhức, cảm giác duy nhất cậu còn nhớ được về
chuyện này.
Khi đọc lại điều luật số 6, cậu
nhận ra rằng ngón tay bị kẹp thuộc loại “không tập huấn”. Vậy là dù chuyện đó
có lập lại, cậu vẫn có thể dùng được dược phẩm, nhưng cậu tin chắc nó sẽ không
xảy ra nữa, từ sau lần đó cậu rất cẩn thận mỗi khi lại gần những cánh cửa nặng.
Loại thuốc cậu đang dùng hiện nay,
vào mỗi sáng, cũng không liên quan gì đến tập huấn. Vậy là cậu sẽ tiếp tục uống
thuốc.
Nhưng cậu rất lo lắng khi nhớ lại
lời Trưởng lão nói về sự đau đớn trong quá trình tập huấn. Bà gọi nó là “không
thể diễn tả được”.
Jonas nuốt nước bọt, cố hình dung
ra sự đau đớn đó sẽ như thế nào, khi hoàn toàn không có dược phẩm. Nhưng nó nằm
ngoài nhận thức của cậu.
Cậu không hề có phản ứng gì với
điều luật số 7. Chưa bao giờ cậu nghĩ rằng có lý do gì để đăng kí xin được
phóng thích cả.
Cuối cùng, cậu lấy hết dũng khí để
đọc lại điều luật cuối cùng. Từ khi còn rất nhỏ, từ khi mới được học ngôn ngữ,
cậu đã được rèn luyện không bao giờ nói dối. Đó là một phần không thể thiếu
trong việc luyện cách nói chính xác. Có một lần, khi mới là một cậu Bốn, cậu đã
nói ngay trước bữa ban trưa ở trường, “Cháu sắp chết đói rồi đây.”
Lập tức cậu bị lôi ra một chỗ và
được dạy riêng một bài học ngắn về sự chính xác ngôn từ. Không phải là cậu sắp
chết đói, điều đó được chỉ ra. Cậu đang đói. Không ai trong cộng đồng chết đói
cả, chưa từng và sẽ không bao giờ chết đói. Nói “chết đói” có nghĩa là nói dối.
Hẳn nhiên là một lời nói dối không chủ ý. Nhưng lý do cần có sự chính xác ngôn
từ là để đảm bảo rằng những lời nói dối không chủ ý không bao giờ phát ra. Họ
hỏi cậu có hiểu điều đó không, và cậu gật đầu.
Theo những gì cậu nhớ, Jonas chưa
từng muốn nói dối bao giờ. Asher không nói dối. Lily không nói dối. Bố mẹ cậu
cũng vậy. Không ai nói dối cả. Trừ khi…
Lúc này Jonas nghĩ đến một điều
trước đây cậu chưa từng để ý. Ý nghĩ mới này thật đáng sợ. Nếu những người khác
– người lớn – khi trở thành Mười hai, cũng nhận được trong bảng chỉ dẫn dòng
khủng khiếp này thì sao?
Nếu họ đều được dạy rằng: Có thể
nói dối, thì sao?
Đầu óc cậu quay cuồng như chong
chóng. Giờ đây, khi đã có quyền đặt những câu hỏi vô cùng khiếm nhã – và hứa
hẹn được trả lời – cậu có quyền, về lý thuyết (dù điều này gần như không thể
tưởng tượng được) hỏi một ai đó, một người lớn nào đó, bố cậu chẳng hạn: “Bố có
nói dối không?”
Nhưng cậu sẽ không có cách nào biết
được câu trả lời mình nhận được là thật hay không.
“Tớ vào chỗ này, Jonas ạ,” Fiona
nói với cậu khi chúng tới cửa trước của Nhà Dưỡng lão sau khi đỗ xe vào bãi.
“Không hiểu sao tớ lại thấy căng
thẳng,” cô thú nhận. “Tớ đã đến đây rất thường xuyên mà.” Cô lật tập tài liệu
trên tay.
“Chà, bây giờ mọi thứ khác rồi,”
Jonas nhắc.
“Kể cả biển tên trên xe chúng ta
nữa,” Fiona cười lớn. Trong đêm, biển tên của mỗi cô cậu Mười hai mới đều được
Đội Bảo dưỡng tháo ra và thay thế bằng mẫu biển cho biết đây là những “công dân
thực tập”.
“Tớ không muốn bị muộn giờ đâu,” cô
nói vội rồi leo lên những bậc thang. “Nếu học xong cùng một giờ, tớ sẽ đi về
với cậu.”
Jonas gật đầu, vẫy tay chào cô, rồi
đi vòng qua tòa nhà đến cửa Nhà Chái. Một khu nhà phụ ở đằng sau. Chắc chắn cậu
cũng không muốn đến muộn trong ngày đầu tiên của đợt tập huấn.
Nhà Chái trông rất bình thường, cửa
sổ của nó chẳng có gì nổi bật. Cậu định cầm vào cái móc cửa nặng nề, rồi nhận
ra chiếc chuông trên tường. Vậy là cậu ấn chuông thay vì gõ cửa.
“Vâng?” Giọng nói phát qua một
chiếc loa nhỏ phía trên cái chuông.
“Cháu là, ừm, Jonas. Cháu là người
mới – ý cháu là…”
“Mời vào,” một tiếng cách vang lên
cho biết cửa đã được mở khóa.
Tiền sảnh rất nhỏ, và chỉ có độc
một chiếc bàn, bên nó là một Nhân viên Lễ tân nữ đang ngồi làm việc với thứ
giấy tờ gì đó. Cô nhìn lên khi Jonas bước vào; và rồi cô đứng dậy, khiến cậu
rất ngạc nhiên. Đứng lên chào thì chỉ là chuyện nhỏ; nhưng trước giờ chưa từng
có ai tự động đứng dậy khi Jonas xuất hiện cả.
“Chào mừng ngài, Người Tiếp nhận Ký
ức,” cô kính cẩn nói.
“Ôi đừng,” cậu trả lời ngượng
nghịu. “Gọi cháu là Jonas thôi.”
Cô mỉm cười, nhấn một cái nút, và
cậu nghe thấy tiếng cách khi chiếc cửa bên trái cô được mở khóa. “Cậu có thể
vào luôn phía trong,” cô nói.
Rồi dường như cô đã nhận ra được vẻ
lúng túng của cậu và hiểu được nguyên nhân. Chưa từng có cánh cửa nào trong
cộng đồng bị khóa cả. Ít ra cũng không có cái nào trong số Jonas đã biết.
“Khóa cửa chỉ để đảm bảo sự tách
biệt cho Người Tiếp nhận, vì anh ta cần tập trung,” cô giải thích. “Chúng ta sẽ
gặp rắc rối nếu người dân đi lạc vào, để tìm kiếm Sở Sửa chữa Xe đạp hay cái gì
đó.”
Jonas phá lên cười, cảm thấy bớt
căng thẳng. Người phụ nữ có vẻ thân thiện, và quả là – thực ra nó đã trở thành
chuyện cười trong khắp cộng đồng – Sở Sửa chữa Xe đạp, một văn phòng nhỏ không
quan trọng, quá thường xuyên chuyển chỗ đến mức chẳng ai biết nó ở đâu.
“Không có gì nguy hiểm ở đây đâu,”
cô nói.
“Nhưng,” cô nói thêm, liếc nhìn chiếc
đồng hồ treo tường, “ông ấy không thích phải chờ đợi đâu.”
Jonas vội đi qua cửa và thấy mình
đang ở trong một khu sinh hoạt được trang bị tiện nghi. Nó không khác nhiều so
với nhà ở của chính tổ gia đình cậu. Đồ nội thất đã được tiêu chuẩn hóa khắp
cộng đồng: thiết thực, vững chắc, và chức năng của từng món phải được định rõ.
Giường là để ngủ. Bàn để ăn. Bàn giấy để học.
Tất cả những thứ đó đều có trong
căn phòng rộng rãi này, dù từng thứ đều có chút khác biệt với đồ đạc trong nhà
Jonas. Vải bọc trên ghế nệm và tràng kỷ dày hơn một chút và sang hơn; chân bàn
thì không thẳng như ở nhà, mà thon và còn được chạm khắc một chút ở đế. Chiếc
giường, nằm trong một góc thụt vào ở xa phía cuối phòng, phủ một tấm vải lộng
lẫy, toàn bộ bề mặt của nó có thêu những họa tiết phức tạp.
Nhưng sự khác biệt dễ thấy nhất là
những cuốn sách. Ở nhà cậu có những tập sách tham khảo cần thiết là mỗi hộ gia
đình đều có: một cuốn từ điển, một tập danh bạ công đồng, mô tả chi tiết mọi
văn phòng, nhà máy, cao ốc và hội đồng. Và đương nhiên là cả Sách luật nữa.
Những cuốn sách trong nhà ở của
mình là những cuốn duy nhất cậu từng thấy. Cậu không hề biết có tồn tại những
cuốn sách khác.
Nhưng những bức tường của căn phòng
này thì xếp đầy những tủ sách đầy ắp, cao đến tận trần nhà. Phải có đến hàng
trăm, có khi hàng nghìn cuốn sách, tiêu đề đắp nổi sáng loáng.
Jonas nhìn chằm chằm những cuốn
sách. Cậu không thể tưởng tượng trong hàng ngàn trang giấy ấy có những gì.
Chẳng lẽ vẫn còn luật lệ ngoài những luật quản lý cộng đồng? Hay là có nhiều mô
tả hơn về những văn phòng, nhà máy và hội đồng?
Cậu chỉ có một giây để nhìn quanh
vì cậu nhận ra có một người ngồi trên chiếc ghế cạnh bàn đang nhìn cậu. Cậu vội
vàng tiến tới, đứng trước ông, khẽ cúi chào và nói, “Cháu là Jonas.”
“Ta biết. Chào mừng cậu, Người Tiếp
nhận Ký ức.”
Jonas nhận ra, ông chính là vị Bô
lão trông có vẻ tách biệt với những người khác tại Nghi lễ, dù ông mặc cùng
loại trang phục đặc biệt mà chỉ có Bô lão mới được mặc.
Jonas e dè nhìn vào đôi mắt màu
nhạt giống hệt như mắt cậu
“Thưa ngài, cháu rất xin lỗi vì sự
thiếu hiểu biết của mình…”
Cậu chờ đợi, nhưng ông không đáp
lại bằng câu “chấp nhận” đúng mẫu.
Sau một lúc, Jonas nói tiếp, “Nhưng
cháu đã nghĩ – ý cháu là cháu nghĩ,” cậu sửa lại, tự nhắc nhở rằng nếu tính
chính xác của ngôn ngữ có bao giờ quan trọng, thì chính là lúc này, “ngài mới
là Người Tiếp nhận Ký ức. Cháu chỉ, ừm, cháu mới chỉ được giao nhiệm vụ, ý cháu
là được lựa chọn, ngày hôm qua.
Cháu vẫn chưa là gì cả.”
Người đàn ông không nói gì, chỉ
nhìn cậu trầm tư. Đó là cái nhìn lẫn cả sự thích thú, tò mò, lo âu và có lẽ một
chút thông cảm nữa.
Cuối cùng ông cũng lên tiếng: “Bắt
đầu từ ngày hôm nay, từ giây phút này, ít ra là với ta, cậu là Người Tiếp
nhận.”
“Ta đã là Người Tiếp nhận trong một
thời gian dài. Một thời gian rất dài, rất dài. Cậu có thể thấy điều đó phải
không?”
Jonas gật đầu. Mặt ông đã nhăn
nheo, và đôi mắt ông, dù thấu suốt và tinh anh hiếm thấy, lại có vẻ mệt mỏi.
Vùng thịt xung quanh đôi mắt sạm lại thành những quầng tối.
“Cháu thấy rằng ngài đã rất già,” Jonas
kính cẩn đáp lại một cách kính trọng. Người Già luôn có được sự kính trọng cao
nhất.
Người đàn ông mỉm cười. Ông chạm
vào vùng thịt xệ cuống trên khuôn mặt mình với vẻ thích thú. “Thực ra ta không
già như vẻ bên ngoài đâu,” ông nói với Jonas. “Công việc này đã khiến ta già
cỗi. Ta biết trông ta như thể sắp được phóng thích đến nơi vậy. Nhưng thực chất
ta còn khá nhiều thời gian.
“Tuy nhiên, ta rất vui vì cậu được
lựa chọn. Họ đã mất một thời gian dài. Thất bại ở lần lựa chọn trước, cách đây
mười năm rồi, còn sức lực của ta thì bắt đầu giảm sút. Ta cần toàn bộ sức mạnh
còn lại để huấn luyện cậu. Chúng ta phải thực hiện một công việc khắc nghiệt và
đầy gian khổ, cả hai chúng ta.”
“Ngồi xuống đi,” ông nói, ra hiệu
cho cậu ngồi vào chiếc ghế cạnh đó. Jonas hạ người xuống chiếc ghế bọc đệm mềm
mại.
Người đàn ông nhắm mắt lại và vẫn
tiếp tục nói. “Khi còn là một đứa Mười hai, ta cũng được lựa chọn như cậu vậy.
Ta đã rất hoảng hốt, và ta chắc cậu cũng vậy.” Ông mở mắt trong một lúc và nhìn
sang Jonas. Cậu gật đầu.
Đôi mắt lại nhắm lại. “Ta đã tới
chính căn phòng này để bắt đầu quá trình tập huấn. Đã lâu lắm rồi.
“Ta cũng thấy Người Tiếp nhận tiền
nhiệm già cỗi y như cậu thấy ta vậy. Ông ấy cũng mệt mỏi như ta hôm nay.”
Ông đột ngột nhổm về phía trước, mở
mắt và nói, “Cậu có thể đặt câu hỏi. Ta có rất ít kinh nghiệm trong việc diễn
tả quá trình này. Việc nói về nó là không được phép.”
“Cháu biết, thưa ngài. Cháu đã đọc
chỉ dẫn rồi ạ,” Jonas nói.
“Vậy ta sẽ bỏ qua việc phải cố gắng
hết sức giải thích rõ mọi thứ.” Ông cười nho nhỏ. “Công việc của ta quan trọng
và vô cùng vinh dự. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta hoàn hảo, và trước đây,
khi cố đào tạo một người kế tục, ta đã thất bại. Hãy hỏi bất cứ câu hỏi nào có
thể giúp ích cho cậu.”
Trong đầu Jonas có rất nhiều câu
hỏi. Cả nghìn câu. Cả vạn câu. Số câu hỏi nhiều như những cuốn sách xếp trên
tường. Nhưng cậu không hỏi câu nào cả, chưa phải lúc.
Người đàn ông thở dài, dường như
đang sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu. Rồi ông lại bắt đầu. “Đơn giản mà
nói,” ông nói, “dù việc này chẳng đơn giản chút nào, thì công việc của ta là
truyền lại cho cậu tất cả những ký ức mà ta nắm giữ. Những ký ức về quá khứ.”
“Thưa ngài,” Jonas ngập ngừng,
“cháu rất hứng thú nếu được nghe câu chuyện về cuộc đời ngài, và lắng nghe
những ký ức của ngài.”
“Cháu xin lỗi vì đã chen ngang,”
cậu vội nói thêm.
Người đàn ông sốt ruột xua tay,
“Trong phòng này thì không phải lỗi phải gì hết. Chúng ta không có thời gian
đâu.”
“Ừm,” Jonas nói tiếp, cảm thấy
không thoải mái khi nhận ra hình như mình lại đang ngắt lời ông, “Cháu thật sự
rất hứng thú, cháu không phủ nhận điều đó. Nhưng cháu không hiểu chính xác vì
sao nó lại quan trọng đến vậy. Cháu có thể làm công việc người lớn nào đó trong
cộng đồng, và vào giờ giải lao cháu có thể đến nghe những câu chuyện thời thơ
ấu của ngài. Cháu muốn vậy hơn. Thật ra,” cậu nói thêm, “cháu đã từng làm vậy,
trong Nhà Dưỡng lão. Người Già rất thích kể về tuổi thơ của họ, và cháu luôn
thấy chúng rất thú vị.”
Người đàn ông lắc đầu. “Không,
không đâu,” ông nói “Ta đã không nói rõ. Thứ ta phải truyền cho cậu không phải
là quá khứ hay tuổi thơ của ta.”
Ông dựa về đằng sau, ngả đầu vào
lưng ghế đệm. “Đó là ký ức của toàn thế giới,” ông nói trong tiếng thở dài.
“Trước khi có cậu, trước ta, trước Người Tiếp nhận tiền nhiệm, và cả những thế
hệ trước ông ấy nữa.”
Jonas cau mày, “Toàn thế giới?” Cậu
hỏi. “Cháu không hiểu. Ý ngài là không chỉ chúng ta? Không chỉ cộng đồng này? Ý
ngài là cả Nơi Khác sao?” Trong tâm trí, cậu cố gắng hiểu khái niệm đó. “Cháu
rất tiếc, thưa ngài. Cháu thực sự không hiểu. Có lẽ cháu không đủ thông minh.
Cháu không hiểu ý ngài khi ngài nói ‘cả thế giới’ hay ‘những thế hệ trước ông
ấy’. Cháu đã nghĩ là chỉ có chúng ta. Chỉ hiện tại thôi.”
“Còn có hơn thế rất nhiều. Đó là
tất cả những thứ bên kia giới hạn – tất cả những thứ ở Nơi khác và tất cả những
thứ từ ngày xửa ngày xưa. Ta đã tiếp nhận tất cả những thứ đó, khi ta được lựa
chọn. Và hoàn toàn đơn độc trong căn phòng này, ta sống đi sống lại những trải
nghiệm đó. Đó là cách trở nên thông thái. Và là cách chúng ta định hình tương
lai.”
Ông nghỉ một lát, hít thật sâu. “Ta
bị chúng đè nặng lên mình,” ông nói.
Đột nhiên, Jonas cảm thấy lo lắng
cho người đàn ông này khủng khiếp.
“Nó cứ như là…” Ông dừng lại, dường
như đang lục trong trí óc những từ thích hợp để diễn tả. “Nó giống như đi xe
trượt tuyết xuống dốc trong đợt tuyết dày,” cuối cùng ông cũng nói. “Lúc đầu
thật là phấn khích: tốc độ, không khí trong lành và lạnh buốt, nhưng sau đó
tuyết sẽ tích tụ lại, đông cứng vào thanh trượt, và ta sẽ đi chậm lại, ta phải
cố hết sức để đi tiếp và...”
Chợt ông lắc mạnh đầu, và nhìn sang
Jonas. “Điều đó không có nghĩa gì với cậu đúng không?” Ông hỏi.
Jonas lúng túng: “Cháu không hiểu
điều đó, thưa ngài.”
“Hẳn nhiên là cậu không hiểu rồi.
Cậu không biết tuyết là gì đúng không?”
Jonas lắc đầu.
“Xe trượt tuyết thì sao? Thanh
trượt?”
“Không thưa ngài,” Jonas nói.
“Xuống dốc? Từ này không có nghĩa
gì với cậu ư?”
“Không, thưa ngài.”
“Thôi được, đó sẽ là điểm khởi đầu.
Ta cứ băn khoăn mãi không biết nên bắt đầu thế nào. Ra phía giường đi, và nằm
úp mặt xuống. Trước hết hãy cởi áo trùm của cậu đã.”
Jonas làm theo, trong lòng thoáng
chút lo lắng. Dưới bộ ngực trần, cậu cảm thấy những nếp gấp mềm mại của thứ vải
lộng lẫy phủ giường. Cậu quan sát người kia đứng dậy và đầu tiên là tiến về bức
tường có loa. Cái loa đó cùng loại với những cái loa có trong mọi nhà ở, nhưng
nó có một điểm khác biệt. Nó có một công tắc, và người đàn ông đã khéo léo ấn
tách một cái ở đầu ghi chữ TẮT.
Jonas suýt nữa thì hét lên, có
quyền lực để tắt loa đi, quả là một điều đáng kinh ngạc! Rồi người kia di
chuyển mau lẹ lạ thường tới góc phòng đặt giường. Ông ngồi trên chiếc ghế cạnh
Jonas, lúc này đang bất động, chờ đợi chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.
“Nhắm mắt vào. Thả lỏng đi. Sẽ
không đau đâu.”
Jonas nhớ lại rằng mình được phép,
và thậm chí được khuyến khích đặc câu hỏi. “Ngài định làm gì, thưa ngài?” Cậu
hỏi, hy vọng giọng mình không để lộ sự căng thẳng.
“Ta chuẩn bị truyền ký ức về
tuyết,” ông già nói, và đặt hai tay lên tấm lưng trần của Jonas.