Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai - Chương 06
Đến
lúc xong thì bàn tay tôi nứt nẻ và rướm máu. Ngôi nhà đã rất sạch sẽ để chuẩn bị
cho bữa tiệc. Maria Thins đặt hàng đặc biệt để mua thịt còn non, thịt bê, lưỡi,
cả một con lợn, thỏ, gà lôi và gà trống thiến, sò, tôm, trứng cá muối và cá
trích, loại rượu vang ngọt và bia hảo hạng, bánh ngọt loại đặc biệt ở chỗ người
thợ nướng bánh. Khi tôi đưa đơn đặt hàng thịt của Maria Thins cho Pieter bố,
ông ta xoa tay:
- Vậy
là thêm một miệng nữa phải nuôi. Càng tốt hơn cho chúng tôi, - ông ta tuyên bố.
Những
bánh xe vĩ đại của Gouda và Edam đến, và những cây atisô, rồi cam, chanh, bưởi,
mận, hạnh nhân và quả phỉ. Thậm chí còn có một quả dứa được gửi đến, món quà của
một người chị họ giàu có của maria Thins. Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy quả dứa
nào, và cũng không dám thử vì sợ cái vỏ có gai nhọn, xù xì của nó. Mà dù sao
thì tôi cũng chẳng phải là người được ăn. Không có món nào là chúng tôi được
phép, ngoại trừ nếm thử một chút đồ dư mà tanneke cho phép chúng tôi. Chị ta
cho phép tôi thử một chút món trứng cá mà tôi không thích nhiều như công nhận với
chị ta ta, chỉ vì sự xa xỉ của nó, và một chút rượu vang ngọt, thứ đồ uống có vị
tuyệt vời pha với quế.
Củi
và than dự trữ chất đống ở sân sau, xiên thịt được mượn từ bên hàng xóm. Những
thùng bia xếp trong sân sau và lợn cũng được quay ở đây. Maria Thins thuê một cậu
bé trông coi các bếp lửa sẽ cháy suốt cả đêm một khi chúng tôi bắt đầu quay lợn.
Suốt quá trình chuẩn bị Catharina nằm trên giường cùng Franciscus, được vú em
chăm sóc, thanh thản như một con thiên nga. Dù vậy, cũng giống như một con
thiên nga, cô ta có một cái cổ dài và mỏ nhọn. Tôi tránh xa cô ta.
-
Cô ta lúc nào cũng muốn ngôi nhà như thế này hàng ngày, - Tanneke thầm thì với
tôi trong lúc chị ta chuẩn bị món thỏ hầm nồi đất và tôi thì đang đun nước để
kì cọ cửa sổ. - Cô ta muốn tất cả mọi thứ ở trong trạng thái vây quanh cô ta,
bà hoàng của chăn đệm! - Tôi cười khúc khích cùng chị ta, dù biết rằng tôi
không nên khuyến khích chị ta phản bội chủ nhưng tôi vẫn vui khi thấy chị ta
như vậy. Trong suốt quá trình chuẩn bị, ông luôn tránh xa, giam mình trong xưởng
vẽ hay đến trốn đến Giáo phường. Tôi chỉ nhìn thấy ông có một lần, ba ngày trước
bữa tiệc. Cô gái được thuê và tôi đang lau chùi những chân nến trong phòng bếp
thì Lisbeth đến tìm tôi.
-
Người bán thịt tìm chị, ở ngoài kia ấy, - cô bé nói.
Tôi
buông giẻ lau, chùi tay vào tạp dề và đi theo cô bé ra hành lang. Tôi biết đó sẽ
là anh con trai. Anh ta chưa bao giờ gặp tôi ở Khu người Gia tô. Ít nhất thì
khuôn mặt tôi không bị nứt nẻ và đỏ như vẫn thường hay bị do cúi mặt bên thùng
đồ giặt đang tỏa hơi nóng. Pieter con đang đẩy đến trước ngôi nhà một chiếc xe
hai bánh chất đầy những loại thịt mà Maria Thins đã đặt. Mấy đứa con gái đang
nhìn vào đó. Chỉ có Cornelia nhìn xung quanh. Khi tôi xuất hiện ở khung cửa
Pieter cười với tôi. Tôi giữ bình tĩnh và không đỏ mặt. Cornelia quan sát chúng
tôi.Con bé không phải là người duy nhất. Tôi cảm thấy sự có mặt của ông ở sau
lưng mình - ông đã đi dọc hành lang sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn ông và thấy
rằng ông đã nhìn thấy nụ cười của Pieter, và cả sự mong chờ trong đó nữa. Ông
chuyển đôi mắt nâu sang nhìn tôi, chúng lạnh lùng. Tôi cảm thấy chóng mặt, cứ
như thể tôi đứng lên quá nhanh. Tôi quay lưng lại. Nụ cười của Pieter bây giờ
đã bớt tươi. Anh ta thấy tôi bị chóng mặt.
Tôi
cảm thấy bị mắc kẹt giữa hai người đàn ông. Đó không phải là một cảm giác dễ chịu.Tôi
đứng sang bên cho ông chủ đi qua. Ông đi sang phố Molenpoort mà chẳng liếc qua
hay nói lời nào. Pieter và tôi nhìn ông đi trong im lặng.
-
Tôi mang thịt theo đơn đặt hàng của cô đến đây, - anh ta nói. - Cô muốn tôi để ở
đâu?
Chủ
nhật đó, khi về nhà thăm cha mẹ, tôi không muốn kể với họ là có một đứa bé mới
được sinh ra. Tôi nghĩ chuyện đó sẽ khiến cha mẹ tôi nhớ đến chuyện họ mất đi
Agnes. Nhưng mẹ tôi đã nghe được chuyện đó ngoài chợ nên tôi buộc phải kể cho họ
nghe việc sinh đứa bé và việc cầu nguyện cùng gia đình họ và mọi việc chuẩn bị
cho bữa tiệc. Mẹ tôi lo lắng về tình trạng đôi bàn tay tôi, nhưng tôi hứa với mẹ
là những việc nặng nhọc nhất đều xong rồi.
-
Thế còn bức tranh? Ông ấy đã bắt đầu vẽ bức mới chưa? - cha tôi hỏi. Ông luôn hi
vọng là tôi sẽ miêu tả bức tranh mới cho ông nghe.
-
Chẳng có gì cả, - tôi trả lời. Tuần đó rất ít khi tôi ở trong xưởng vẽ. Chẳng
có gì thay đổi cả.
-
Có lẽ ông ta lười nhác, - mẹ tôi nói.
-
Ông ta không phải như vậy, - tôi đáp ngay.
-
Có lẽ ông ấy không muốn nhìn thấy, - cha tôi nói.
-
Con không biết ông ấy muốn gì, - tôi nói gay gắt hơn mong muốn. mẹ nhìn tôi.
Cha tôi cựa mình trong ghế.
Tôi
không nói gì thêm về ông nữa.Đến tầm trưa ngày lễ, khách khứa bắt đầu đến. Cho
đến chiều thì có vẻ có khoảng một trăm người trong và ngoài căn nhà, tràn ra cả
sân sau và ngoài phố. Mọi kiểu người đều được mời, từ những thương gia giàu có
cho đến ông thợ bánh, thợ may, thợ chữa giày, người bào chế thuốc của chúng
tôi. Hàng xóm cũng góp mặt, mẹ và chị của ông chủ tôi, rồi chị em họ của Maria
Thins. Những người thợ vẽ cũng ở đó và cả những thành viên khác của giáo phường.
Ngài Leeuwenhoek, cả ngài Rujiven cùng vợ đều có mặt. Thậm chí cả Pieter cha
cũng có mặt ở đó, không mặc chiếc tạp dề thâm máu, gật đầu và cười với tôi
trong lúc tôi đi ngang qua với bình rượu pha gia vị.
-
Chào cô, Griet, - ông nói khi tôi rót cho ông ít rượu, - con trai tôi sẽ ghen tỵ
là tôi có được buổi tối cùng cô.
-
Tôi không nghĩ như vậy, - tôi vừa lẩm bẩm vừa len đi khỏi chỗ ông ta, cảm thấy
lúng túng.
Catharina
là trung tâm của mọi sự chú ý. Cô ta mặc một cái váy lụa màu xanh đã được sửa
cho vừa với cái bụng vẫn chưa gọn lại. Bên ngoài cô ta khoác cái áo choàng đính
lông chồn mà vợ ngài Rujiven đã mặc trong bức tranh. Trông nó thật là kỳ dị
trên vai một người đàn bà khác. Tôi không thích cô ta choàng cái áo đó, mặc dầu
tất nhiên đó là cô ta mặc đồ của mình. Cô ta còn đeo vòng cổ và hoa văn thật đẹp
đẽ. Cô ta đã nhanh chóng bình phục sau ca sinh nở và giờ đây trông thật vui vẻ
và yêu kiều, cơ thể cô ta đã được giải phóng khỏi gánh nặng nó phải mang trong
nhiều tháng. Cô ta đi lại nhanh nhẹn qua các
phòng,
uống và cười với khách khứa, châm nến, gọi thức ăn, giới thiệu mọi người với
nhau. Cô ta dừng lại chỉ để làm nhặng lên về Franciscus khi cậu bé đang được vú
em cho bú.
Ông
chủ của tôi trầm lặng hơn nhiều. Phần lớn thời gian ông đứng trong góc phòng lớn
nói chuyện với ngày Leeuwenhoek, mặc dầu đôi mắt ông dõi theo Catharina khắp
căn phòng trong lúc cô ta di chuyển giữa những người khách. Ông mặc một cái áo
vest nhung đen thanh nhã và đội chiếc mũ dành cho các ông bố. Trông ông thoải
mái dù không quan tâm lắm đến bữa tiệc. Đám đông không có sức hút với ông như với
vợ ông.
Cuối
buổi tối, ngài Ruijven cố dồn tôi vào chân tường trong hành lang khi tôi đi
ngang qua đó với cây nến và một bình rượu.
-
Này, cô hầu mắt to, - ông ta hét lên, ép người vào tôi. - Chào cô, cô gái của
tôi. Ông ta dùng một tay giữ cằm tôi, tay kia nâng cao cây nến lên để soi khuôn
mặt tôi. Tôi không thích cái cách ông ta nhìn tôi.
-
Ông cần phải vẽ cô ấy, - ông ta nói qua vai.
Ông
chủ của tôi đang ở đó. Ông đang cau mặt. Trông ông như đang muốn nói gì với người
bảo trợ của mình nhưng không thể.
-
Griet, lấy cho tôi thêm ít rượu nho, - Pieter cha xuất hiện từ căn phòng Chúa
Giê su bị đóng đinh trên thánh giá và chìa chiếc ly ra cho tôi.
-
Vâng, thưa ngài, - tôi giật cằm ra khỏi tay ngài Ruijven và nhanh chóng đến bên
Pieter cha. Tôi có thể cảm nhận thấy hai cặp mắt dán trên lưng mình.
-
Ôi, tôi xin lỗi, thưa ngài, hết rượu rồi. Tôi sẽ lấy thêm ở trong bếp, - tôi vội
vã rời đi, tay ôm chặt chiếc bình sao cho họ không phát hiện ra là bình còn đầy.
Mấy
phút sau, khi tôi quay lại thì chỉ còn Pieter cha ở đó, đứng tựa vào bức tường.
-
Cám ơn ngài, - tôi nói nhỏ trong lúc rót rượu vào ly cho ông ta.
Ông
ta nháy mắt với tôi.
-
Thật đáng giá được cô gọi là ngài. Chắc là tôi chẳng bao giờ được nghe thế nữa,
phải không? -Ông ta nâng ly lên chúc giả vờ và uống.
Sau
bữa tiệc, mùa đông đã đến với chúng tôi và ngôi nhà trở nên lạnh lẽo, tẻ ngắt.
Ngoài rất nhiều đồ phải giặt giũ, không còn có điều gì đó để trông ngóng. Những
đứa trẻ, thậm chí cả Aleydis đều trở nên khó bảo, đòi hỏi phải chú ý, chẳng mấy
khi giúp đỡ gì. Maria Thins ở trong phòng mình trên tầng nhiều hơn trước.
Franciscus, đứa trẻ luôn ngoan ngoãn cho đến buổi tiệc mừng, bị cảm gió và khóc
hầu như không ngớt. Nó tạo ra một âm thanh chói tai có thể nghe thấy khắp nơi
trong ngôi nhà - ở sân sau, trong xưởng vẽ, trong hầm chứa. Căn cứ vào bản chất
của cô ta, Catharina tỏ ra kiên nhẫn một cách đáng kinh ngạc với đứa trẻ, nhưng
cáu kỉnh với bất kỳ ai, thậm chí cả với chồng.
Tôi
đã cố gắng không nghĩ về Agnes trong thời gian chuẩn bị cho buổi tiệc, nhưng những
kỷ niệm về em cứ quay trở về, thậm chí còn dữ dội hơn ngày xưa. Bây giờ, khi
tôi có thời gian để nghĩ, tôi nghĩ quá nhiều. Tôi giống như một con chó liếm
láp những vết thương của mình để cho sạch vết thương nhưng chỉ làm chúng đau
hơn.Tệ hơn cả, ông giận dữ với tôi. Từ cái đêm ông Ruijven dồn tôi vào góc tường,
có thể là từ hôm Pieter con cười với tôi, ông trở nên xa lạ hơn. Tôi cũng có vẻ
như hay gặp ông nhiều hơn trước. Mặc dù ông ra khỏi nhà khá nhiều, một phần là
để trốn chạy tiếng khóc của Franciscus, tôi dường như luôn bước vào cửa trước
khi ông chuẩn bị rời nhà, hay đi xuống cầu thang trong lúc ông chuẩn bị đi lên,
hoặc quét phòng Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá khi ông ngó vào tìm
Maria Thins ở đó. Một hôm khi đi làm việc vặt cho Catharina tôi thậm chí còn gặp
ông ở Quảng trường Chợ. Lần nào ông cũng đều lịch sự gật đầu chào, sau đó bước
sang bên để cho tôi đi qua mà không nhìn tôi.
Tôi
đã làm ông giận, nhưng tôi không biết tại sao. Xưởng vẽ cũng trở nên lạnh lẽo,
tẻ ngắt. Trước đó nó tạo cảm giác bận rộn và đầy mục đích - đó là nơi các bức
tranh được vẽ ra. Giờ đây, mặc dù tôi nhanh chóng phủi đi bất cứ hạt bụi nào
rơi xuống, nó chỉ đơn giản là một căn phòng trống, chẳng còn chờ đợi gì ngoài bụi.
Tôi không muốn nó trở thành một nơi chốn buồn bã. Tôi muốn được ẩn trốn ở đó,
như tôi đã làm. Một buổi sáng Maria Thins đến mở cửa cho tôi và thấy rằng cửa
đã mở. Chúng tôi nhìn vào căn phòng tranh tối tranh sáng. Ông đang ngủ bên bàn,
gối đầu lên tay, lưng quay lại cửa. Maria Thins lùi lại.
-
Chắc phải lên đây vì đứa bé khóc quá, - bà lẩm bẩm. Tôi cố nhìn lần nữa nhưng
bà đã chắn lối. Bà nhẹ nhàng đóng cửa. - Kệ ông ấy. Cô có thể dọn dẹp ở đây
sau.Sáng hôm sau, vào đến xưởng vẽ tôi mở tất cả các cửa chớp và nhìn xung
quanh phòng tìm kiếm một cái gì đó tôi có thể làm, một cái gì đó tôi có thể chạm
vào mà không làm phật ý ông, một cái gì đó tôi có thể di chuyển mà không khiến
ông để ý. Mọi thứ đều ở chỗ của nó - cái bàn, những cái ghế, bàn làm việc có
sách và giấy, tủ với những cái cọ và dao được để cẩn thận trên nóc, giá vẽ được
dựng vào tường những bảng màu sạch sẽ bên cạnh. Những vật ông đã vẽ được cất
trong phòng kho hoặc lại được sử dụng trong nhà.
Một
trong những chiếc chuông của Nhà thờ Mới bắt đầu điểm giờ. Tôi đến bên cửa sổ
nhìn ra ngoài. Vào lúc đồng hồ điểm hết sáu tiếng tôi biết mình sẽ làm gì.Tôi lấy
một ít nước đã được đun nóng trên bếp, xà phòng, giẻ lau và mang chúng vào xưởng
vẽ, nơi tôi bắt đầu lau chùi cửa sổ. Tôi phải đứng lên bàn để với tới những tấm
kính trên cùng.Tôi đang lau chiếc cửa sổ cuối cùng thì nghe tiếng ông bước vào.
Tôi quay đầu lại để nhìn ông qua vai mình, mắt mở to.
-
Thưa ngài, - tôi lúng túng mở miệng. Tôi không biết phải giải thích thế nào về
động cơ lau chùi của mình.
- Dừng
lại.
Tôi
sững người, hoảng hốt rằng tôi đã làm trái ý ông.
- Đứng
yên.
Ông
chăm chăm nhìn tôi như thể một con ma bất thần xuất hiện trong xưởng vẽ của
ông.
-
Tôi xin lỗi, thưa ngài, - tôi nói, thả miếng giẻ lau vào xô nước. - Lẽ ra tôi
phải hỏi ngài trước. Nhưng hiện giờ ngài đang không vẽ gì và…
Trông
ông bối rối, sau đó ông lắc đầu.
-
À, những chiếc cửa sổ. Không sao, cô có thể tiếp tục việc đang làm.
Tôi
ước gì không phải lau chùi trước mặt ông nhưng vì ông cứ đứng đó, tôi chẳng còn
lựa chọn nào.Tôi nhúng miếng giẻ vào nước, vắt và bắt đầu lau những tấm kính lần
nữa, cả bên trong lẫn bên ngoài.Tôi lau chùi xong những chiếc cửa sổ và lùi lại
để ngắm hiệu quả. Ánh sáng chiếu vào nhìn trong trẻo.
Ông
vẫn đứng đằng sau tôi.
-
Thưa ngài, ngài có hài lòng không ạ?
-
Quay nhìn tôi qua vai lần nữa nào.
Tôi
làm như ông ra lệnh. Ông đang quan sát tôi. Ông lại quan tâm đến tôi.
-
Ánh sáng, bây giờ nó rõ hơn, - tôi nói.
-
Đúng rồi, - ông nói, - đúng rồi.
Buổi
sáng hôm sau cái bàn được di chuyển trở lại góc vẽ và được phủ một tấm khăn trải
bàn màu đỏ, vàng và xanh. Cái ghế được đặt dựa vào bức tường phía sau và một tấm
bản đồ treo bên trên nó.Ông đã lại bắt đầu.
***
1665
Cha
muốn tôi miêu tả bức tranh một lần nữa.
-
Nhưng từ lần cuối cùng chẳng có gì thay đổi cả, - tôi nói.
-
Cha muốn nghe lại một lần nữa, - ông cố nài, cúi người trong cái ghế để lại gần
ngọn lửa hơn.
Nghe
ông nói giống như Frans khi cậu còn là một đứa trẻ và mọi người bảo cậu là
trong nồi thịt và khoai tây hầm chẳng còn gì nữa. Vào tháng Ba thì cha tôi thường
hay mất kiên nhẫn, ông chờ đợi mùa đông kết thúc, cái lạnh giảm dần, mặt trời
xuất hiện trở lại. Tháng Ba là một tháng không dự đoán trước được, chẳng biết
cái gì sẽ đến. Những ngày ấm áp mang đến hi vọng cho tới khi bầu trời xám xịt
và băng giá lại che phủ thành phố.
Tháng
Ba là tháng tôi được sinh ra.
Bị
mù lòa dường như càng khiến cha tôi ghét mùa đông hơn. Những giác quan khác của
ông tinh hơn, ông cảm nhận cái lạnh sâu sắc hơn, ngửi thấy mùi không khí tù đọng
trong ngôi nhà rõ hơn, cảm nhận rõ hơn mẹ tôi mùi vị nhạt nhẽo của món rau hầm.
Ông khổ sở khi mùa đông kéo dài.Tôi cảm thấy thương ông. Khi nào có thể, tôi
lén lấy cho ông các món từ bếp của Tanneke - những quả anh đào rim, mơ khô,
khúc xúc xích lạnh, một lần là một nắm những cánh hoa hồng khô tôi tìm thấy trong
tủ của Catharina.
-
Con gái người thợ nướng bánh đứng trong một góc sáng sủa bên cạnh cửa sổ, - tôi
kiên nhẫn bắt đầu. - Cô ta đối mặt với chúng ta nhưng lại nhìn ra bên ngoài cửa
sổ, nhìn xuống bên phải. Cô ta mặc một cái áo chẽn bằng lụa và nhung, màu vàng
pha đen, váy màu xanh đậm, và một chiếc mũ trắng rủ hai vạt xuống dưới cằm cô
ta.
-
Như con đội chiếc mũ của con hả? - cha tôi hỏi. Trước kia ông chưa từng hỏi
chuyện này, mặc dầu lần nào tôi cũng miêu tả chiếc mũ đúng như vậy.
-
Vâng, giống như của con. Khi cha nhìn chiếc mũ đủ lâu, cha sẽ thấy ông ấy vẽ nó
không hoàn toàn màu trắng, mà hơi có màu xanh, tím rồi lại vàng, - tôi vội vã
nói thêm.
-
Nhưng đó là chiếc mũ trắng, con nói vậy.
-
Vâng, kỳ lạ chính ở chỗ đó. Nó được vẽ bằng rất nhiều màu, nhưng khi cha nhìn,
cha nghĩ nó là màu trắng.
- Vẽ
gạch đơn giản hơn nhiều, - cha tôi lẩm bẩm. - Dùng màu xanh, thế là xong. Màu
xanh sẫm cho những đường bên ngoài, màu xanh nhạt cho chỗ bóng. Xanh là xanh.
Và
gạch là gạch, tôi nghĩ, không giống như những bức tranh của ông ấy. Tôi muốn
cha tôi hiểu rằng màu trắng không chỉ đơn giản là màu trắng. Đó là một bài học
mà ông chủ của tôi đã dạy tôi.
-
Thế cô ấy đang làm gì? - sau giây lát ông hỏi.
-
Cô ấy để một tay lên chiếc bình thiếc trên bàn và một tay kia đặt lên cánh cửa
sổ cô ấy vừa hé mở. Cô ấy đang chuẩn bị cầm chiếc bình lên và hắt nước trong đó
ra ngoài cửa sổ, nhưng cô ấy dừng việc đang làm lại giữa chừng và đang mơ màng
hay nhìn ra cái gì đó ngoài phố.
- Cụ
thể cô ấy đang làm gì?
-
Con không biết. Đôi lúc cảm giác như việc này, lúc sau lại tưởng việc khác.
Cha
tôi ngả người vào trong ghế, cau mày.
- Đầu
tiên thì con bảo chiếc mũ trắng nhưng không phải được vẽ bằng màu trắng. Sau đó
con lại bảo cô gái đang làm cái này hoặc cái khác. Con làm cha túng túng.
Ông
bóp trán như thể đau đầu.
-
Cha, con xin lỗi, con đang cố gắng miêu tả một cách chính xác.
-
Nhưng câu chuyện của bức tranh là gì?
-
Những bức tranh của ông ấy không kể các câu chuyện.
Ông
không trả lời. Ông cảm thấy khổ sở suốt cả mùa đông. Nếu có em Agnes thì em sẽ
có thể làm ông vui lên được. Em luôn biết cách làm ông cười.
- Mẹ
ơi, con nhóm lò sưởi chân lên nhé? - tôi hỏi và quay đi khỏi cha để giấu sự bực
bội. Bây giờ, khi mù lòa, ông dễ dàng cảm nhận được tâm trạng người khác khi
ông muốn. Tôi không muốn ông phê phán bức tranh khi ông không nhìn thấy nó, hay
so sánh nó với những viên gạch mà ông đã từng vẽ. Tôi muốn nói với ông rằng chỉ
cần ông nhìn thấy bức tranh thôi thì ông sẽ hiểu rằng chẳng có gì rắc rối ở đây
cả. Có thể nó không kể ra câu chuyện gì nhưng nó vẫn là bức tranh mà ông không
thể rời mắt được. Trong suốt lúc tôi và cha nói chuyện, mẹ bận rộn bên cạnh
chúng tôi, quấy nồi hầm, chăm sóc ngọn lửa, bày đĩa và bình ra bàn, mài lại con
dao để cắt bánh mì. Không chờ mẹ trả lời, tôi thu gom những chiếc lò sưởi chân
và đem chúng ra phòng sau, nơi để than. Trong lúc cho than vào lò, tôi tự trách
bản thân về chuyện đã bực bội với cha.Tôi đem những chiếc lò sưởi chân vào và
nhóm chúng lên. Sau khi đặt chúng bên dưới chỗ ngồi của chúng tôi chỗ cái bàn,
tôi dẫn cha đến bên ghế của ông trong lúc mẹ múc món hầm ra và rót bia. Cha tôi
ăn một miếng và nhăn mặt.
-
Con có mang thứ gì từ Khu người Gia tô về để món cháo này ngọt hơn không đấy? -
ông càu nhàu.
-
Con không thể. Tanneke bực bội với con và con tránh xa bếp của chị ta, - tôi nuối
tiếc ngay giây phút những lời đó thốt ra khỏi miệng.
- Tại
sao? Con đã làm gì vậy? - Cha tôi càng cố tìm lỗi của tôi, đôi lúc thậm chí còn
đứng về phía Tanneke.
Tôi
nghĩ thật nhanh.
-
Con làm đổ bia ngon nhất của họ. Cả một bình.
Mẹ
nhìn tôi trách cứ. Bà cảm nhận được khi tôi nói dối. Nếu như cha đang không bực
bội khổ sở đến thế thì ông cũng sẽ nhận ra ngay từ giọng nói của tôi.Dù vậy, việc
cha bực bội khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Khi tôi rời nhà để trở lại đó, mẹ
khăng khăng muốn đi cùng tôi một đoạn đường, mặc dầu trời mưa,kiểu mưa lạnh, nặng
hạt. Khi chúng tôi đi đến kênh Rietveld và rẽ phải sang Quảng trường Chợ, bà
nói:
-
Chẳng mấy chốc con mười bảy tuổi rồi.
-
Vâng, tuần sau, - tôi đồng ý.
-
Chẳng mấy chốc nữa thì con sẽ là đàn bà rồi.
-
Vâng. Tôi nhìn những giọt mưa nổi bong bóng xuống con kênh. Tôi không muốn nghĩ
về tương lai.
- Mẹ
nghe nói con trai ông hàng thịt để ý đến con.
-
Ai nói với mẹ vậy?
Để
trả lời bà chỉ đơn giản vuốt những giọt mưa khỏi mũ và giũ áo choàng.
Tôi
nhún vai:
-
Con tin chắc anh ta không chú ý đến con hơn chú ý đến những cô gái khác.
Tôi
nghĩ bà sẽ cảnh báo tôi, nhắc tôi phải là cô gái ngoan, bảo vệ danh giá gia
đình chúng tôi. Thay vào đó bà nói:
- Đừng
có thô lỗ với cậu ấy. Hãy cười với cậu ấy và tỏ ra dễ chịu.
Những
lời của mẹ khiến tôi ngạc nhiên, nhưng khi tôi nhìn vào đôi mắt bà và nhìn thấy
ở đó sự thèm muốn món thịt mà con trai người bán thịt có thể mang lại, tôi hiểu
tại sao mẹ lại gạt niềm kiêu hãnh sang một bên.Ít nhất thì mẹ cũng không hỏi
tôi về lời nói dối lúc trước. Tôi không thể nói vì sao Tanneke lại giận tôi. Lời
nói dối đó giấu một lời nói dối còn nghiêm trọng hơn nữa. Tôi sẽ phải giải
thích quá nhiều.Tanneke đã phát hiện ra tôi làm gì vào những buổi chiều khi lẽ
ra tô phải khâu vá.Tôi giúp ông.
Chuyện
đó bắt đầu khoảng hai tháng trước, một buổi chiều tháng Giêng, không lâu sau
khi Franciscus được sinh ra. Trời rất lạnh. Cả Franciscus và Johannes đều ốm,
ho và khó thở. Catharina và vú em chăm hai đứa bé cạnh bếp lò trong phòng giặt
trong lúc những người khác trong gia đình ngồi cạnh nhau bên ngọn lửa trong bếp.
Chỉ có ông là không ở đó. Ông ở trên tầng. Cái lạnh dường như không ảnh hưởng
gì đến ông. Catharina đến đứng ở khung cửa giữa hai phòng.
-
Phải có ai đó đi đến hiệu bào chế, - cô ta tuyên bố, mặt đỏ bừng. - Tôi cần một
đôi thứ cho bọn trẻ, - cô ta nhìn thẳng vào tôi.