07. Chuyện xảy ra trên đường sắt Thống Nhất phần 1
Chuyện xảy ra trên đường sắt Thống Nhất
Tháng 3-1977
Vào những ngày đầu tiên sau khi khánh thành
đường sắt Thống Nhất, tôi có dịp đi từ Hà Nội về thành phố Hồ Chí Minh. Đây là
chuyến tàu chạy bình thường mỗi tuần, song khi bước chân lên toa xe, tôi thật
sự xúc động. Tôi thò đầu ra cửa sổ, ngắm ga Hà Nội lần chót.
Nhà ga quét vôi vàng rực, át hẳn cái lạnh màu
xám của buổi chiều cuối đông. Trên nóc ga, những cây sắt tròn cỡ ngón tay ngón
chân vươn lên tua tủa, chờ đợi những mẻ bê tông mới để làm nên những tầng lầu
mới. Sân ga bề bộn giờ cũng đã bớt ồn ào. Những người đi tiễn đứng dọc theo con
tàu. Cô gái cười nói ríu rít. Ông đứng tuổi lặng lẽ giơ tay vẫy. Bà cụ kéo
chiếc khăn len choàng lau cặp mắt. Anh cán bộ Đường sắt siết tay tôi và dặn đi
dặn lại:
- Đến ga thì anh xuống. Đi bộ khoảng mười cây
số, đến khi gặp tấm bảng chỉ độ cong thì tới nơi.
Tôi lắc tay, cảm ơn anh và hứa nhất định sẽ
tìm ra chỗ ấy. Ngoài kia, cửa ga đã khép lại.
Bổng cánh cửa bật tung ra. Một cô gái chạy
nhào vào sân, ào ào như một cơn gió mùa đông bắc không được báo trước. Cô ấy
nổi bật với chiếc măng-tô-san bằng dạ xanh nước biển khoác trên người. Quần âu
len gọn gàng bó lấy cặp chân thon. Đôi giày cao gót nện hối hả trên sân ga yên
lặng. Còn chiếc khăn voan che lạnh thì được tháo ra buộc lấy đuôi tóc dài nhịp
nhàng, ngúng nguẩy theo mỗi bước chân của cô. Cô mang theo hai chiếc va ly thật
đẹp, to tướng, mà không phải xách. Cô để chúng trên một chiếc xe đẩy. Chiếc xe
ba bánh mạ kền sáng choang, mới tinh, loại xe dùng cho những người bị liệt hai
chân. Tôi nhoài hẳn người ra cửa sổ để xem có ai bị liệt chân phải khiêng đi
sau cô không. Tuyệt nhiên không. Chỉ có chị nhân viên gác cửa nhà ga trong bộ
đồng phục chỉnh tề màu xám vừa rúc còi inh ỏi vừa đuổi theo cô.
Cả sân ga vụt ồn lên. Cả đoàn tàu đều nhốn
nháo. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn vào cô gái. Cô ngừng phắt lại, ấn vào tay chị
nhân viên nhà ga cái vé. Rồi chẳng chờ chị này soát xong đưa trả, cô vội vàng
đẩy xe chạy ào đến đoàn tàu. Xa trưởng hành khách dang hết hai tay ra cản cô,
mồm ngậm còi huýt lia lịa. Hai anh công an đường sắt mặc áo vàng rầm rập chạy
đến. Cô gái đứng sững, ngơ ngác một giây. Bỗng cô quay người lại, chìa tay xin
chị gác cửa cái vé của mình. Cô thở hổn hển, đưa vé ra phân bua với mọi người:
- Tôi đi có vé đàng hoàng đây. Tôi ra cũng
chưa trễ giờ. Sao không cho tôi lên tàu?
Xa trưởng hành khách cầm vé xem. Chắc là cái
vé hoàn toàn hợp lệ nên anh lúng túng nói:
- Nhưng tàu khách chúng tôi không chở loại
hàng cồng kềnh này.
- Tôi nghe nói tàu khách có chở xe đạp, xe
máy.
- Có, nhưng phải mua vé cước. Vả lại đã quá
giờ nhận hành lý.
- Tôi xin mua vé cước. Và sẵn sàng nộp phạt.
Miễn là.
- Cô vui lòng để lại. Chúng tôi sẽ chở vào sau
cho cô.
- Đồng chí thông cảm. Tôi mang xe này vào cho.
Giọng cô nghẹn lại và nước mắt cô ngân ngấn.
Anh xa trưởng hành khách nhìn đồng hồ, rồi quay lại hỏi chị nhân viên coi toa
hành lý:
- Còn chỗ không?
- Báo cáo, hết!
Còi tàu giục rền rĩ. Mà cô gái thì nhất định
không chịu bỏ lại cái xe đẩy. Anh xa trưởng càng thêm lúng túng. Bỗng anh ra
lệnh cho mấy nhân viên hành lý:
- Mang xe này lên để tạm ở toa ăn. Tôi sẽ có
cách giải quyết.
Quay sang cô gái, anh nói:
- Cô mang va ly này về toa. Nhanh lên!
Cô gái chụp lấy cánh tay anh xa trưởng, lắp
bắp:
- Cám ơn đồng chí!
Cô kéo chéo khăn voan, lau vội mấy giọt nước
mắt vừa lăn trên má. Vài nhân viên đường sắt xách giúp va ly bỏ lên tàu cho cô.
Còi tàu thét lớn. Bánh sắt nhè nhẹ lăn tới.
Đến lúc ấy, những người ra tiễn như chợt giật mình, nhớ lại, vội đưa tay vẫy
vẫy.
Con tàu rời khỏi ga Hà Nội trong buổi chiều
đông lạnh. Còi tàu vang vang, vừa rộn ràng náo nức, vừa bâng khuâng, bồn chồn.
Mưa phùn bắt đầu rơi. Những hạt mưa li ti nhảy múa vật vờ ngoài cửa toa tàu,
bay tấp vào mặt tôi lạnh buốt. Tôi đóng cửa kính. Ngoài kia, cảnh vật trở nên
mờ ảo sau màn mưa.
*
* *
Phòng của chúng tôi có bốn giường. Nhưng từ
khi tàu chạy đến giờ, một giường bị bỏ trống.
Gần đến ga Thường Tín thì cửa phòng sịch mở.
Một chị nhân viên đường sắt giơ tay về hướng tôi đang ngồi và nói:
- Mời chị vào đây. Ghế của chị ở kia.
Tôi quay nhìn ra và: đúng cô gái lúc nãy! Có
điều là bây giờ cô đã cởi chiếc măng-tô-san ra, vắt nó trên tay. Chiếc quần âu
màu xám đậm và chiếc áo len cao cổ, dài tay màu xám tro càng làm nổi bật thân
hình cân đối của cô gái.
Tôi vội đứng dậy, giúp chị nhân viên lê hai
chiếc va ly to vào xếp dưới gầm giường. Cô gái gật đầu cám ơn. Rồi cô ném chiếc
măng-tô-san lên giường, thở phào, đưa hai tay sửa lại mái tóc. Cô treo áo khoác
lên mắc, thu gọn túi xách vào một góc giường nhanh nhẩu nói:
- May quá! Không thì em phải rớt lại cho đến
tuần sau! Một tuần! Ôi chết mất!
- Chị về thăm quê?
- Không! À vâng. Em vào trong ấy nhận công
tác.
Tôi ngạc nhiên nhìn cô. Chưa phán đoán được.
Cô thì vẫn còn đầy cảm xúc về "chiến công" vừa rồi của mình. Cô nói,
giọng sôi nổi:
- Đến tận trưa nay, em vẫn còn chạy cuống lên.
Đến chiều, thất vọng, nhưng em cứ chạy bừa ra ga. May quá! Một anh không đi,
nhường vé lại cho em. Thế là tức tốc về nhà, mang đồ đạc đến. May quá! Đúng là
số em may thật!
Tôi cứ ngồi yên, nhìn và nghe cô. Đôi mắt bồ
câu với hàng mi dài cứ sáng lên theo mỗi câu nói. Khuôn mặt tròn rạng rỡ. Hàm
răng trắng bóng và đôi môi thoa một lớp son nhẹ, mỗi khi cười, lại để lộ chiếc
răng khểnh bên mép phải, vừa nghịch lại vừa có duyên.
Tôi cười:
- Chị tin vào số à?
Bị hỏi bất chợt trong khi đang hào hứng kể lể
(một câu hỏi cũng khó trả lời đấy chứ?), cô hơi sững lại một giây. Song cô liền
cười phá lên và giành chủ động ngay:
- Sao anh gọi em bằng chị? Em chỉ đáng tuổi em
của anh thôi mà.
Vậy là tôi bị đặt vào tình thế phải đối xử
rộng lượng và thân mật với cô. Tôi nói:
- Vậy cô cho tôi biết tên đi.
- Em là Tâm.
- À. Vậy Tâm quê ở trong Nam chăng?
- Không. Quê em ở ngoài này. Anh vào thành phố
Hồ Chí Minh chứ?
Tôi gật đầu:
- Vâng, tôi vào đấy. Nhưng còn xuống một nơi
dọc đường để công tác. Sau đó mới lại vào Sài Gòn. Tâm vào nhận công tác ở đâu?
- Ngành giao thông anh ạ.
- Tâm chuyên môn làm gì?
- Làm hầm.
- Vậy là có khi được phân công về đường sắt.
- Em cũng nghĩ thế.
Tôi cười:
- Con gái sao lại chọn nghề này?
Tâm hơi bẽn lẽn, nhưng vội hỏi lại:
- Nghề này thì sao hở anh?
Tôi chưa tìm được tìm câu trả lời thì Tâm đã
nói tiếp:
- Bên nước bạn mà em sang học, con gái theo
nghề này cũng không ít. Đáng lẽ em về nước từ hè năm ngoái. Tốt nghiệp rồi.
Nhưng bị giữ lại để học thêm, sau này còn về dạy ở Đại học giao thông. Đấy, em
được đào tạo để thành cô giáo. Nhưng em không thích. Đấu tranh mãi. Rốt cuộc,
em được về đây!
Cô nở nụ cười đắc thắng. Tôi liếc nhìn cô.
Chiếc răng khểnh vừa tinh nghịch lại vừa bướng bỉnh, không chịu xếp hàng ngay
ngắn. Nó là thừa, nhưng thiếu nó có lẽ cô gái sẽ mất duyên. Bây giờ, tôi mới
hỏi cô cái câu hỏi nãy giờ vẫn lẩn quẩn trong ý tôi:
- Chiếc xe lăn cô mang nó từ bên ấy bên về?
Cô gái ấp úng rồi mới nói:
- Vâng. À em còn mang sách về nữa chứ! Hai va
ly này, phần lớn là sách đấy!
- Chiếc xe ấy đã ổn chưa?
- Xong rồi anh ạ. Các anh đường sắt cho tháo
hết ra, bó gọn lại, và để vào toa hành lý rồi.
- Cô định mang chiếc xe vào Sài Gòn.
- Vâng.
- Trong ấy, có nhiều.
- Em biết, nhưng mang từ xa về vẫn.
Tôi hiểu. Đó là một tấm lòng. Tấm lòng của cô.
Từ nước ngoài xa xôi, cô luôn luôn nghĩ đến một người. Người đó là ai vậy? Chắc
là một người hết sức thân thiết đối với cô. Tôi cân nhắc một lúc rồi phải hỏi:
- Xin lỗi Tâm. Tâm mang xe ấy vào cho.
Tôi nhận thấy cô gái đỏ mặt, đôi mắt bồ câu
chớp nhanh. Đúng lúc đó, con tàu huýt một còi dài, vượt qua đường ô tô, trong
hai cổng chắn sơn từng khúc đỏ xen trắng. Sau đó, cô quay lại, chỉ chiếc giường
của tôi:
- Anh đổi chỗ cho em nhé? Em hơi mệt.
Tôi hiểu ý gật đầu. Tâm thu chiếc măng-tô-san,
nhanh nhẹn trèo lên giường phía trên.
*
* *
Khoảng 10 giờ đêm, hành khách trong phòng trùm
kín chăn, đi sâu vào giấc ngủ. Tiếng bánh sắt lăn rào rào trên đường ray, lạch
cạch qua các mối nối như một bản nhạc ru đều đều. Con tàu lắc lư, lắc lư. Người
tôi đu đưa nhè nhẹ như được ru trên võng. Trên trần, chiếc đèn tròn tỏa xuống
ánh sáng trắng đục dịu dàng.
Tôi chưa ngủ được, nằm suy nghĩ mông lung. Cô
gái đi học ở nước ngoài về với chiếc xe lăn và hai va ly sách làm cho tôi đặc
biệt có cảm tình.
Đang nằm mơ màng, tôi cảm thấy giường bên trên
có tiếng động khẽ: cô đang ngồi dậy. Rồi giường tôi nằm cũng động khẽ: cô đặt
chân xuống. Sau đó, có tiếng động ở cửa. Tôi hé mắt nhìn: Tâm đang lách mình ra
khỏi phòng. Từ chiều đến giờ, tôi với Tâm chỉ trao đổi những câu nói bình
thường về sinh hoạt trên tàu. Tôi muốn hỏi Tâm rất nhiều điều, song kinh nghiệm
cho tôi biết là những chuyện tâm tình phải có hoàn cảnh thích hợp mới nói ra
được. Tôi chờ dịp. Và bây giờ. Tôi ngồi dậy, mặc thêm áo ấm.
Tâm đang đứng ngoài hành lang phía cuối toa,
một vai tỳ vào khung cửa sổ, nhìn cheo chéo ra ngoài. Chiếc măng-tô-san khoác
trên người và hai tay cô khoanh trước ngực. Nghe tiếng động, cô quay lại. Và
khi nhận ra tôi, cô lên tiếng hỏi:
- Anh chưa ngủ ư?
Tôi gật. Cô lại nhìn qua cửa sổ. Một lúc, cô
hỏi:
- Đây là đâu hả anh?
Tôi nhìn kỹ bên ngoài. Trời tối mờ mờ song
cũng thấy những hòn núi nhấp nhô chung quanh. Hồi lâu, tôi đã nhận ra:
- Chúng ta đang đi vào vùng núi giáp giới
Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh.
- Sao anh biết?
- Trong chiến tranh, đi lại vùng này nhiều lần
bằng đường bộ và cả đường sắt, nên tôi nhớ. Ta đang ở giữa ga Khoa Trường và
Hoàng Mai, một trong những đoạn bom đạn ác liệt của đường sắt phía Nam. Lúc ấy,
tôi đi bằng xe goòng. Khổ lắm chứ không như chúng ta bây giờ. Nhưng cũng vì vậy
mới có đường sắt thống nhất hôm nay.
Cô gái nhìn tôi, cái nhìn rất lạ. Trong đêm,
mà tôi thấy rõ đôi mắt bồ câu có lông mi dài mở to. Cô nói:
- Em có người bạn thân cũng đã từng chiến đấu
ở đoạn đường sắt phía Nam này.
- Anh ấy làm gì?
- Làm thợ. Thợ cầu, anh ạ. Đó là lúc mở đầu
của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ. Em đang học năm cuối cùng của
chương trình trung học phổ thông. Anh ấy học Đại học giao thông. Nhà chúng em
gần nhau và kết bạn rất thân. Anh ấy là người miền Nam. Ba má anh là cán bộ tập
kết. Anh theo cha mẹ ra Bắc lúc mới được bốn tuổi. Hồi còn nhỏ, chúng em học
cùng trường. Giôn-xơn ném bom, chúng em lại sơ tán về cùng một chỗ. Hôm nào ba
má anh về thăm, em cũng được quà của bố mẹ em gửi cho. Ngược lại, khi bố mẹ em
về thăm thì anh cũng được quà. Các cụ ở gần nhà, lại bận việc nên chia nhau về
thăm chúng em. Thành ra chủ nhật nào em cũng có ba hoặc má, hoặc bố hay mẹ về
thăm. Ba má anh thành ba má của em. Năm 1972, ba má anh được phân công về Nam
công tác. Sau đó, chiến tranh trở lại. Anh xin ra trường, về làm cầu trên đoạn
đường sắt phía Nam này. Hôm chúng em chia tay nhau lần cuối là vào một đêm
trăng sáng tháng năm. Chúng em đi bên nhau trong công viên Thống Nhất. Em nhớ
mãi màu đỏ rực của hoa phượng hôm đó. Màu đỏ ban đêm, bên ánh đèn, ánh nước của
hoa phượng sao nó kỳ lạ thế! Mấy tháng sau, em tốt nghiệp phổ thông và được đi
học nước ngoài. Em chọn ngành giao thông cho gần gũi với anh. Ngoài tình cảm
riêng, giờ đây, đối với anh, em lại còn có lòng biết ơn nữa. Có anh đi đánh
giặc, em mới được hôm nay. Trong một bức thư, em đã viết cho anh rất nhiều về
lòng biết ơn ấy. Sau đó thì em bặt tin của anh. Em lo lắng quá. Em viết thư về
nhờ bạn bè trong nước hỏi giúp tin anh. Cuối cùng em nhận được một tin rất đau
lòng. Trong một trận giặc Mỹ ném bom vào cầu, sắt gãy rơi xuống đè dập nát cả
hai chân anh.
Cô gái nói đến đây thì không nhìn tôi nữa. Cô
quay mặt ra cửa sổ. Gió lạnh thổi hun hút, làm cho chéo khăn quàng của cô bay
lất phất. Im lặng. Bánh sắt kêu rền rĩ. Tôi bỗng lóe lên ý nghĩ về một người
bạn chung. Tim tôi đập mạnh. Tôi hồi hộp hỏi:
- Sau đó, Tâm có nhận được tin gì của anh ấy
nữa không?
- Năm 1973, em được tin anh ấy đang an dưỡng
tại Quảng Ninh. Em viết lá thư rất dài gửi về. Nhưng không có trả lời. Từ đó,
em hoàn toàn không được tin gì nữa. Về nước, em tìm hỏi ngay tin tức anh. Người
ta bảo hình như anh đang công tác trong ngành đường sắt tại miền Nam.
Tôi càng thêm hồi hộp. Gió lạnh ghê gớm. Giọng
nói của tôi đã run run:
- Anh ấy tên gì?
- Chí! Lê Hữu Chí!
Tôi hỏi dồn tới:
- Anh ấy bị thương ở cầu nào?
- Em nghe nói là ở cầu Cun.
- Cầu Cun à?
Giọng nói của tôi chắc lạ lắm nên cô gái bỗng
quay phắt lại, nhìn tôi chăm chăm. Hàng mi dài của cô cong vút. Thốt nhiên, cô
cầm cánh tay tôi lắc mạnh:
- Cầu Cun ở đâu, hở anh? Anh có biết cầu Cun
không?
- Có, tôi có biết. Cầu Cun ở Thanh Hóa, phía
trong cầu Hàm Rồng.
- Anh có biết anh Chí không?
- Có, tôi có biết!
Cô gái bỗng chộp cả cánh tay tôi rất chặt, như
muốn vồ lấy tôi. Chiếc măng-tô-san tuột khỏi vai cô, rơi xuống sàn xe mà cô
không để ý. Cô hỏi giật giọng:
- Anh quen anh Chí lúc nào?
- Lúc anh ấy bị thương ở cầu Cun. Lúc đó, tôi
có mặt ở đấy. Hay nói đúng hơn, tôi có mặt sau khi anh ấy bị thương nhưng đang
còn nằm trên cầu.
- Trời!
Cô gái đứng không vững nữa, bíu chặt vào tôi.
Tôi cúi nhặt chiếc áo, khoác lên vai cho cô và dìu cô đi:
- Ở đây gió lạnh lắm. Ta đến toa ăn kiếm một
cốc cà phê sữa cho ấm. Đi Tâm.
*
* *
May cho chúng tôi: toa ăn vẫn còn sáng đèn đón
khách. Chị nhân viên bán hàng đang ngồi đọc sách sau quầy rượu. Tôi mua hai cốc
cà phê sữa, vài bánh mô-ka, gói thuốc lá Sông Hương. Chúng tôi ngồi trước chiếc
bàn nhỏ bọc phoóc-mi-ca bóng nhoáng, sát cửa sổ. Tâm đưa cốc cà phê sữa còn
nóng hổi lên mồm. Đôi môi son của cô hơi run run. Cô hớp từng ngụm nhỏ. Tôi
ngồi hút thuốc lá, lặng lẽ quan sát gương mặt Tâm. Chờ cho màu hồng trở lại
trên má cô, và nụ cười đầu tiên nở ra trên đôi môi nhỏ, tôi mới kể lại một kỷ
niệm lúc chiến tranh.
Lúc ấy, tôi đang công tác ở cầu Hàm Rồng. Bỗng
nghe tin giặc Mỹ đánh sập cầu Cun, sắt gãy đè lên chân một anh thợ. Anh là
người dũng cảm và giỏi giang nhất đội, gần như một anh kỹ sư vậy. Cầu Cun yêu
cầu Hàm Rồng chi viện gấp để cứu anh. Hàm Rồng liền cử ngay mấy người thợ hàn
thật giỏi, mang theo cả máy và mỏ xì để cắt sắt (vì cầu Cun không có thợ và máy
này). Máy móc được đặt lên một chiếc goòng nhỏ và những anh thợ đẩy chiếc goòng
ấy chạy ào ào về phía cầu Cun, đi cứu bạn. Tôi theo đội cấp cứu ấy. Nhưng tôi
được phân công: đến cầu Cun trước để báo tin cho anh em ở đấy yên lòng. Chúng
tôi quyết cứu cho được anh thợ cầu kỹ sư ấy với hai chân còn nguyên vẹn! Vâng,
với hai chân còn nguyên vẹn! Bởi vì một anh thợ cầu? Kỹ sư mà anh hùng, dũng
cảm trong chiến tranh như vậy thì đó là vốn rất quý cho con đường sắt thống
nhất sau này. Bởi vì một anh thợ cầu? Kỹ sư như vậy khó mà làm việc cho con
đường sắt thống nhất sau này, nếu mất hai chân.
Đoạn đường giữa hai cầu xa vài ba chục cây số.
Tôi đi xe đạp một đoạn, rồi gửi xe, chạy tắt núi (vì ở đây đường bộ và đường
sắt tách rời nhau). Sau đó, tôi chạy trên tà vẹt của đường sắt cho đến tận cầu
Cun. Gần đến nơi, tôi thấy một toán người lố nhố ở cầu. Đúng lúc đó, có tiếng
máy bay địch. Tôi dừng lại, tìm chỗ nấp. Tốp máy bay từ cao lượn vòng lại, bay
thấp xuống, rất thấp. Súng mặt đất liền nổ, tiếng nổ rắn đanh, cả tiếng súng
trường và súng máy. Điều đặc biệt tôi để ý là ngay giữa cầu, lúc đó trở nên
vắng vẻ, lại có tiếng súng bắn lên. Tan trận đánh, tôi đến nơi thì thấy chiếc
cầu đổ sập. Giữa đống sắt gãy rách, cong queo, có một người. Anh còn trẻ, mặc
quần áo bảo hộ lao động của thợ cầu, nhưng đầu lại đội nón sắt. Anh ngồi trên
một thanh cầu gãy, người ngã ra, tựa vào một thanh xiên. Trong cái đống sắt rơi
ấy, có hai thanh lớn đè ngang hai ống chân anh. Trông thấy cảnh ấy, bất giác
tôi nghiến răng, nhăn mặt lại. Nhưng nhìn kỹ, thấy gương mặt anh vẫn tỉnh táo.
Từ ụ súng, những người khác cũng đổ ra. Một cô
gái cứu thương đeo túi chữ thập đỏ bò ra cầu, đến bên cạnh lấy khăn ướt lau mặt
cho anh và đưa cho anh một chai sữa trắng. Anh bác sĩ bệnh viện tỉnh cũng đã
đến, đang bàn bạc với anh đội trưởng. Anh thợ bị thương nói rất tỉnh táo:
- Đề nghị bác sĩ cứ cưa hai chân tôi, rồi mang
tôi đi. Để tôi ở đây, anh em ra thăm suốt ngày, nguy hiểm lắm.
Bác sĩ nói:
- Chân anh còn cứu được, mà chúng tôi quyết
tâm cứu cho bằng được. Anh cứ yên tâm chờ một lúc nữa.
Đội trưởng thì nói:
- Cậu đừng có bốc lên. Phải giải quyết theo
kiểu của người thợ. Cậu rõ chưa.
Anh thợ bị thương im lặng.
- Uống sữa đi.
Anh thợ ngoan ngoãn nghe lời. Nhưng, anh lại
nói:
- Vậy thì các anh cứ để một mình tôi ở đây.
Tôi chịu được. Các anh rút đi.
Tôi vội chạy đến, báo cáo tình hình cho anh
đội trưởng biết. Nghe xong, anh kêu to:
- Chí ơi! Anh em Hàm Rồng sắp mang máy cắt sắt
đến! Đôi chân cậu sẽ còn nguyên vẹn! Cách giải quyết của chúng mình là: Đúng!
Quay sang tôi, anh vỗ vai nói:
- Đây! Anh Thành đến báo tin trước đây.
Tôi rất sung sướng vì đã sớm mang đến luồng
gió mát cho tình hình đang đến lúc căng thẳng giữa vùng cầu nóng bỏng. Tôi bò
ra bên cạnh bên Chí, nắm lấy bàn tay anh. Chí siết chặt tay tôi. Bàn tay anh
đầy nốt chai ram rám, khỏe mạnh, tự tin. Cặp mắt anh sáng lạ lùng, thông minh
và điềm tĩnh. Anh nhìn tôi, nở một nụ cười. Tôi nhớ mãi cái siết tay cùng ánh
mắt long lanh của Chí buổi trưa ấy trên chiếc cầu gãy.
Sau đó thì các anh thợ Hàm Rồng đưa máy đến.
Các anh bắt đầu công việc cắt sắt rất cẩn thận, cắt sao cho lấy được đôi chân
Chí ra nguyên vẹn mà cầu không vì thanh sắt bị cắt đứt đoạn mà xiêu vẹo thêm
hoặc đổ nhào. Nhìn ngọn lửa xì chậm chạp đưa trên thanh sắt, anh bác sĩ nói:
- Mười lăm năm làm bác sĩ tôi mới thấy trường
hợp này: cứu đôi chân của một người bị thương còn nguyên vẹn bằng kỹ thuật xì
cắt!
Anh đội trưởng nói:
- Không, không. Quyết định vẫn là ở anh. Chữa
cho một đôi chân như vậy trở lại bình thường. Anh có dám hứa chắc không?
Anh bác sĩ trầm ngâm chẳng đáp.