Nhà Giả Kim - Chương 35 - 36

35

Hôm sau cậu lại ra giếng chờ cô
gái. Cậu ngạc nhiên khi gặp chàng người Anh ở đấy; lần đầu tiên anh ta ngắm
nhìn sa mạc.

“Tôi đã chờ ông suốt từ xế trưa cho
đến chiều tối”, anh kể. “Mãi khi sao mọc ông ta mới xuất hiện. Tôi trình bày về
điều mình đang tìm kiếm. Nghe xong, ông ta hỏi tôi đã từng biến chì thành vàng
chưa. Tôi thưa rằng đó chính là điều tôi muốn học ở ông. Ông bảo tôi cứ thử đi.
Tất cả những gì ông khuyên tôi là: anh hãy cứ thử đi!”

Cậu im lặng. Thế là chàng người Anh
đã đi xa vạn dặm để rốt cuộc được khuyên điều chính anh ta đã biết. Nhưng rồi
cậu chợt nhớ chính mình cũng từng như thế, khi trả cho ông vua già sáu con cừu.

“Thế thì anh nên thử đi”, cậu nói
“Tôi cũng đang định thử ngay đây”

Anh ta đi được một lúc thì Fatima đến lấy nước.

“Tôi có điều quan trọng cần nói với
cô. Tôi muốn được lấy cô làm vợ. Tôi yêu cô”

Nước trong bình của cô gái sóng
sánh

“Ngày ngày anh sẽ ra đây chờ em.
Cuộc xung đột thật là tai hại vì anh đã vượt sa mạc để đi tìm một kho tàng ở
Kim Tự Tháp. Nhưng bây giờ lại hóa may vì nhờ nó mà anh được ở gần em.”

“Một ngày kia cuộc xung đột sẽ chấm
dứt”, cô gái nói

Cậu nhìn về phía rừng chà là. Cậu
từng đi chăn cừu; ở đây không thiếu chi cừu, và với cậu thì Fatima
quan trọng hơn kho tàng.

“Các chiến binh đi tìm kiếm kho
tàng đem về đây”, cô gái nói, như thể đoán được ý cậu. “Và phụ nữ sa mạc chúng
em tự hào về các chiến binh của mình”

Cô gái lấy nước đầy bình rồi ra về.
Giờ đây ngày ngày cậu ra giếng đợi Fatima. Cậu
kể cô nghe về quãng đời chăn cừu của mình, về ông vua già và về những ngày làm
việc trong cửa hàng pha lê. Hai người ngày một thân thiết nhau hơn. Mỗi ngày,
ngoài mười lăm phút được ở bên cô, cậu cảm thấy thời gian trôi quá chậm. Sau
gần một tháng ở ốc đảo, trưởng đoàn họp cả đoàn lại

“Chúng ta không biết khi nào mới
hết đánh nhau và lại đi tiếp được. Có thể còn đánh nhau lâu, cả năm chưa biết
chừng, vì cả hai bên đều không thiếu chiến binh khỏe mạnh và dũng cảm, tinh
thần chiến đấu cao. Đây không phải là cuộc đấu tranh giữa tốt và xấu, mà chỉ
nhằm tranh giành quyền lực. Như thế, khi đã nổ ra đánh nhau thì thường kéo dài
rất lâu, vì Allah không thiên về một bên nào nhất định”

Sau đó họ giải tán. Xế trưa hôm đó
gặp lại Fatima cậu kể cô nghe về buổi họp của
đoàn.

“Hôm chúng mình gặp nhau lần thứ
hai”, Fatima nói, “anh đã thổ lộ tình yêu của
anh. Rồi anh đã cho em biết nhiều điều rất hay ho, chẳng hạn như ngôn ngữ và
tâm linh vũ trụ. Qua đó em dần dà trở thành một phần của anh.

Cậu lắng nghe và thấy giọng nói của
cô dễ thương hơn tiếng gió rì rào qua rừng chà là.

“Em đã chờ anh ở cái giếng này
nhiều năm dài. Em không còn nhớ quá khứ của mình, quên luôn cả truyền thống và
những gì đàn ông chờ đợi trong cách cư xử của phụ nữ vùng sa mạc chúng em. Từ
thuở nhỏ em đã mơ sa mạc sẽ đem đến cho em món quà quí nhất đời mình. Món quà
đó là anh”

Cậu nắm tay cô nhưng cô bận giữ
quai bình

“Anh đã kể về giấc mộng của anh, về
nhà vua già và về kho báu. Anh cũng đã kể về điềm, về dấu hiệu. Thành ra em
không còn thấy lo âu gì nữa, vì chính những điềm ấy, những dấu hiệu ấy đã đưa
anh đến đây. Còn em là một phần giấc mộng của anh, một phần của vận mệnh anh –
theo cách anh gọi. Vì thế mà em muốn anh tiếp tục đi tìm kho báu của mình. Nếu
anh phải đợi đến khi hết đánh nhau thì cũng tốt, nhưng nếu không thể đợi được
thì anh cứ đi, để làm tròn sứ mệnh tiền định của mình. Các đồi cát thay đổi
theo gió nhưng sa mạc không thay đổi bao giờ. Tình yêu của hai chúng ta cũng sẽ
như thế” “Maktub”, cô nói thêm. “Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có
một ngày anh trở về thôi”.

Sau lần gặp gỡ này cậu buồn bã ra
về, lòng nhớ đến nhiều người đã từng quen biết. Những người chăn cừu đã có gia
đình thường khó thuyết phục được các bà vợ lí do tại sao họ phải nay đây mai
đó. Tình yêu đòi hỏi người ta phải ở gần người mình yêu. Hôm sau cậu nói với Fatima về điều này.

“Sa mạc đem đàn ông của chúng em đi
nhưng không phải lúc nào cũng đưa họ trở về”, cô nói. “Chúng em đành chấp nhận.
Nhưng họ vẫn tiếp tục sống trong những áng mây không đem lại mưa, trong những
con vật náu mình giữa các tảng đá và trong làn nước tuôn đầy từ các giếng. Họ
trở thành bộ phận của toàn thể, họ nhập vào tâm linh vũ trụ. Cũng có một số trở
về được; điều này đem lại niềm vui và thêm hi vọng cho những người đàn bà đang
mong mỏi rằng một ngày kia chồng con họ cũng sẽ trở về. Trước đây em ganh tị
với những người đàn bà này, nhưng giờ đây em cũng có một người để mà chờ đợi.
Em là một cô gái sa mạc và rất tự hào về điều này. Chồng em cần phải đi lại tự
do như làn gió làm biến dạng các đồi cát. Và em cũng mong được thấy chồng em
nhập vào trong những áng mây, trong những con thú và trong làn nước giếng”.

Cậu đi tìm chàng người Anh vì cậu
muốn kể cho anh ta về Fatima. Cậu ngạc nhiên
thấy anh ta đã dựng một cái lò nhỏ cạnh lều. Cái lò luyện trông thật quái dị,
phía trên đặt một cái bình trong suốt. Trong lúc đốt lò bằng cành khô mắt anh
ta nhìn ta sa mạc; đôi mắt như long lanh hơn những ngày chỉ chúi mũi vào sách.

“Đây là bước đầu”, anh ta cắt
nghĩa. “Tôi phải tách lưu huỳnh ra. Để thành công tôi không được phép sợ sẽ
thất bại nữa. Chính nỗi sợ này đã cản trở tôi thử đạt đến “Đại công trình”. Bây
giờ tôi mới bắt đầu với một công đoạn mà lẽ ra tôi đã có thể làm từ mười năm
trước rồi. Song ít ra tôi cũng mừng vì đã không đợi thêm hai mươi năm nữa”.

Anh ta cởi lửa rồi lại nhìn ra sa
mạc. Cậu ngồi một lúc với anh ta cho đến khi sa mạc rực đỏ vì ráng chiều. Rồi
cậu tha thiết muốn đi vào sa mạc xem thử sự tĩnh lặng có trả lời những câu hỏi
của anh ta được không. Cậu đi không mục đích nhất định song mắt luôn trông
chừng rừng chà là để khỏi lạc. Cậu lắng nghe tiếng gió và cảm nhận sỏi đá dưới
chân mình. Thỉnh thoảng cậu lại thấy một vỏ sò và hiểu ra rằng sa mạc này xa
xưa từng là biển. Rồi cậu ngồi xuống một tảng đá, nhìn như bị thôi miên vào
chân trời trải dài trước mắt. Cậu không hiểu được tại sao yêu mà lại không có
quyền đòi hỏi được sỡ hữu; nhưng vì Fatima là
một cô gái sa mạc nên chỉ có sa mạc mới giúp cậu hiểu được thôi. Cậu ngồi im
lặng hồi lâu không nghĩ ngợi gì cho đến khi cảm thấy có gì động đậy phía trên
đầu. Cậu nhìn lên, thấy hai con chim bồ cắt đang bay lượn. Cậu nhìn đôi chim và
những hình mà đường bay của chúng vẽ nên. Những đường ấy có vẻ không theo một
trật tự nào, nhưng nhất định chúng phải có ý nghĩa; chỉ có điều cậu không giải
thích được nghĩa đó thôi. Thành ra cậu muốn dõi theo đường bay của chim; biết
đâu cậu có thể rút ra từ đó một thông điệp. Biết đâu sa mạc có thể giải thích
cho cậu về loại tình yêu không cần được sở hữu. Chợt cậu thấy mệt mỏi. Trái tim
cậu van cậu đừng ngủ gật mà phải hết sức chú tâm.

“Bây giờ mình thả hồn vào ngôn ngữ
vũ trụ và thấy mọi chuyện trên thế giới đều có ý nghĩa, kể cả đường bay của
chim”, cậu nghĩ. Cậu thầm cám ơn nỗi may mắn mà tình yêu của một người con gái đã
đem đến cho mình. “Khi yêu thì tất cả lại càng có thêm ý nghĩa”.

Chợt một con chim đâm bổ xuống tấn
công con kia. Trong cái động tác vụt qua ấy cậu chợt thấy một ảo ảnh: có một
đạo quân vung gươm xông vào ốc đảo. Cái ảo ảnh kia chỉ xuất hiện trong chớp mắt
rồi vụt biến, nhưng cậu hết sức lo sợ. Cậu đã được nghe về ảo giác và cũng đã
từng thấy đôi lần; đó là những ước mơ mờ ảo biến thành cảnh như thật trên mặt
cát nóng bỏng của sa mạc. Nhưng cậu đâu hề ước mơ có một đạo quân tấn công vào
ốc đảo. Cậu muốn quên đi chuyện này bằng cách tập trung nhìn vào sa mạc lấp
loáng ánh hồng và vào những tảng đá. Nhưng thâm cậu vẫn thấy gì đó bất an.

“Phải luôn chú ý tới điềm báo”, ông
vua già bảo thế. Cậu nhớ tới Fatima, nhớ tới
ảo giác mới đây và linh cảm rằng nó sắp xảy ra thật. Phải cố gắng lắm cậu mới
thoát ra khỏi tình trạng như bị mê hoặc kia, đứng lên đi về phía hàng chà là.
Một lần nữa cậu lại nhận thấy sự vật có nhiều cách tự diễn đạt. Lần này sa mạc
trông có vẻ an toàn, còn ốc đảo như trở nên một nơi bất ổn. Người phu lạc đà
ngồi dưới một gốc chà là, cũng đang ngắm nhìn mặt trời lặn. Ông ta thấy cậu
bước ra từ sau một đụn cát.

“Một đạo quân đang trên đường tới
đây. Tôi vừa có một ảo giác”, cậu nói.

“Sa mạc đáp ứng ước mơ của con
người bằng cách tạo ra ảo giác”, người phu trầm tĩnh đáp.

Nhưng cậu kể ông ta nghe về đôi
chim, rằng cậu đã dõi theo đường bay của chúng khi cậu thả hồn vào tâm linh vũ
trụ. Nghe thế người phu không nói gì nữa. Ông thấu hiểu rất rõ điều cậu vừa kể.
Ông biết mỗi sự vật trên thế gian này đều có thể kể được nhiều điều về mọi sự
vật khác. Khi ông mở một quyển sách hoặc xem chỉ tay cho người, bói bài hay
quan sát đường chim bay hoặc bất cứ làm gì khác thì mỗi việc như thế đều có thể
liên hệ đến điều ông vừa ứng nghiệm. Thật ra sự vật không nói lên điều gì cả,
mà chính do con người chú tâm vào sự vật nên đã phát hiện ra những khả năng
thâm nhập vào tâm linh vũ trụ. Trong sa mạc có nhiều người đàn ông sống bằn
cách thâm nhập vào tâm linh vũ trụ. Họ xưng là thầy bói, rất được giới phụ nữ
và cụ già nể vì. Các chiến binh rất ít khi tìm đến họ vì khi biết trước sẽ bỏ
mình trong trận đánh thì khó lòng ra trận được. Người chiến binh đam mê chiến
trận, giống như kẻ phiêu lưu say mê những chân trời mới lạ; tương lai đã do
Allah định sẵn rồi và mọi chuyện xảy ra cũng đều vì ích lợi của con người thôi.
Do đó người chiến binh chỉ sống với hiện tại vì hiện tại đầy rẫy bất ngờ buộc
họ phải quan tâm đến bao điều: lưỡi gươm của đối phương chém chỗ nào, vị trí
của ngựa ở đâu và phải đỡ nhát chém thế nào để thoát chết. Người phu không phải
là chiến binh và ông đã từng đi xem vài thầy bói. Có người đoán đúng, có người
không. Cho tới cái lần người thầy bói cao tuổi nhất và được vì nể nhất hỏi ông
tại sao lại quan tâm đến tương lai như thế.

“Để bắt tay ngay thực hiện một số
việc và phòng ngừa những việc mà tôi không muốn xảy ra”, người phu đáp.

“Thế thì đó không còn là tương lai
của ông nữa”, thầy bói nói.

“Có thể vì tôi muốn biết về tương
lai để chuẩn bị trước, hầu sẵn sàng chờ đón nó”.

“Nếu là những điều lành thì ông sẽ
được ngạc nhiên một cách thú vị”, thầy bói đáp. “Còn nếu là điều dữ thì ông sẽ
đau khổ khá lâu trước khi nó xảy ra”.

“Tôi muốn biết về tương lai vì tôi
là con người và mọi người đều sống vì tương lai”, người phu nói với thầy bói.

Nghe thế thầy bói im lặng. Thầy có
thể bói que, rải que trên nền đất rồi giải đoán. Nhưng hôm ấy thầy không bói
que.

“Tôi kiếm sống bằng cách đoán hậu
vận”, thầy nói. “Tôi biết thuật bói que và biết phải sử dụng que thế nào để
nhập được vào nơi ghi chép mọi sự trên đời này. Ở đó tôi có thể thấy được quá
khứ, phát hiện những gì đã bị lãng quên và giải đoán những dấu hiệu của hiện
tại. Khi khách tìm đến tôi hì tôi không biết được tương lai họ mà chỉ ước đoán
thôi. Vì tương lai thuộc về Thượng Đế và Người chỉ khải thị trong những hoàn
cảnh hết sức khác thường. Bằng cách nào mà tôi đoán tương lai? Chính là qua dấu
hiệu của hiện tại. Bí ẩn nằm ngay trong hiện tại; nếu anh chú ý quan sát hiện
tại thì anh có thể cải thiện được nó. Và khi anh đã làm cho hiện tại được tốt
hơn. Vậy đừng nên nghĩ đến tương lai mà hãy sống từng ngày của đời mình theo
giới luật của Thượng đế và luôn tin tưởng rằng Người cưu mang chúng ta là con
cái của Người. Mỗi một ngày tự nó đã hàm chứa vĩnh cửu rồi”.

Người phu muốn biết trong hoàn cảnh
hết sức khác thường nào mới được Thượng đế khải thị tương lai.

“Khi nào được Người ban cho ơn
phước đó. Song rất hạn hữu, vì một lí do thôi: tương lai tuy đã được định sẵn
nhưng vẫn còn có thể thay đổi được”.

Thượng đế đã khải thị cho cậu chăn
cừu một khoảnh khắc của tương lai vì Người muốn dùng cậu làm sứ giả đưa tin.

“Cậu hãy đến gặp các tộc trưởng”,
người phu nói, “để báo về các chiến binh đang tiến lại ốc đảo này”.

“Họ sẽ cười nhạo tôi mất”.

“Họ là người của sa mạc nên biết
phải xử sự với điềm báo như thế nào”

“Vậy thì họ đã biết hết cả rồi
chứ”.

“Họ không bận tâm đến chuyện ấy
đâu, vì họ cho rằng Allah sẽ gửi đến một sứ giả đưa tin nếu Người có điều gì
cần cho họ biết. Điều này thường vẫn xảy ra. Lần này người đưa tin là cậu đấy”.

Cậu nghĩ đến Fatima
và quyết định đi tìm các tộc trưởng ngay tức thì.

36

“Tôi đem điềm của sa mạc đến đây”,
cậu nói với người đứng canh cửa một cái lều trắng to tướng nằm chính giữa ốc
đảo, “nên muốn thưa chuyện với các tộc trưởng”

Người gác không trả lời mà đi vào
trong lều. Mãi sau hắn mới trở ra với một người Arập trẻ khoác áo hai màu trắng
vàng. Cậu kể cho người Arập trẻ điều mình đã thấy. Anh ta yêu cầu cậu chờ rồi
lại quay vào trong lều. Trời bắt đầu tối. Nhiều khách thương và dân ốc đảo vào
ra cái lều ấy. Các đống lửa nối nhau tắt và ốc đảo lại yên ắng như sa mạc. Chỉ
chiếc lều trắng to này là còn ánh đèn. Suốt thời gian đứng chờ cậu nghĩ đến Fatima và vẫn chưa hiểu rõ lắm những điều cô nói lúc xế
trưa. Sau hàng giờ chờ đợi, người canh bảo cậu vào lều. Cậu choáng ngợp trước
những gì mắt mình thấy. Làm sao có thể tưởng tượng nổi ngay giữa sa mạc lại có
một cái lều tráng lệ đến thế. Nền phủ thảm quí mà đôi chân cậu chưa từng được
đặt chân lên, trần treo loại đèn cắm nến bằng đồng thau trạm chổ. Phía trong
lều, các tộc trưởng ngồi thành vòng cung trên nệm lụa thêu rất công phu, tay
cũng tì trên nệm thêu như thế. Người hầu ra vào, kẻ bưng khay bạc đầy trà và
những món thơm ngon, người lo tiếp than cho các ống điếu đừng tắt. Một mùi thơm
dễ chịu lan khắp lều. Có tất cả tám tộc trưởng, song cậu nhận ra ngay người
quan trọng nhất: đó là ông già Arập khoác áo trắng vàng ngồi giữa. Đứng cạnh
ông là người Arập trẻ hồi nãy

“Ai là người lạ đã kể về điềm báo?”
Một tộc trưởng nhìn cậu hỏi

“Chính tôi đây”, cậu đáp rồi thuật
lại những gì đã thấy

“Cớ sao sa mạc lại báo cho một
người lạ như cậu biết điều này, chứ không báo cho chúng ta là những kẻ đã sống
ở đây từ bao đời rồi?” Một tộc trưởng khác hỏi

“Vì mắt tôi còn lạ lẫm với sa mạc
nên tôi còn nhận ra những điềm mà các đôi mắt quá quen không thấy được nữa”,
cậu đáp.

“Và cũng vì tôi biết tâm linh vũ
trụ”, cậu thầm nghĩ nhưng chỉ để bụng vì người Arập hẳn không tin chuyện này.

“Ốc đảo là vùng trung lập”, tộc
trưởng thứ ba nói. “Sẽ không ai dám tấn công nó cả”.

“Tôi chỉ thuật lại những gì mình
thấy. Nếu các ông không muốn tin thì thôi”

Căn lều lặng như tờ một lúc, rồi
các tộc trưởng tranh luận sôi nổi. Họ nói một thứ thổ ngữ Arập mà cậu không
hiểu; nhưng khi cậu định ra khỏi lều thì bị người canh giữ lại. Lúc này cậu bắt
đầu sợ. Có gì đó không ổn rồi. Cậu ân hận đã nghe lời người phu lạc đà. Chợt
ông già ngồi giữa hơi hé miệng cười khiến cậu thấy yên tâm. Ông không tham gia
cuộc tranh luận của những người kia và đến lúc này cũng chưa nói tiếng nào. Còn
cậu, vì lúc này đã quen với thứ ngôn ngữ vũ trụ, nhận ra rằng từ ông toát ra
một vẻ an bình. Trực giác cho cậu thấy mình đến đây là đúng. Cuộc tranh luận
chấm dứt, ai nấy chăm chú lắng nghe phản ứng của ông già. Ông nhìn cậu; lúc này
vẻ mặt ông lạnh lùng và khó gần

“Hai nghìn năm trước ở một đất nước
xa xôi có một chàng trai bị ném xuống giếng rồi bị bán làm nô lệ, vì hắn tin
vào giấc mộng”, ông già nói. “Các khách thương nước ta đã mua rồi đem hắn đến
Ai Cập. Mỗi người trong chúng ta đều biết ai tin vào giấc mộng thì cũng có thể
giải mộng được”.

“Không phải lúc nào cũng giải được
đâu”, cậu liên tưởng đến bà già Zigeuner

“Vì Pharao mơ thấy bò gầy và bò mập
mà hắn lại giải được giấc mơ ấy nên đã cứu dân Ai Cập thoát khỏi nạn đói. Tên
hắn là Josef. Hắn cũng ở trên một đất nước lạ, giống như cậu vậy và lúc ấy có
lẽ cũng trạc tuổi cậu”. Ông ngừng nói, đôi mắt vẫn lạnh lùng. “Chúng ta luôn
sống theo truyền thống. Thuở đó truyền thống đã cứu dân Ai Cập khỏi nạn đói và
khiến họ trở thành dân tộc giàu có nhất thế gian. Truyền thống dạy đàn ông
chúng ta cách vượt sa mạc và tổ chức hôn lễ cho con cái như thế nào. Truyền
thống cũng dạy rằng ốc đảo là nơi trung lập, vì phe nào cũng có ốc đảo và chúng
không được ai che chở cả”.

Trong khi ông nói thì không ai xen
một lời nào.

“Nhưng truyền thống cũng dạy chúng
ta phải tin vào thông điệp của sa mạc. Mọi điều chúng ta biết đều là do học
được từ sa mạc cả”.

Ông ra hiệu và mọi người đứng cả
dậy. Buổi họp chấm dứt. Các ống điếu Nargileh được dụi tắt và đám người canh
đứng vào vị trí.

Cậu dợm đi ra thì ông già nói:
“Sáng mai chúng ta sẽ phạm vào lời thề rằng trong ốc đảo không ai được mang vũ
khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ chờ đón quân địch. Khi mặt trời lặn thì mọi
người nộp khí giới lại cho ta. Cứ mười kẻ địch bị giết thì cậu được thưởng một
đồng tiền vàng. Tuy nhiên, vũ khí không được phép đem ra từ nơi cất giấu mà
không được sử dụng. Chúng đồng bóng chẳng khác sa mạc, nếu đem ra mà không dùng
đến thì lần sau có thể chúng sẽ không chịu để ta sử dụng nữa đâu. Do đó, nếu
ngày mai không cần tới chúng thì ít nhất cũng phải có một cái dành cho cậu đó”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3