2. Một người Hà Nội - Chương 5-6-7 (Hết)
5.
Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những người đàn
bà có đầu óc rất thực tế. Mọi sự mọi việc đều được các bà tính toán trước cả.
Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng
chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là
không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô tuyên bố thẳng thừng với
tôi: "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ".
Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một
ông quan nào hết, cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một
thời còn son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là
một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc.
Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả. Sau khi sinh đứa con gái út, người con
thứ năm, cô nói với chồng: "Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi
rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập, khỏi
sống bám vào các anh chị". Là thôi hẳn.
Cô bảo tôi: "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó
tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì
cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao". Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn
cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả
cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi: "Chúng mày là người
Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông
tuồng". Có lần tôi cãi: "Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại
bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm". Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo:
"Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra
sao là tùy".
Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu
trong Nam, là đợt đầu tiên nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18 đến 25,
diễn viên cải lương và kịch nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên trung học
rất đông, là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660 người. Người
con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng ký xin đi đánh
Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào
Nam.
Họ dừng lại ở Hà Nội vài giờ vào lúc tối, nhưng không
một ai biết. Tôi hỏi cô: "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?" Cô
trả lời: "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự
hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Ba năm cô không nhận
được tin tức gì về đứa con đã ra đi, lại đến thằng con kế làm đơn xin tòng
quân, cũng đòi vào chiến trường phía trong để gặp anh, nếu anh đã hy sinh thì nối
tiếp chí hướng của anh. Tôi hỏi lại cô: "Cô cũng đồng ý cho nó đi à?"
Cô trả lời buồn bã: "Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản
tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết
nó". Rồi cô chép miệng: "Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà
mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì".
Cũng may chú em tôi học rất giỏi, thi vào đại học với
số điểm cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và em, cô nói:
"Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì cũng chưa
biết đứa nào may hơn đứa nào". Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại
khái là như thế.
6.
Tháng 12 năm 1975, cô Hiền cho con gái xuống nhà gọi vợ
chồng tôi tới ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: "Nó đeo ba lô bước
vào đến giữa nhà tao còn hỏi, anh muốn mua gì?" Tôi cũng không thể nhận ra
nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu ria
cũng nhiều quá, chẳng còn tí dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội.
Trong mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô đều
tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành
danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng đóng từ chiều,
các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng làm cơm, các ông đến sau, mũ
dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng
đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa
thấy các bà. Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu,
lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa
xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển.
Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép
hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ
Lem của mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ.
Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này, toàn là những
người quí phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi: "Xã hội nào cũng phải
có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã
hội ta thì là tầng lớp nào?". Tôi cười phá lên: "Thưa cô, là bọn lính
chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa".
Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi
chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn chương cũng
là một mùi lính. Là người lính vừa chiến thắng, người lính đang được cả xã hội
trọng vọng. Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp
lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời của các giám đốc công
ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại
lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội.
Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa
tiệc của mấy người thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai
anh bộ đội từ một thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng là nhân vật
chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung
mà thôi. Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn
rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch
thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng, không
một ai hỏi lại, không một ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều gì thất thố?
Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: "Đồng chí
bộ đội có chuyện gì vui kể nghe nào?" Dũng nói: "Thưa các bác, chỉ có
những chuyện không được vui lắm". Một bà nói: "Cứ nói, người ở xa về
có quyền muốn nói gì thì nói". Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không
ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu
mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục.
Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp
thượng úy, tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần
nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh điện lòe nhòe trên lá cây, trên những mặt đường vắng
hun hút, trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì từ đâu đó bật lên tiếng loa rất
sâu, rất vang: "Quí khách chú ý! Quí khách chú ý! Chuyến tàu từ Thái
Nguyên...". Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài người qua mặt bạn, gần như đưa
cả nửa thân người qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa kêu nho nhỏ:
"Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ mình đấy! Tiếng của mẹ mình đấy!...".
Không một ai được phép rời khỏi toa tầu, không một người thân nào được biết trước
để chờ sẵn ở sân ga, để được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất
cả đều phải bí mật. Dũng kể tiếp:
- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước
ngày toàn thắng có mấy ngày. Cháu về Hà Nội là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến
phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau
trong suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau cháu mới dám đến. Cháu biết nói
thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống
đến bây giờ, đến hôm nay. Bà bước ra giữa một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay
được là mẹ của Tuất. Tuất vẫn nói là hắn giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp
nói: Thưa cô, cháu là Dũng... nước mắt đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt một đứa
trẻ. Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu nhưng không khóc. Và bà nói run rẩy:
"Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi".
7.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố Hồ Chí
Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã mất
rồi. Các em đã có gia đình riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp các cụ
trong họ chỉ còn vài người, cô Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngoài
bẩy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không
pha trộn. Nơi tiếp khách của cô sau tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm
suốt mấy chục năm không hề thay đổi.
Một bộ sa lông gụ "cái khánh", cái sập gụ
chân quì chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một
cái lọ men Thúy Hồng, một cái lư đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy
thứ bình lọ màu men thì thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô đang lau
đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng
chân cũng đều bịt đồng, thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ
làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải
hơn) lau đánh cái bát bày thủy tiên thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít
ngày ăn một cái tết Hà Nội.
Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy
tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thủy tiên
nhỉ? Ví thử có thủy tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái
cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái
chết cái khổ đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của
một rò hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi:
- Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình
thế nào?
Tôi vừa cười vừa nói:
- Chưa bao giờ Hà Nội vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt
người vui.
- Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.
Tôi nói:
- Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì
chưa. Cứ nhìn nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với
nhau ở ngoài đường là đủ rõ.
Nói thế cũng hơi nghiệt. Vì có mấy việc vừa xảy ra làm
tôi tức, tức và đau. Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp
vừa nghĩ ngợi. Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào *** xe tôi,
may mà gượng kịp. Tôi quay lại nói cũng nhẹ nhàng: "Cậu đi đâu mà vội thế?".
Hắn không trả lời, đạp vượt qua xe tôi, rồi quay mặt lại chửi một câu đến sững
sờ: "Tiên sư cái anh già!".
Lại một buổi sáng tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống
Đa, đã lâu không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời,
là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ.
Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người Hà Nội, cô con
gái đang cho con ** góp lời liền: "Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ
khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi con cúp xem, thưa gửi tử tế
ngay". Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế!".
Cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét
không mấy vui vẻ của tôi về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường
nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ,
bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi.
Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng
ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu,
là sự ra đi của một thời.
Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời
vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời
nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết
nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành phố cho máy cẩu tới đặt
bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên, mỗi ngày một tí. Sau
một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ
Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống. Cô nói thêm:
"Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được".
Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan
của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng
phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào
những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một
người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống
chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội
hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.
NGUYỄN KHẢI
19-1-1990
Thực
hiện bởi
nhóm
Biên tập viên Gác Sách
freezeheart_6200 – vuthungoc – Diên Vĩ
(Tìm
- Chỉnh sửa - Đăng)