Đại chiến hacker - Chương 20 phần 1

Chương 20

Cả ba người đàn ông đều không có ở
đó nên tôi bỏ đi. Đầu tôi đau buốt đến nỗi tôi nghĩ chắc hẳn mình đang bị chảy
máu mất rồi, nhưng hai bàn tay tôi lại khô khốc. Mắt cá chân bị trẹo đã đông
cứng khi còn trong xe tải nên tôi chạy như một con rối bị hỏng và chỉ dừng lại
một lần để hủy lệnh xóa ảnh trong điện thoại của Masha. Tôi tắt sóng radio của
nó - vừa để tiết kiệm pin vừa để không ai dò được mình - và đặt chế độ “ngủ”
đến hai tiếng đồng hồ, thời gian cài đặt dài nhất. Tôi cố gắng đặt chế độ không
cần sử dụng đến mật khẩu để mở nhưng chính điều này cũng cần một mật khẩu. Tôi
sẽ phải chạm vào bàn phím ít nhất hai tiếng một lần cho đến khi tôi tìm ra cách
lấy ảnh khỏi điện thoại. Đến lúc đó, tôi sẽ cần một cục sạc.

Tôi không có kế hoạch nào cả. Tôi
cần một kế hoạch. Tôi cần ngồi xuống, lên mạng - để định hướng xem phải làm gì
tiếp theo. Tôi phát ốm với việc để mọi người lên kế hoạch giùm rồi. Tôi không
muốn hành động vì những việc Masha đã làm, hay vì DHS, hay vì bố tôi. Hay vì
Ange? Có lẽ tôi sẽ hành động vì Ange. Thực ra, điều này cũng tốt thôi.

Tôi đi xuống đồi, rẽ vào các con
hẻm khi có thể, hòa mình vào đám đông ở Tenderloin. Tôi không có điểm đến nào cụ
thể. Cứ cách vài phút, tôi lại đút tay vào túi và bấm một trong những cái phím
trên điện thoại của Masha để không cho nó ngủ hẳn. Việc làm này khiến áo khoác
của tôi phồng lên khác thường.

Tôi dừng lại và dựa lưng vào tường.
Mắt cá chân tôi đau đớn. Tôi đang ở đâu đây?

O’Farrell, phố Hyde. Trước một
“Tiệm mát xa Châu Á” trá hình. Đôi chân phản bội đã đưa tôi quay lại đúng điểm
khởi đầu - quay lại đúng nơi chụp bức ảnh trong điện thoại của Masha, chỉ vài
giây trước khi Cầu Vịnh bị đánh sập, trước khi cuộc đời tôi thay đổi vĩnh viễn.

Tôi muốn được ngồi xuống vỉa hè và
khóc, nhưng việc này chẳng giải quyết được những vấn đề của tôi. Tôi phải gọi
cho Barbara Stratford, kể cho cô ấy chuyện gì đã xảy ra. Cho cô ấy xem bức ảnh
của Darryl.

Tôi đang nghĩ gì thế này? Tôi phải
cho cô ấy xem đoạn băng mà Masha đã gửi cho tôi - đoạn băng mà trong đó Chánh
văn phòng của Tổng thống đang cười hả hê trước những vụ tấn công ở San
Francisco và thừa nhận rằng ông ta biết các vụ tấn công tiếp theo sẽ diễn ra
khi nào, ở đâu và rằng ông ta sẽ không ngăn chặn chúng vì chúng sẽ giúp vị tổng
thống của ông ta tái đắc cử.

Rồi tôi vạch ra một kế hoạch: liên
lạc với Barbara, đưa cho cô ấy tài liệu và để chúng được in ra. VampMob chắc
chắn đã làm cho mọi người hoảng sợ và làm cho họ nghĩ rằng chúng tôi thật sự là
một hội khủng bố. Tất nhiên, khi tôi lên kế hoạch cho vụ đó, tôi chỉ nghĩ nó sẽ
là một cách tốt để khiến họ bị phân tán, chứ ai mà nghĩ đến việc nó sẽ như thế
nào trong mắt một ông già nhà quê nào đó ở Nebraska.

Tôi sẽ gọi Barbara, và tôi sẽ làm
điều này một cách khôn ngoan, từ trạm điện thoại trả tiền trước, trùm mũ áo
khoác lên để hệ thống camera theo dõi không thể chụp được ảnh tôi. Tôi lấy
trong túi áo một đồng 25 cent và lấy gấu áo lau sạch dấu vân tay trên đồng
tiền.

Tôi đi xuống dốc, xuống mãi, đến
tận ga BART và những bốt điện thoại công cộng ở đó. Tôi đi đến trạm dừng của xe
chở hàng thì thấy bìa của tờ Bay Guardian số mới nhất được xếp thành chồng cao
bên cạnh một người đàn ông da đen vô gia cư, ông ta cười với tôi. “Cứ đọc bìa
đi, miễn phí mà... nhưng sẽ tốn 50 cent để xem bên trong đấy

Tiêu đề của bài báo được in ở cỡ
chữ to nhất mà tôi từng thấy kể từ sau sự kiện ngày Mười một tháng Chín:

BÊN TRONG GITMO-BÊN-BỜ-VỊNH

Bên dưới là một dòng chữ hơi nhỏ
hơn một tẹo:

“DHS đã giam giữ con em và bạn bè
của chúng ta trong những nhà tù bí mật ngay trước mắt chúng ta như thế nào?”

“Tác giả: Barbara Stratford, Trân
trọng gửi tới độc giả của Bay Guardian.”

Người bán báo lắc đầu. “Cậu có thể
tin được không?” ông nói. “Ngay tại San Francisco này. Chúa ơi, chính quyền chó
má.”

Về lý thuyết mà nói, tờ Guardian là
báo miễn phí nhưng có vẻ như người đàn ông này đã gom toàn bộ báo ở quanh đây.
Tôi có một đồng 25 cent trong tay. Tôi bỏ nó vào trong cái cốc của ông ta và
tìm thêm một đồng 25 cent khác. Lần này tôi không thèm lau sạch dấu vân tay
trên đồng xu nữa.

“Người ta bảo với chúng ta rằng thế
giới đã thay đổi mãi mãi khi Cầu Vịnh bị những phe phái giấu tên đánh sập. Hàng
nghìn bạn bè và hàng xóm của chúng ta đã chết trong ngày đó. Gần như không ai
trong số họ được tìm thấy; thân thể họ được cho là đang an nghỉ ở cảng thành
phố.”

“Nhưng có một câu chuyện rất lạ mà
một người thanh niên đã bị lực lượng DHS bắt giữ chỉ vài phút sau vụ nổ, kể lại
cho phóng viên, nó cho thấy khả năng chính chính quyền của chúng ta đã giam giữ
bất hợp pháp rất nhiều người được cho là đã chết trên đảo Kho Báu, nơi đã được
sơ tán và tuyên bố là không thuộc địa phận của dân thường không lâu sau vụ nổ
bom...”

Tôi ngồi xuống ghế - đúng chiếc ghế
đó, tôi chú ý đến nó với cảm giác sởn tóc gáy, đó là nơi chúng tôi đặt Darryl
xuống sau khi thoát khỏi nhà ga BART- và đọc bài báo từ đầu đến cuối. Tôi đã cố
gắng để không bật khóc ngay ở đây. Barbara đã tìm thấy một số ảnh của tôi và
Darryl đang làm những trò vớ vẩn cùng nhau và cho đăng dọc bài báo. Những bức
ảnh này được chụp khoảng một năm trước nhưng trong ảnh nhìn tôi trẻ hơn rất
nhiều, cảm giác như một đứa trẻ mười hay mười một tuổi gì đó. Dường như tôi đã
lớn lên rất nhiều trong hai tháng qua.

Bài báo được viết rất tốt. Tôi cảm
thấy đáng thương cho đứa trẻ mà cô ấy viết, rồi chợt nhớ ra cô ấy đang viết về
tôi. Lá thư của Zeb cũng có ở đấy, chữ viết khó đọc của anh ta được in khá to,
chiếm trọn một nửa trang báo. Barbara đã thu thập được nhiều thông tin từ những
đứa trẻ bị lạc và được cho là đã chết khác, một danh sách dài, và đặt ra câu
hỏi rằng còn bao nhiêu đứa trẻ đang bị kẹt lại trên đảo, chỉ cách nhà của bố mẹ
chúng vài dặm.

Tôi lục trong túi một đồng 25 cent
nữa nhưng sau đó đổi ý. Có thể nào điện thoại của Barbara cũng bị nghe trộm
không? Không có cách nào để tôi có thể gọi điện thoại cho cô ấy, không phải là
trực tiếp. Tôi cần một cách trung gian để liên lạc với cô ấy và nhắn cô đến gặp
tôi ở đâu đó phía Nam. Quá nhiều việc phải lên kế hoạch.

Cái mà tôi rất, rất cần là Xnet.

Làm sao để tôi lên mạng bây giờ?
Thiết bị dò WiFi trên điện thoại của tôi đang chớp liên tục - xung quanh tôi
đều có sóng WiFi nhưng tôi lại không có Xbox và TV và một đĩa DVD ParanoidXbox
để kích hoạt. WiFi, WiFi ở khắp nơi...

Đó là lúc tôi nhìn thấy chúng. Hai
cậu bé, tầm tuổi tôi, đang đi giữa đám người ở trên cùng của cầu thang xuống ga
BART.

Điều làm tôi chú ý là cách mà chúng
di chuyển, khá vụng về, va chạm vào hành khách và khách du lịch. Chúng cho tay
vào túi quần và mỗi khi chúng nhìn nhau, chúng lại cười rúc rích. Không còn
nghi ngờ gì nữa, chúng chính là những người gây rối, nhưng đám đông hoàn toàn
không để ý đến chúng. Khi đi xuống khu đó, bạn chắc mẩm sẽ gặp phải dân vô gia
cư hay những kẻ điên khùng, do vậy bạn không nhìn vào mắt ai, không nhìn xung
quanh nếu bạn có thể. Tôi lướt tới cạnh một đứa.

Nó có vẻ rất trẻ con nhưng không
thể nào ít tuổi hơn tôi.

“Hey,” tôi lên tiếng. “Này, các cậu
ra đây một chút được không?”

Nó giả vờ như không nghe thấy tôi
nói. Nó nhìn xuyên qua tôi, cái cách mà bạn nhìn một người vô gia cư

“Thôi nào,” tôi nói. “Tớ không có
nhiều thời gian đâu.” Tôi túm lấy vai nó và rít vào tai nó. “Cảnh sát đang tìm
tớ. Tớ từ Xnet.”

Giờ thì nó phát hoảng, như kiểu
muốn bỏ chạy, đứa bạn của nó đang tiến về phía chúng tôi. “Tớ hoàn toàn nghiêm
túc đấy,” tôi nói. “Hãy nghe tớ.”

Bạn của nó lại gần. Đứa này cao hơn
và cơ bắp hơn - như Darryl. “Này. Có chuyện gì không ổn à?” nó hỏi.

Đứa kia thì thầm gì đó vào tai nó.
Trông cả hai giống như chuẩn bị bỏ chạy.

Tôi lấy tờ Bay Guardian dưới cánh
tay ra và giơ trước mặt chúng. “Giở trang năm ra, OK?” Chúng làm theo. Chúng
nhìn vào dòng tít. Bức ảnh. Tôi.

“Ối, chiến hữu,” đứa đầu tiên thốt
lên. “Bọn tớ thật không xứng đáng.” Nó cười toe toét với tôi còn đứa cơ bắp hơn
vỗ vào lưng tôi.

“Không thể nào...” nó nói. “Cậu là
M...”

Tôi bịt miệng cậu ta lại. “Lại đây
được không?” Tôi dẫn chúng lại ghế của mình. Tôi nhìn thấy một vệt cũ xỉn màu
nâu trên vỉa hè ngay dưới cái ghế. Có phải máu của Darryl không? Nó làm tôi nổi
da gà. Chúng tôi ngồi xuống.

“Tớ là Marcus,” tôi nói, nuốt nước
bọt một cách khó khăn khi nói tên thật cho những người đã biết tôi dưới cái tên
M1k3y. Tôi đang phá vỡ vỏ bọc của mình, nhưng tờ Bay Guardian đã tạo mối liên
hệ cho tôi.

“Nate,” đứa nhỏ con hơn giới thiệu.
“Liam,” đứa to lớn hơn nói. “Anh bạn, thật hân hạnh biết bao khi được gặp cậu.
Cậu như là anh hùng mọi thời đại của bọn tớ vậy...”

“Đừng nói thế,” tôi ngắt lời. “Đừng
nói thế chứ. Hai cậu giống hệt một cái biển quảng cáo đang nhá lên dòng chữ
‘Tôi đang gây rối, làm ơn đá đít tôi vào Gitmo-bên-bờ-Vịnh.’ Các cậu không thể
lộ liễu hơn nữa đâu.

Trông Liam như sắp khóc đến nơi.

“Đừng lo, các cậu không bị bắt đâu.
Lát nữa tớ sẽ chỉ cho các cậu vài mánh khóe.” Cậu ta vui tươi trở lại. Càng lúc
tôi càng thấy rõ là hai đứa này thật sự thần tượng M1k3y, và chúng sẵn sàng làm
bất cứ việc gì tôi nói. Chúng đang nhe răng cười như mấy đứa dở người. Điều này
khiến tôi không thoải mái chút nào, dạ dày tôi muốn phát bệnh.

“Nghe này, tớ cần vào Xnet ngay bây
giờ mà không phải đi về nhà hay bất cứ đâu gần nhà. Các cậu có sống gần đây
không?”

“Có tớ,” Nate nói. “Ở đầu phố
California. Phải đi bộ một đoạn nữa... những ngọn đồi dốc đấy.” Tôi vừa từ trên
ấy xuống. Masha đang ở đâu đó trên ấy. Nhưng dù sao thì như thế này cũng vẫn
tốt hơn những gì tôi có quyền mong đợi.

“Đi thôi,” tôi nói.

Nate cho tôi mượn mũ lưỡi trai bóng
chày và đổi áo khoác với tôi. Với mắt cá chân đau nhức thì tôi không phải lo
lắng gì về việc bị nhận dạng bằng dáng đi - tôi đi khập khiễng như một đứa đóng
vai phụ trong các bộ phim cao bồi.

Nate sống trong một căn hộ có bốn
phòng ngủ rộng rãi trên đỉnh đồi Nob. Tòa nhà có người gác cổng mặc áo khoác đỏ
với đường chỉ thêu màu vàng, ông chạm tay lên mũ, gọi Nate là “cậu Nate” và
chào mừng tất cả chúng tôi. Tòa nhà tuyệt nhiên không thấy một vết bẩn và có
mùi của lớp sơn đồ đạc. Tôi cố không trố mắt nhìn những căn hộ có giá khoảng
vài triệu đô này.

Nate giải thích, “Bố tớ là chủ ngân
hàng đầu tư. Ông mua rất nhiều bảo hiểm nhân thọ. Ông mất khi tớ mười bốn tuổi
và chúng tớ được hưởng tất cả. Bố mẹ tớ ly dị nhiều năm rồi nhưng bố tớ để lại
tài sản cho mẹ.”

Đứng ở cái cửa số cao từ sàn đến
trần nhà, bạn có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng đẹp mê hồn của phía bên kia
đồi Nob, xuống tận bến cảng Ngư Dân, đến những tàn tích xấu xí của Cầu Vịnh,
hàng loạt cần cẩu và xe tải. Qua màn sương mù, tôi có thể nhìn thấy đảo Kho
Báu. Đứng trên cao nhìn xuống khiến tôi cảm thấy một sự thôi thúc điên rồ phải
nhảy xuống

Tôi vào mạng bằng Xbox của Nate và
nhìn lên màn hình plasma lớn trong phòng khách. Nó chỉ cho tôi có bao nhiêu
mạng WiFi hiển thị từ địa điểm thuận lợi ở trên cao này - khoảng 20 hay 30 gì
đó. Đây quả là một địa điểm tốt để làm thành viên của Xnet.

Có rất nhiều e-mail trong tài khoản
M1k3y của tôi. Hai mươi nghìn tin nhắn mới từ khi Ange và tôi rời nhà cô vào
buổi sáng. Rất nhiều tin nhắn là của cánh phóng viên hỏi lịch phỏng vấn tiếp
theo, nhưng phần lớn là từ thành viên Xnet, mọi người đã đọc câu chuyện trên tờ
Guardian và muốn nói với tôi rằng họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để giúp tôi,
bất cứ điều gì tôi cần.

Vậy đấy. Nước mắt bắt đầu chảy
xuống má.

Nate và Liam liếc mắt với nhau. Tôi
cố ngăn mình đừng khóc nhưng không làm được. Tôi đang nấc lên từng hồi. Nate đi
đến cái giá sách làm từ gỗ sồi đóng trên một bức tường và kéo bản lề của một
trong những kệ sách, để lộ ra một dãy chai lọ lấp loáng. Nó rót một cốc nước gì
đó màu vàng nâu và đưa cho tôi.

“Whiskey Ailen loại hiếm đấy,” nó
nói. “Đồ uống ưa thích của mẹ tớ.”

Chất lỏng có vị như lửa, như vàng.
Tôi nhấm nháp, cố gắng để không bị sặc. Thực sự tôi không thích rượu mạnh,
nhưng loại này khác. Tôi hít thở vài hơi thật sâu.

“Cảm ơn Nate,” tôi nói. Trông nó
giống kiểu vừa được tôi trao huy chương vậy. Đúng là một cậu nhóc ngoan.

“Được rồi,” tôi nói và cầm bàn phím
lên. Hai đứa con trai quan sát với thái độ thích thú say mê trong lúc tôi xem
qua thư từ của mình trên màn hình khổng lồ.

Cái mà tôi tìm kiếm đầu tiên và
trước nhất là thư của Ange. Có khả năng cô đã trốn được. Khả năng đó luôn tồn
tại.

Tôi thật ngớ ngẩn khi hy vọng sẽ có
tin tức gì từ Ange. Không có gì hết. Tôi bắt đầu lướt qua những bức thư nhanh
hết mức có thể, phân loại yêu cầu từ báo chí, thư của người hâm hộ, thư của
người thù ghét,

Và đó là lúc tôi thấy nó: một bức
thư từ Zeb.

- Thật không dễ chịu gì khi thức
dậy vào sáng nay và nhìn thấy lá thư mà tôi cứ tưởng là cậu đã hủy đi xuất hiện
trên những trang báo. Không dễ chịu một chút nào. Khiến tôi cảm thấy... bị săn
đuổi.

- Nhưng tôi dần hiểu ra tại sao cậu
lại làm như thế. Tôi không biết liệu mình có thể chấp nhận những mưu mẹo của
cậu hay không, nhưng thật dễ để nhận ra động cơ của cậu là thiện chí.

- Nếu cậu đang đọc thư này, nhiều
khả năng cậu đang phải mai danh ẩn tích. Không dễ chút nào. Tôi đang học làm
việc đó. Tôi đã học được rất nhiều.

- Tôi có thể giúp cậu. Tôi nên làm
thế vì cậu. Cậu đã và đang làm những gì có thể vì tôi (Mặc dù cậu làm mà không
có sự cho phép của tôi.)

- Hồi âm cho tôi nếu cậu đọc được
thư này, nếu cậu đang chạy trốn và ở một mình. Hoặc hồi âm cho tôi nếu cậu đang
bị giam giữ, bị bạn bè của chúng ta ở Gitmo bán đứng, tìm cách để chấm dứt cơn
đau: nếu chúng bắt được cậu, cậu sẽ làm điều mà chúng bảo cậu làm. Tôi biết.
Tôi sẽ mạo hiểm.

- Vì cậu, M1k3y.”

“Woooooah,” Liam kêu lên. “Cực
kỳỳỳỳỳỳỳỳỳỳ.” Tôi muốn đập cho nó một cái. Tôi quay lại định nói gì đó khó nghe
và chặn họng nó, nhưng nó đang nhìn tôi với đôi mắt mở to, như thể nó muốn quỳ
xuống mà lạy tôi vậy.

“Tớ có thể nói,” nó mở miệng, “tớ
có thể nói rằng đây là niềm vinh dự lớn nhất đời khi giúp được cậu không. Tớ có
thể nói thế không?”

Tôi đỏ cả mặt. Không còn cách nào
khác. Cả hai đều là những người hâm mộ tôi cuồng nhiệt, ngay cả khi tôi còn
chưa phải là sao siếc gì, ít nhất thì trong đầu tôi không nghĩ thế.

“Các cậu có thể...” tôi nuốt nước
bọt. “Tớ có thể có một chút riêng tư ở đây được không?”

Hai đứa chuồn khỏi phòng như những
chú cún hư và tôi cảm thấy mình như một kẻ ngốc. Nhưng dù sao tôi gõ thật
nhanh.

“Tớ trốn được rồi, Zeb. Và tớ vẫn
đang chạy trốn. Tớ cần tất cả sự giúp đỡ mà tớ có thể có. Tớ muốn chấm dứt việc
này ngay.” Tôi vẫn nhớ lấy điện thoại của Masha ra khỏi túi và bấm phím để nó
không ngủ hẳn.

Hai đứa để tôi sử dụng phòng tắm,
đưa quần áo cho tôi thay, một ba lô đeo vai với một nửa số dụng cụ đề phòng
động đất của chúng trong đó - thức ăn tăng lực, thuốc men, túi chườm nóng lạnh,
một cái túi ngủ cũ. Thậm chí chúng còn đút vào đó một chiếc Xbox Universal thừa
đã được cài đặt ParanoidXbox. Thật tốt quá. Tôi cần thứ gì để định hướng hành
động.

Tôi liên tục kiểm tra e-mail xem
Zeb đã hồi âm chưa. Tôi trả lời thư của người hâm hộ. Tôi trả lời thư của báo
giới. Tôi xóa thư thù ghét. Tôi còn nửa mong chờ sẽ thấy gì đó từ Masha nhưng
có vẻ như cô ta đang trên đường đến LA cùng những ngón tay đau và ở trong hoàn
cảnh không thể nào gõ phím được. Tôi lại bấm điện thoại của cô ta.

Hai đứa giục tôi ngủ một chút, và
trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đáng xấu hổ, tôi bị hoang tưởng đến mức cho
rằng có thể những người này đang định giao tôi cho cảnh sát khi tôi đã ngủ say.
Điều này thật ngớ ngẩn - chúng có thể dễ dàng giao nộp tôi kể cả khi tôi đang
thức. Tôi chỉ không tính trước được việc chúng nghĩ rất nhiều về tôi. Xét về lý
trí mà nói, tôi biết rằng có những người sẵn sàng đi theo M1k3y. Sáng nay tôi
đã gặp vài người như thế, họ la hét CẮN CẮN CẮN CẮN CẮN và tụ tập lại ở Civic
Center. Nhưng hai đứa này cá nhân hơn. Chúng là những chàng trai tốt bụng, hơi
ngố, chúng có thể là bất cứ ai trong đám bạn của tôi hồi chưa có Xnet, giống
như hai chiến hữu đã chán những trò phiêu lưu của tuổi trẻ. Chúng tự nguyện
tham gia quân đội, quân đội của tôi. Tôi có trách nhiệm với chúng. Để chúng lại
một mình thì sớm muộn gì chúng cũng bị bắt. Chúng dễ tin người quá!

“Các cậu, hãy nghe tớ một lúc. Tớ
có vài điều nghiêm túc cần nói với các cậu.”

Chúng gần như khựng lại và chăm chú
lắng nghe. Nếu không phải tình hình rất đáng sợ thì hẳn là cảnh tượng đó sẽ rất
tức cười.

“Việc là thế này. Giờ các cậu đã
giúp đỡ tớ, việc này thật sự nguy hiểm. Nếu các cậu bị bắt, tớ cũng sẽ bị bắt.
Họ sẽ moi ra tất tần tật những gì các cậu biết...” Tôi giơ tay ra để ngăn chúng
cự nự lại. “Không, đừng nói gì. Các cậu chưa trải qua điều này. Lời nói gió
bay. Nếu các cậu bị bắt, các cậu sẽ nói cho bọn họ mọi thứ, ngay lập tức, nhanh
và nhiều hết mức có thể. Dù sao cuối cùng bọn họ sẽ biết hết thôi. Đó là cách
họ làm việc.

“Nhưng các cậu sẽ không bị bắt và
đây là lý do: các cậu không được gây rối nữa. Các cậu được miễn nhiệm vụ này.
Các cậu là...” Tôi tìm trong kho từ vựng chọn lọc từ các tiểu thuyết trinh thám
kinh dị. “Các cậu là những tế bào ngủ. Rút lui. Quay lại làm những đứa trẻ bình
thường. Bằng cách này hay cách khác, tớ sẽ đập tan nó, đập tan tành, kết liễu
nó. Hoặc cuối cùng nó sẽ tìm đến tớ, giải quyết tớ. Nếu các cậu không nghe tin
tức gì từ tớ trong vòng bảy mươi hai tiếng, hãy giả định rằng họ đã bắt được
tớ. Lúc đó thì hãy làm bất cứ điều gì các cậu muốn. Nhưng trong vòng ba ngày
tới - và mãi mãi, nếu tớ làm được những việc mà tớ đang cố gắng làm - hãy rút
lui. Các cậu có thể hứa với tớ điều này không?”

Chúng hứa bằng tất cả sự trịnh
trọng. Tôi nghe lời chúng và chợp mắt một lúc nhưng không quên bắt chúng thề
rằng cứ một tiếng sẽ đánh thức tôi một lần. Tôi phải chạm vào điện thoại của
Masha và tôi muốn biết ngay khi Zeb liên lạc lại với tôi.

Điểm hẹn là trên một cái xe ô tô ở
ga BART, nó khiến tôi căng thẳng. Nơi đó đầy camera. Nhưng Zeb biết mình đang
làm gì. Anh ta hẹn tôi ở chiếc xe cuối cùng của một chuyến tàu nhất định khởi
hành từ ga phố Powell, vào lúc xe chật ních những người là người. Anh ta len
đến cạnh tôi giữa đám đông, và những hành khách tử tế trên xe đã tránh ra để
chừa cho anh ta một chỗ, một lỗ hổng luôn bao quanh những người vô gia cư.

“Rất vui được gặp lại cậu,” anh ta
nói nhỏ, mặt hướng về phía cửa lên xuống. Nhìn vào tấm kính màu tối, tôi thấy
rằng không ai đủ gần để có thể nghe lén câu chuyện - nếu không được trang bị
loại mic cực nhạy, mà nếu họ biết đủ nhiều để xuất hiện ở đây với một trong
những thiết bị như thế thì chúng tôi chết ngắc.

“Tôi cũng vậy, người anh em,” tôi
nói. “Tôi... tôi xin lỗi, anh biết đấy!”

“Im đi. Đừng xin lỗi. Cậu còn can
đảm hơn cả tôi. Cậu đã sẵn sàng mai danh ẩn tích chưa? Sẵn sàng biến mất chưa?”

“Về vấn đề này.”

“Sao?”

“Đó không phải là kế hoạch.”

“Ồ,” anh ta nói.

“Hãy nghe tôi, OK? Tôi có... tôi có
những bức ảnh và đoạn phim. Những thứ thực sự chứng minh một điều gì đó.” Tôi
thò tay vào túi và bấm vào điện thoại của Masha. Trên đường đến đây, tôi đã mua
cục sạc cho chiếc điện thoại này ở quảng trường Union, sau đó dừng lại ở một
quán cà phê và sạc đến khi đủ bốn vạch trên tổng số năm vạch pin. “Tôi phải
mang nó đến chỗ Barbara Stratford, người của tờ Guardian. Nhưng họ sẽ theo dõi
cô ấy... theo dõi để xem tôi có xuất đầu lộ diện không.”

“Cậu không nghĩ là họ cũng sẽ bám
theo tôi nữa à? Nếu kế hoạch của cậu là tôi phải tiếp cận trong vòng một dặm
quanh nhà hoặc văn phòng của cô ta...”

“Tôi muốn anh gặp Van và bảo cô ấy
tới gặp tôi. Darryl đã kể với anh về Van chưa? Cô gái mà...”

“Cậu ấy kể rồi. Có, cậu ấy có kể.
Cậu không nghĩ họ cũng theo dõi cả cô ấy nữa à? Tất cả những người đã bị bắt?”

“Tôi nghĩ là có. Nhưng tôi không cho
là họ sẽ theo dõi cô ấy sát sao. Hơn nữa, Van có lý lịch hoàn toàn sạch sẽ. Cô
ấy chưa từng hợp tác trong bất cứ...” tôi nuốt khan, “trong bất cứ dự án nào
của tôi. Do đó họ có thể sẽ lơ là cô ấy hơn. Nếu cô ấy gọi điện đến tòa soạn
Bay Guardian và đề nghị một cuộc hẹn để giải thích tại sao trong đầu tôi lại
toàn những thứ tào lao như vậy, có thể họ sẽ để mặc cô ấy.”

Anh ta nhìn đăm đăm vào cánh cửa
một lúc lâu.

“Cậu biết điều gì sẽ xảy ra nếu họ
lại bắt được chúng ta chứ.” Đâphải là một câu hỏi.

Tôi gật đầu.

“Cậu có chắc không? Một số người ở
trên đảo Kho Báu cùng với chúng ta đã bị mang đi bằng máy bay trực thăng. Họ đã
bị đưa ra ngoài biển. Có một số quốc gia mà Mỹ có thể thuê họ tra tấn tù nhân
giùm. Những quốc gia nơi cậu sẽ chết dần chết mòn ở đó.

Nơi mà cậu chỉ ước rằng họ sẽ kết
thúc đời cậu bằng cách bắt cậu đào một cái hào và rồi bắn vào đằng sau gáy cậu
khi mà cậu đang đứng trên đó.”

Tôi nuốt khan và gật đầu.

“Có đáng để liều mạng không? Chúng
ta có thể mai danh ẩn tích trong một thời gian dài ở đây. Một ngày nào đó chúng
ta sẽ giành lại được đất nước của mình. Chúng ta có thể chờ đợi.”

Tôi lắc đầu. “Anh không thể giành
lấy được bất cứ cái gì nếu anh không làm gì cả. Đây là đất nước của chúng ta.
Họ đã chiếm từ tay chúng ta. Bọn khủng bố tấn công chúng ta thì vẫn đang được
tự do - còn chúng ta thì không. Tôi không thể sống ẩn dật trong một năm, mười
năm, cả cuộc đời, chờ tự do rơi xuống đầu được. Tự do là thứ mà anh phải tự
giành lấy cho mình.”

Chiều hôm đó, Van rời khỏi trường
như mọi ngày, cô ngồi phía cuối xe buýt với bạn bè vây quanh, cười đùa như cô
vẫn vậy. Những người trên cùng chuyến xe đều đặc biệt chú ý đến cô vì cô nói
rất to, ngoài ra, cô lại còn đội một cái mũ vải mềm trông ngớ ngẩn như là một
mảnh vải thừa lấy được từ buổi diễn kịch ở trường về những kiếm sĩ thời Phục
hưng vậy. Bỗng nhiên, cả đám túm tụm lại rồi quay ra nhìn phía sau xe buýt, chỉ
trỏ và cười khúc khích. Cô gái đang đội chiếc mũ lúc này cao bằng Van, và nếu
nhìn từ đằng sau, người ta có thể nghĩ đấy là Van.

Báo cáo nội dung xấu