Sông Đông êm đềm - Chương 138-139

Chương 138

Ngay từ trong cuộc chiến tranh đế
quốc, giữa hai từng lớp sĩ quan và Cô-dắc đã nảy ra một lòng hằn thù chia rẽ
chúng như một luống cày vô hình. Nhưng đến mùa thu năm 1918, lòng hằn thù ấy đã
phát triển tới một mức chưa từng thấy. Cuối năm 1917, khi các đơn vị Cô-dắc từ
từ kéo về vùng sông Đông, rất ít thấy những trường hợp giết sĩ quan hay trao sĩ
quan cho Xích vệ, nhưng một năm sau các chuyện như thế đã trở nên gần như bình
thường. Trong các trận tấn công, theo gương các cấp chỉ huy Hồng quân, binh sĩ
Cô-dắc bắt các sĩ quan của chúng tiến trước đội hình tản khai rồi không cần ầm
ĩ gì cả, nhẹ nhàng nổ súng vào lưng chúng. Chỉ trong những đơn vị như trung
đoàn huân chương thánh Gioóc Gundorov là có đoàn kết chặt chẽ giữa trên và
dưới, nhưng trong Quân đội sông Đông rất hiếm thấy những đơn vị như thế.

Petro Melekhov tuy ngoan cố nhưng
rất ranh ma, lắm mưu nhiều kế. Từ lâu hắn đã hiểu rằng nếu cãi lộn với bọn
Cô-dắc thì chỉ đưa mình đến chỗ chết, vì thế ngay những ngày đầu, hắn đã cố tìm
cách xoá nhoà cái ranh giới ngăn cách mình, một sĩ quan, với bọn binh sĩ. Trong
những hoàn cảnh thích hợp, hắn cũng hùa theo với bọn kia, nói rằng chiến tranh
là vô nghĩa lý, chỉ có điều là hắn nói một cách không thành thật, hết sức miễn
cưỡng, nhưng bọn Cô-dắc không nhìn thấy thái độ giảo trá ấy. Hắn giả dạng đồng
tình với người Bolsevich và từ ngày thấy Fomin được đẩy lên làm trung đoàn
trưởng, hắn ra sức luồn lót bợ đỡ tên nầy không có chừng mực nào nữa. Cũng như
tất cả những tên khác, Petro không phản đối cướp bóc, chửi cấp trên, đối xử nhẹ
nhàng với tù binh, nhưng trong thâm tâm hắn luôn luôn bị lòng căm hờn cấu xé
tim gan và hai tay hắn cứ giật giật như bị chuột rút chỉ muốn đánh, muốn giết…
Trong công tác, hắn tỏ ra dễ dãi, giản dị, cứ như một thằng hình nhân bằng sáp
chứ không còn ra một tên trung uý nữa! Cuối cùng Petro đã dành được lòng tin
của bọn Cô-dắc, đã giấu chân tướng trước mắt chúng.

Hôm Philippov đưa bọn sĩ quan
trốn đi ở gần làng Xolonca, Petro đã ở lại. Hắn làm vẻ hiền lành ngoan ngoãn,
lúc nào cũng lẩn vào bóng tối, trong việc gì cũng tỏ ra ôn hoà biết điều, và
cùng trung đoàn tiến vào Vosenskaia. Nhưng hắn chỉ ở lại Vosenskaia hai ngày
rồi không chịu được nữa, đã chuồn thẳng về nhà, chẳng qua trung đoàn bộ mà cũng
chẳng gặp Fomin.

Hôm ấy, ở Vosenskaia đã tổ chức
một cuộc mít-tinh từ sáng sớm trên cái thao trường cạnh nhà thờ cổ. Trung đoàn
chờ đại diện của trung đoàn Indenskaia tới dự. Bọn Cô-dắc đứng từng đám trên
bãi với đủ mọi thứ áo ca-pốt, áo khoác ngắn làm bằng da cừu không
có lót hay may lại bằng những chiếc áo ca-pốt phá ra, áo vét-tông, áo trếch-men
bông. Khó mà tin rằng đám người nhung nhúc như kiến, ăn vận láo nháo nầy lại là
một đơn vị chiến đấu, là trung đoàn Cô-dắc Hai mươi tám. Petro chán ngán đi từ
đám nầy qua đám khác, và bọn Cô-dắc đã hiện ra trong mắt hắn như những con
người khác hẳn trước kia. Trước kia trên mặt trận, quần áo của chúng chẳng có
gì đập vào mắt mà cũng không có dịp nào được thấy trung đoàn tập hợp đông đủ
thành một khối như thế nầy. Nhưng bây giờ Petro nhai nhai một cách căm ghét và
tức tối chòm ria trắng phếch mà hắn mặc cho mọc xù lên, nhìn những gương mặt
đầy sương muối, những cái đầu đội đủ thứ mũ, mũ lông cừu kiểu Kavkaz, mũ da
thấp, mũ Kuban, mũ cát-két. Hắn đưa mắt nhìn xuống dưới thì
cũng vẫn thấy cái tình trạng muôn màu muôn vẻ phong phú ấy: ủng dạ rách nát,
ủng da, xà cạp cuốn trên những đôi giầy da lộn của Hồng quân.

- Một lũ ăn mày! Quân mu-gích
chết tiệt! Một bọn quái thai? - Petro lầu bầu với cả một niềm phẫn uất bất lực.

Những tờ niêm yết mệnh lệnh của
Fomin dán trắng xoá trên các hàng rào. Ngoài phố không thấy bóng vía một người
dân nào. Cả thị trấn đều lẩn trốn như đang chờ đợi điều gì. Từ trong các ngõ
nhìn ra có thể thấy bộ ngực mênh mông của sông Đông trắng xoá dưới lớp tuyết
phủ. Khu rừng bên kia sông hiện lên đen đen như vẽ thuỷ mạc. Những người đàn bà
từ các thôn đến thăm chồng đứng lốc nhốc như đàn cừu bên cạnh khối kiến trúc
xây bằng đá xám của toà nhà thờ cổ.

Petro mặc áo da ngắn viền lông
với cái túi to tướng trước ngực, đầu hắn đội một cái mũ lông cừu non kiểu
Kavkaz. Mới gần đây thôi cái mũ sĩ quan khốn kiếp nầy còn làm hắn rất hãnh
diện, nhưng lúc nầy, chính vì nó mà Petro luôn luôn cảm thấy có những cặp mắt
gườm gườm, lạnh như tiền đang nhìn mình. Những cặp mắt ấy cứ nhìn xuyên qua
người hắn, và càng tăng thêm cái tâm thần hốt hoảng, canh cánh sẵn có. Petro
còn nhớ đại khái rằng lúc ấy có một chiến sĩ Hồng quân lùn choằn choẵn đứng lên
cái đáy của một chiếc thùng ton-nô lật sấp ở giữa bãi. Người ấy mặc một chiếc
áo ca-pốtkhá tốt, đầu đội một cái mũ còn mới bằng lông cừu non, hai
cái tai mũ lòng thòng vì tuột dây. Người ấy đưa bàn tay đi găng len xồm lên sửa
chiếc khăn quấn cổ may bằng lông thỏ màu xám khói, nhìn quanh một lượt.

- Thưa các đồng chí Cô-dắc! - Một
giọng trầm như của người bị cảm chọc vào tai Petro.

Petro nhìn quanh, thấy bọn Cô-dắc
có vẻ ngạc nhiên trước lối xưng hô khác thường ấy. Chúng đưa mắt cho nhau, nháy
mắt với nhau với một vẻ cảm động và hy vọng. Người chiến sĩ Hồng quân nói rất
lâu về chính quyền Xô-viết, về Hồng quân và quan hệ của họ với dân Cô-dắc.
Petro đặc biệt còn nhớ rằng luôn luôn có những tiếng kêu ngắt lời người lên
nói:

- Đồng chí, thế "cung"
xã nông nghiệp là gì?

- Người ta có ghi tên bắt chúng
tôi vào không?

- Còn đảng cộng sản thì là gì?

Người lên nói chuyện áp hai tay
vào ngực, quay nhìn tứ phía, kiên nhẫn giải thích:

- Các đồng chí ạ! Vào đảng cộng
sản là một việc tự nguyện.

Những người nào muốn đấu tranh
cho sự nghiệp vĩ đại giải phóng thợ thuyền và dân cày khỏi ách áp bức của bọn
tư bản và địa chủ thì gia nhập đảng theo nguyện vọng của chính mình.

Một phú sau ở một góc khác lại có
người kêu lên:

- Chúng tôi đề nghị giải thích về
đảng viên cộng sản và các uỷ viên?

Vừa trả lời xong được vài phút
lại có người nào đó la lên ồm ồm bằng một giọng sôi nổi:

- Đồng chí nói về công xã nông
nghiệp còn chưa được rõ. Chúng tôi thành khẩn đề nghị đồng chí giảng thật rõ
vào. Chúng tôi là những thằng tăm tối không có chữ nghĩa. Đồng chí nên dùng
những lời giản dị dễ hiểu thì hơn?

Sau đó đến lượt Fomin lên tràng
giang đại hải một hồi nghe đến phát chán. Chốc chốc hắn lại cố văn hoa mỹ tự
với hai tiếng "trật (triệt) binh" chẳng ăn vào đâu cả. Một gã thanh
niên đội chiếc mũcát-két sinh viên, mặc một cái áo bành-tô rất
diện, cứ ngọ nguậy như một con chạch bên cạnh Fomin. Còn Petro thì trong khi
nghe những lời không đầu không đũa của Fomin hắn cứ nhớ lại cái ngày tháng Hai
năm 1917, hôm Daria đến thăm hắn, hôm hắn gặp Fomin lần đầu trong cái nhà ga
trên đường đi Petrograd… Trước mắt hắn lại hiện ra hai con mắt ra xa tinh mũi,
long lanh ướt, nhìn rất nghiêm khắc, của tên lính đào ngũ thuộc trung đoàn
Atamansky trong cái áo ca-pốt đính chiếc lon hạ sĩ với con số
"52" đã mờ, cùng với những bước chân nặng nề như chân gấu của hắn.
Trong tai Petro còn vẳng mấy tiếng thều thào: "Không chịu được nữa rồi,
người anh em thân mến ạ!". "Một thằng đào ngũ, ngu xuẩn chẳng khác gì
thằng Khristonhia mà bây giờ đùng một cái làm đến trung đoàn trưởng, còn mình
thì cứ mốc xì!" - Petro nghĩ thầm, hai con mắt hắn long lanh cho thấy cả
một nỗi lòng sôi sục.

Một gã Cô-dắc đeo dây đạn súng
máy bắt chéo chữ thập trước ngực lên tiếp lời Fomin:

- Thưa anh em! Tôi đã từng tham
gia chi đội của Pochenkov, và bây giờ, nếu có thể, cầu Chúa cho tôi lại được
cùng những anh em cũ đi đánh bọn Kadet! - Gã khoát rộng hai tay, kêu lên bằng
một giọng khàn khàn.

Petro hấp tấp bước về nhà hắn ở
nhờ. Hắn thắng ngựa và nghe thấy tiếng nổ súng của những tên Cô-dắc rời khỏi
thị trấn. Theo tập quán từ xưa, đi lính sắp về nhà thì cũng phải có gì báo cho
thôn xóm biết trước.

Chương 139

Những ngày ngắn ngủi, lặng lẽ đến
rợn người, có vẻ dài ra như những ngày mùa bận rộn. Các thôn đều chết lặng như
những cánh đồng cỏ hoang hẻo lánh. Dân chúng hai bên bờ sông Đông tựa như đã
chết sạch, cứ như đã xảy ra một nạn ôn dịch làm cho các khu du mục của các trấn
trở nên hoang vắng. Hình như có đám mây vươn những cái cánh đen ngòm rất dày
phủ kín vùng sông Đông, không để lọt qua một chút ánh sáng nào, rồi lầm lì lan
rộng mãi một cách khủng khiếp và bất kỳ lúc nào cũng có thể có một trận cuồng
phong dúi đầu những cây tiêu huyền xuống đất, lúc nào cũng sẵn sàng có những
tiếng sấm khô khan nổ phá ra rồi rền ầm ầm, và cánh rừng trắng trắng bên kia
sông Đông sắp bị phá tan hoang, sắp bị vò rối, những tảng đá hoang trên những
mũi đá phấn sắp lở xuống, giông bão sắp hoành hành với những tiếng gào rú rùng
rợn…

Từ sáng sớm sương mù đã phủ khắp
thôn Tatarsky. Từ trong núi vang ra những tiếng ầm ì báo trước trời sắp đại
hàn. Đến giữa trưa mặt trời cũng có lấp ló qua tấm màn sương mỏng manh, nhưng
cảnh vật không vì thế mà sáng sủa được thêm chút nào. Sương mù vẫn lang thang
như lạc đường trên những khoảng cao của dãy núi ven sông Đông, luồn vào các khe
núi, trườn xuống những mũi đá nhô ra sông, và đến đấy thì tan mất, chỉ để lại
một lớp bụi ẩm trên những phiến đá phấn đầy rêu và những sống đồi trọc đầy
tuyết.

Tối tối, từ sau khu rừng trụi lá
dựng lên tua tủa như những ngọn giáo, thần đêm lại giơ lên một vừng trăng đỏ
rực nom như một chiếc mộc khổng lồ. Vừng trăng đó toả mung lung xuống các thôn
xóm thiếp lặng một làn ánh sáng đỏ máu, như hồi quang của chiến tranh và hoả
tai. Và cái ánh sáng tàn nhẫn mãi chẳng chịu tắt ấy làm nảy ra trong lòng con
người một cảm giác thấp thỏm canh cánh vô duyên vô cớ, cả đến gia súc cũng vì
nó mà tức tối bực bội. Bò và ngựa không ngủ được cứ đi quanh đi quẩn đến sáng
trong các sân gia súc.

Những con chó hú lên từng hồi, và
cho tới nửa đêm, những con gà trống đua nhau gáy vọng rất lâu bằng đủ các
giọng. Khi trời bình minh, sương muối bó chặt như băng chung quanh những cành
cây ướt đẫm. Gió rung những cành cây, phát ra những tiếng lách cách như tiếng
bàn đạp thép, cứ như có một đoàn kỵ binh vô hình đang liến trên tả ngạn sông
Đông, trong khu rừng tối om, trong bóng tối xám xám xanh xanh, kèm theo những
tiếng va chạm của vũ khí và bàn đạp.

Hầu như tất cả những gã Cô-dắc
thôn Tatarsky trước kia chiến đấu trên mặt trận miền Bắc đều đã tự ý rời bỏ đơn
vị, từ từ kéo nhau tới sông Đông, trở về thôn. Hôm nào cũng có một chàng nào đó
về muộn. Có người đem vũ khí trang bị giấu trong những đống rơm hoặc dưới hiên
nhà kho để có thể tháo yên cương cho con ngựa chiến trong một thời gian dài và
chờ Hồng quân tới. Nhưng có người chỉ mở cái cửa hàng rào đầy tuyết, dắt ngựa
vào trong sân, lấy thêm lương khô, ngủ với vợ một đêm, rồi ngay sáng hôm sau đã
lại lên đường và khi lên đến đỉnh gò thì họ ngoái nhìn lại lần cuối cùng mặt
sông Đông trắng bệch nằm lặng như chết, nhìn quang cảnh quê cha đất tổ thân yêu
biết đâu mình sẽ không bao giờ được trông thấy nữa.

Có ai muốn đi tìm cái chết đâu?
Cũng có ai đoán trước được kết cục đường đời của một con người? Những con ngựa
rời khỏi thôn xóm còn có vẻ bịn rịn. Những chàng Cô-dắc ra đi cũng khó nén nổi
niềm yêu thương đối với những người thân thuộc trong trái tim đã rắn cứng của
mình. Và trong khi ruổi rong trên con đường đầy những đốm tuyết bị gió xua dồn,
biết bao người đã thả cho tâm tư của mình quay trở về nhà. Trên con đường ấy
bao nhiêu ý nghĩ nặng nề đã nảy ra trong đầu óc… Có thể có những giọt nước mắt
mặn chát như máu đã chảy xuống theo má yên, rơi xuống những chiếc bàn đạp giá
băng xuống con đường lỗ chỗ những vết đinh móng ngựa. Phải chăng sẽ không còn
thấy uất kim hương vàng, loài hoa của sự ly biệt, nở ra ở nơi đây nữa?

 

***

Petro vừa ở Vosenskaia về thì đêm
hôm ấy, nhà Melekhov có một cuộc họp gia đình.

- Thế nào, làm sao thế? - Petro
vừa bước ngang qua ngưỡng cửa, ông Panteley Prokofievich đã hỏi luôn - Đánh đấm
như thế đủ rồi hay sao? Về không còn đeo lon nữa à? Thôi đi vào đi, vào trong
nhà đi, bắt tay thằng em mày một cái, cho mẹ mày mừng, vợ mày nó đang mong mòn
con mắt đấy… Tốt lắm, tốt lắm. Petro ạ…

- Grigori! Nầy cậu Grigori con
trai ông Panteley, cậu làm gì mà rúc mãi trên lò như con chuột thế? Mò xuống
đi!

Grigori thõng hai bàn chân không
đi bít tất thò ra dưới ống quần màu cứt ngựa, dây ống quần buộc rất chặt. Chàng
mỉm cười gãi gãi bộ ngực đầy lông đen lồm xồm, nhìn Petro khom lưng tháo đoạn
dây da đeo vai và đưa những ngón tay rét cóng lên lần cái nút buộc chiếc mũ ba
tai. Daria chẳng nói chẳng rằng, chỉ tươi cười nhìn vào mắt chồng, giúp chồng
cởi những cái dải của chiếc áo lông ngắn.

Nhìn thấy bên phải Petro có đeo
một trái lựu đạn xám bóng trên giây lưng bên cạnh cái bao da súng lục, chị
chàng sợ hãi tránh ra chỗ khác Dunhiaska vừa chạy qua vừa ghé má cho chạm vào
bộ ria đầy sương muối của anh, rồi không đứng lại, cô chạy ngay ra sân thu xếp
cho con ngựa. Bà Ilinhitna đưa tạp dề lên chùi môi, sẵn sàng để hôn "thằng
cả yêu quí" của bà. Natalia lăng xăng bên cạnh bếp lò. Hai đứa bé bám lấy
váy mẹ, đứng sát vào nhau. Cả nhà đều chờ xem Petro nói gì, nhưng khi vào đến
ngưỡng cửa, hắn chỉ chào được một câu: "Chào cả nhà" bằng một giọng
khàn khàn, rồi cứ lầm lì cởi áo ngoài, cầm cái chổi bện bằng rơm kê phủi tuyết
trên ủng rất lâu. Mãi hắn mới dướn được cái lưng cong gập xuống, rồi bỗng nhiên
môi hắn run lên một cách rất thảm hại, hắn đứng dựa vào thành giường, mặt mày
ngơ ngơ ngác ngác, và tất cả mọi người bất ngờ nhìn thấy những giọt nước mắt
trên hai gò má rél cóng và đen xạm của hắn.

- Thế nào thầy quyền, làm sao
thế? - Ông già cố hỏi bằng một giọng bông lơn để giấu vẻ hốt hoảng và ghìm cơn
run trong cuống họng ông.

- Chúng ta nguy mất rồi, cha ơi!

Petro dành môi ra rất dài, rung
rung hai hàng lông mày trắng phếch rồi che mắt, xì mũi vào chiếc khăn tay bẩn
thỉu, nặc mùi thuốc lá.

Grigori đá cho con mèo đang nũng
nịu cọ mình vào chân chàng một cái, "a hà?" một tiếng rồi nhảy trên
bếp lò xuống. Bà mẹ khóc oà lên, ôm hôn cái đầu chấy rận như sung của Petro
nhưng lại bỏ ngay ra chỗ khác.

- Con yêu quí của mẹ! Tội nghiệp
cho con trai mẹ, mẹ lấy sữa chua cho con uống nhé! Nhưng con vào đây, ngồi
xuống đi con, súp bắp cải nguội tanh mất bây giờ. Có lẽ con đói lắm phải không?

Trong khi ăn, Petro đặt thằng
cháu lên đầu gối, nựng nịu nó, và nom mặt đã có phần tươi tỉnh. Hắn cố nén xúc
động, kể chuyện trung đoàn Hai mươi tám bỏ mặt trận, chuyện bọn sĩ quan chạy
trốn, chuyện Fomin và cuộc mít-tinh vừa rồi ở Vosenskaia.

- Thế anh nghĩ thế nào? - Grigori
hỏi, bàn tay đen sì của chàng vẫn đặt trên đầu đứa con gái.

- Có gì mà nghĩ với ngợi. Ngày
mai tao sẽ nghỉ một ngày, đến đêm là đi ngay. Mẹ làm sẵn cho con ít lương khô
nhé, - hắn lại quay lại nói với mẹ.

- Thế là rút lui à?

Ông Panteley Prokofievich đã thọc
mấy ngón tay vào trong túi thuốc, nhưng không rút ra, cứ mặc cho thuốc vụn lại
rơi xuống, chờ Petro trả lời.

Petro đứng dậy, làm dấu phép
trước những nét vẽ đã đen mờ của những bức hình thánh, mắt nhìn trang nghiêm và
đau khổ.

- Lạy Chúa tôi, tôi được ăn no
rồi! Cha bảo rút lui à? Không rút lui thì còn sao nữa? Tôi ở lại thế nào được?
Ở lại cho bọn Đỏ chúng nó béng cái đầu đi à? Có lẽ cả nhà còn muốn ở lại, chứ
tôi thì… Không, tôi sẽ phải đi! Sĩ quan thì chúng nó chẳng tha đâu.

- Nhưng còn nhà cửa thì như thế
nào? Chẳng nhẽ vứt bỏ hết hay sao?

Petro thấy ông lão hỏi thế chỉ
nhún vai. Nhưng Daria đã lập tức tru tréo lên ngay:

- Các ông kéo nhau đi cả, còn
chúng tôi thì phải ở lại hay sao? Được lắm, không cần nói năng gì nữa! Chúng
tôi sẽ trông nom gìn giữ gia tài điền sản cho các ông? Rồi có thể vì cái gia
tài điền sản nầy mà mất mạng đấy! Châm cái lửa, đốt sạch quang là xong! Tôi sẽ
không ở lại đâu?

Cả đến Natalia cũng xen vào câu
chuyện. Nàng kêu lên, át cả cái giọng lải nhải lanh lảnh của Daria:

- Nếu bà con cả thôn bỏ đi hết,
chúng tôi cũng không ở lại đâu! Đi bộ cũng đi!

- Hai cái con ngu xuẩn! Hai con
chó cái! - Ông Panteley Prokofievich trợn tròn hai con mắt, gào lên như hoá rồ
và bất giác quờ tay tìm cái gậy! - Đồ thối thây, mẹ chúng mày chứ! Câm ngay cái
mồm, mấy con đáng chết nầy! Chuyện đàn ông đàn ang mà chúng nó lại dám chõ vào…
Được, chúng mày cứ quẳng tất cả đấy rồi xéo đi đâu thì xéo? Còn bò còn ngựa thì
sẽ làm thế nào? Ôm cả vào trong lòng hay sao? Lại còn nhà cửa nữa?

- Mấy con bé nầy, đúng là chúng
mày điên cả rồi?- Bà Ilinhitna hùa theo ý kiến của chồng, nói giọng bực tức. -
Cái cơ nghiệp nầy có phải do hai bàn tay chúng mày gây dựng nên đâu, chúng mày
quẳng hết cả đi thì dễ lắm. Nhưng hai vợ chồng già nầy đã phải ngày đêm quần
quật mới có được như thế nầy, chúng mày bảo bỏ hết cả được hay sao? Không thể
được đâu? - Rồi bà mím chặt môi thở dài. - Thôi cứ đi hết cả đi, tôi thì chẳng
đi đâu hết. Để chúng nó giết chết ngay trên ngưỡng cửa nhà mình dù sao vẫn nhẹ
nhàng hơn là gục xuống dưới chân hàng rào nhà người ta!

Ông Panteley Prokofievich vừa vặn
to bấc đèn, vừa sụt sịt thở dài. Mọi người lặng đi một phút. Dunhiaska đang đan
một ống bít tất bỗng rời mắt khỏi cái kim đan, ngẩng đầu lên khẽ nói:

- Bò ngựa cũng có thể mang đi
theo… Không nên chỉ vì bò ngựa mà ở lại.

Thế là ông già phát khùng lên
ngay. Ông dậm chân bành bạch như con ngựa bị buộc ở cọc và vấp phải con dê con
nằm bên cạnh bếp lò, thiếu chút nữa thì ngã. Ông đến đứng trước mặt Dunhiaska
quát tướng lên:

- Mang đi theo à? Thế con bò cái
già sắp đẻ đến nơi rồi, làm thế nào hử? Mày định dắt nó đi đến đâu hử? Mày nói
như thế mà nghe được hay sao? Cái quân đầu đường xó chợ! Đồ khốn nạn? Đồ đê
tiện! Chắt chiu hàn gắn mãi mới được ngần nầy để bây giờ nghe chúng nó giở cái
giọng như thế đấy? Lại còn đàn cừu nữa chứ? Những con cừu non làm thế nào bây
giờ? Ôi dào, ôi dào, cái con cho-o-ó đẻ! Câm cái họng đi có hơn không?

Grigori liếc mắt nhìn Petro và
cũng như xưa kia, hồi đã lâu lắm rồi, chàng lại nhìn thấy trong cặp mắt màu nâu
sẫm thân thuộc của hắn cái nét cười tinh nghịch, ranh ma nhưng vẫn mang một vẻ
ngoan ngoãn vâng chịu, kèm theo cái kiểu rung rung quen thuộc của hàng ria màu
lúa mạch. Hai con mắt Petro hoảng lên như có ánh chớp, hắn buồn cười quá, nhưng
vẫn cố ghìm tiếng cười, toàn thân run bắn lên. Grigori sung sướng cảm thấy rằng
mình cũng sắp phá lên cười đến nơi, mấy năm nay chàng có dễ cười như thế nầy
đâu? Rồi chàng không giấu gì cả, cười khà khà lên một tràng.

- Thôi được rồi, như thế thôi?
Cầu Chúa cứu vớt… Nói đến thế là đủ rồi! - Ông già bực tức lườm Grigori một cái
rồi quay mặt ra khung cửa sổ bị sương muối bám trắng xoá, lờm xờm như lông.

Mãi đến nửa đêm mọi người mới đi
đến quyết định chung là đàn ông sẽ rút lui, còn đàn bà con gái thì ở lại giữ
nhà cửa sản nghiệp.

Trời con lâu lắm mới hửng, bà
Ilinhitna đã nhóm lò, đến sáng thì bà nướng xong bánh mì và sấy được hai túi
lương khô. Ông già ăn sáng dưới ánh đèn, rồi trời vừa rạng đã ra chăm nom cho
gia sức và sửa soạn xe trượt tuyết để ra đi. Ông vào đứng rất lâu trong nhà
thóc, thọc tay vào cái hòm lúa mì đầy ắp, vóc lên một nắm, rồi cho những hạt
thóc rất nây chảy xuống qua những kẽ ngón tay. Ông bỏ mũ xuống như sau khi đến
viếng một người vừa qua đời, ra xong khẽ khép cái cánh cửa màu vàng…

Ông còn lần xuống chỗ hiên nhà
kho, loay hoay thay cái ghết rên xe trượt tuyết. Giữa lúc ấy gã Anikey cho con
bò cái ra sông uống nước về cũng vừa qua ngõ. Hai người chào hỏi nhau:

- Bác đã sắp sửa rút lui chưa,
bác Anikey?

- Tôi mà sửa soạn thì cũng chỉ
thắt thêm sợi dây lưng lên cái mình trần thôi. Mọi cái gì của tôi đều sẵn sàng
trên mình tôi cả rồi. Cả của người khác tôi cũng có thể đeo thêm được!

- Bác nghe ngóng có biết được tin
gì mới không?

- Tin mới thì nhiều vô thiên
lủng, ông Prokofit ạ!

- Tin gì thế? - Ông Panteley
Prokofievich cắm phập lưỡi rìu vào cái tay tựa trên xe, hỏi giọng lo lắng.

- Bọn Đỏ sắp kéo đến đây rồi.
Chúng nó đã gần tới Vosenskaia. Có một người trông thấy chúng nó ở thôn Đại
Gromoc, anh ta kể rằng tình hình hình như không tốt chút nào cả. Chúng nó giết
người… Trong số chúng nó có cả những thằng Do-Thái và những thằng Chiệc, phải
diệt cho hết chúng nó mới được! Cái bọn quỉ mắt xếch ấy, chúng mình nện chúng
nó quá ít đấy?

- Chúng nó giết người à?

- Hẳn đi chứ lị, chẳng nhẽ chúng
nó chỉ đến đánh hơi thôi hay sao? Trong số chúng nó có cả những thằng khốn kiếp
ở vùng trên nữa đấy! - Anikey chửi rầm lên rồi vừa đi qua dãy hàng rào vừa nói thêm
- Bọn đàn bà bên kia sông Đông nẩu thật nhiều rượu, tọng cho chúng nó uống để
chúng nó khỏi làm chuyện bậy bạ, nhưng chúng nó nốc vào rồi lại sang thôn khác
cướp bóc phá phách.

Ông già mắc xong cái ghế đeo trên
xe rồi đi khắp gian nhà kho một lượt. Ông xem lại từng cái cọc, từng đoạn hàng
rào mà chính tay mình đã đóng. Rồi ông lấy một cái túi mắt cáo, khập khiễng ra
sân đập lúa vơ ít cỏ cho ngựa ăn đường. Ông với tay lên giá, lấy cái móc sắt và
vẫn còn chưa cảm thấy rằng mình ra đi lần nầy có thể sẽ không có ngày về, nên
chỉ lôi xuống những chỗ cỏ xấu nhất, cắt lẫn cả cỏ dại (cỏ tốt bao giờ ông cũng
để dành cho vụ cày mùa xuân), nhưng không hiểu nghĩ đi nghĩ lại thế nào, ông
bực mình bước sang đống khác. Hình như ông còn chưa nhận thức được rằng chỉ vài
giờ nữa mình sẽ rời bỏ cả nhà cửa lẫn thôn xóm để đi tới một nơi nào đó ở miền
Nam và chưa biết chừng sẽ không trở về nữa. Ông lôi cỏ trên đống xuống và theo
thói cũ, vươn tay về phía cái cào, định cào lại nhưng bỗng nhiên ông rụt phắt
tay lại như phải bỏng rồi đưa tay lên chùi vầng trán đầm đìa mồ hôi dưới cái mũ
ba tai, vừa nói to:

- Bây giờ thì mình còn dành dụm
những của cải nầy làm gì nữa? Rồi chúng nó sẽ quẳng hết xuống chân ngựa, sẽ dẫm
phí dẫm hoài hoặc đốt sạch cho mà xem!

Ông đặt cái cào nhỏ lên đầu gối,
bẻ đánh rắc một cái rồi nghiến răng ken két, xách cái túi mắt cáo đi, lưng gù
hẳn xuống, hai chân lệt sệt như một người đã già lụ khụ. Ông không bước vào
trong nhà mà chỉ hé cửa gọi vọng vào:

- Sửa soạn ngay đi! Tao thắng
ngựa ngay đây. Khéo lại muộn mất.

Ông đã lồng những cái cổ ngựa lên
hai con ngựa, đặt một túi yến mạch lên đằng sau xe, nhưng tự nhiên cảm thấy lạ,
không hiểu sao đến giờ nầy mà hai thằng con còn chưa ra thắng ngựa, bèn quay
vào trong nhà.

Trong nhà đang diễn ra một cảnh
tượng rất lạ lùng: Petro đang hung dữ giật tung những cái khăn gói đã chuẩn bị
sẵn sàng đề mang theo và ném bừa xuống sàn nhà nào quần đi ngựa, nào áo quân
phục, nào quần áo ngày hội của phụ nữ.

- Thế nầy là như thế nào? - Ông
Panteley Prokofievich hỏi. Ông hết sức kinh ngạc, bỏ cả cái mũ ba tai xuống.

- Cha xem kìa! - Petro vừa đưa
ngón tay cái qua vai, chỉ đám đàn bà con gái ở sau lưng và nói thêm - Họ gào
khóc đến thế kia kìa. Chúng ta sẽ chẳng đi đâu nữa? Đã đi thì đi cả nhà, không
đi thì chẳng ai đi hết? Có thể là bọn Đỏ đến đây sẽ cưỡng dâm họ, chẳng nhẽ ba
bố con ta có thể yên tâm chạy trốn hay sao? Nếu chúng nó giết thì ba bố con ta
sẽ chết trước mắt các bà ấy cũng được!

- Thôi cởi áo ngoài ra cha ạ! -
Grigori mỉm cười cởi áo ca-pốt và bỏ mũ. Natalia đang khóc
thút thít sau lưng chàng vội nắm lấy tay chàng hôn lấy hôn để. Dunhiaska sướng
quá vỗ tay đen đét, mặt đỏ như gấc.

Ông già đội cái mũ ba tai lên
đầu, nhưng lại bỏ xuống ngay. Ông đi tới góc phòng đề những bình thánh, vung
tay rất rộng làm dấu phép. Ông quì xuống ba lần làm lễ rồi đứng dậy đưa mắt
nhìn cả nhà.

- Thôi được đã vậy thì bố con ta
ở lại cả? Lạy Đức mẹ trên trời, xin người che chở cứu giúp chúng con? Tao ra
tháo ngựa đây.

Anikey chạy sang. Vào đến trong
nhà Melekhov, hắn rất đỗi ngạc nhiên vì thấy mọi người đều tươi cười, vui như
tết.

- Nhà ta có chuyện gì thế?

- Các ông Cô-dắc nhà tôi không đi
nữa rồi? Daria trả lời thay tất cả mọi người.

- Hay quá! Thay đổi ý kiến rồi à?

- Chúng tôi nghĩ lại rồi! -
Grigori miễn cưỡng nhe hai hàm răng trắng xanh hình móng ngựa, nháy mắt nói -
Cái chết thì mình chẳng phải đi đâu mà tìm, tự nó sẽ biết chỗ mò đến thôi.

- Đến các ngài sĩ quan còn không
đi thì chúng tôi cũng phó mặc cho Chúa! - Anikey chạy ầm ầm ra thềm rồi lại
chạy vụt qua bên cửa sổ hai chân như mọc thêm những cái móng ngựa.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3