15. Tây Ban Nha
[TÂY BAN NHA]
Sevilla - Chưa xa đã nhớ
ĐẶT CHÂN TỚI TÂY BA NHA lần đầu
tiên vào những ngày giữa tháng Sáu năm 2009, tôi đã bị sốc bởi thời tiết khắc
nghiệt của xứ sở này. Sau gần ba tiếng bay từ Đức, cô bạn thân Nienke đón tôi ở
sân bay Sevilla. Khi xuống máy bay, câu đầu tiên tôi thốt ra là: “Trời ơi, nóng
quá!” Trước đó một tháng, Nienke nhắn tin dặn tôi: “Bên này khoảng 38 độ, nhớ
mang váy và quần áo mát mẻ nhé, thời tiết bên này không như ở Đức đâu.” Nhưng
khi lái xe đưa tôi về nhà, Nienke bảo tôi: “Hiện tại bây giờ ở Sevilla là 44
độ.” Tôi chỉ còn biết lau mồ hôi và nói: “Chẳng trách…”
Sevilla nằm ở phía Tây Nam của Tây Ban
Nha và cũng là thủ phủ của bang Andalusien. Lần đầu đến Tây Ban Nha, tôi không
chỉ bị choáng bởi thời tiết mà còn bởi Tây Ban Nha khác Đức nhiều quá. Cùng nằm
trong châu Âu và cũng chỉ cách nhau ba giờ bay nhưng quả thật có quá nhiều khác
biệt giữa hai đất nước này. “Tây Ban Nha có nền văn hóa giống với những nước
Nam Mĩ nhiều hơn”, Nienke vừa lái xe vừa tranh thủ kể cho tôi về đất nước mà
cô đã ở trong vòng một năm qua. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, dù học rất giỏi
nhưng cũng như rất nhiều những bạn trẻ khác ở Đức, Nienke không chọn ngay con
đường vào đại học mà quyết định sẽ đi làm aupair[1] một năm vì
cô nàng đã dành tình yêu cho đất nước Tây Ban Nha từ lâu. “Từ ngày đi làm
aupair, cuộc sống của tớ cũng thay đổi rất nhiều, nhưng theo chiều hướng tích
cực. Tớ học được rất nhiều điều và có những trải nghiệm rất quý báu”. Lời tâm
sự của Nienke làm tôi thấy tiếc nuối cho quyết định của mình ngày xưa, bởi ngày
đó tôi cũng đang làm giấy tờ sang Pháp một năm theo diện aupair, nhưng rồi sau
đó lại đầu quân cho công ty nội thất của Đức và bỏ dở luôn kế hoạch của mình.
[1] Aupair là cụm từ Anh ngữ
hóa từ tiếng Pháp có nghĩa là “đôi cặp” hoặc “ngang hàng”, để chỉ
một bạn trẻ (thường là nữ) sống với một gia đình nuôi ở nước ngoài
dựa trên cơ sở bình đẳng. Những người làm công việc aupair sẽ giúp
đỡ gia đình đó chăm sóc trẻ, làm việc nhà hoặc cả hai trong thời
gian sống như một người khách của gia đình và thông thường nhận được
một khoản tiền tiêu vặt.
Nienke dẫn tôi về nhà chào gia đình
bố mẹ nuôi của cô. Mẹ nuôi cô là người Đức và hiện đang giảng dạy ở trường đại
học Sevilla và bố nuôi cô là bác sỹ người Tây Ban Nha. Họ có với nhau ba đứa
con, hai cô con gái thì quá lém lỉnh, còn cậu út thì lại rất hiền. Vì không
muốn làm phiền tới gia đình bạn nên tôi thuê hostel và ở cùng phòng với một cô
gái người Pháp, nhưng hầu như ngày nào Nienke cũng ghé qua đón tôi về nhà cô
ấy. Khi thì đi bơi với bọn trẻ, khi thì được bố mẹ cô mời qua ăn trưa với những
món Tây Ban Nha do cô giúp việc người Maroko chế biến, khi thì cùng gia đình bố
mẹ nuôi cô đi dự một buổi biểu diễn văn nghệ ngoài trời. Thời gian còn lại
Nienke đưa tôi đi chơi suốt mọi nẻo đường Sevilla. Do thời tiết quá nóng nên
tôi chọn phương án dậy sớm và đi chơi đêm vì đó là hai thời điểm đẹp và mát mẻ
nhất trong ngày.
Sáng sớm cô nàng đến đón tôi ở
Hostel rồi hai đứa lân la đi xem những kỳ quan của Sevilla gần đó như quận của
người Do Thái, vườn cam, và những khu phố đông kẹt người khi trời tắt nắng. Tầm
đầu giờ chiều cho đến 4h chiều thì ở ngoài phố hầu như rất vắng người vì họ
bận nghỉ trưa hoặc ra hồ bơi (Sevilla là thành phố có nhiều bể bơi nhất
tiểu bang, trung bình ở những khu nhà giàu thì hầu như cứ ba nhà thì một nhà có
bể bơi riêng). Nienke bảo tôi: “Thời tiết như thế này vẫn còn nhiều du
khách đến thăm, nhưng vào cuối tháng Bảy đầu tháng Tám thì hầu như ở Sevilla
luôn vắng người vì thời tiết quá nóng, có thể lên tới 48 độ. Ngoại trừ những
công ty nhà nước và các siêu thị buộc phải mở cửa thì hầu hết tất cả mọi người
đều ra biển hết.” Sau đó cô bạn còn nói thêm rằng người Tây Ban Nha “lười” lắm
vì họ nghỉ trưa rất lâu. Giờ nghỉ trưa của họ thường kéo dài tới 2-3 giờ đồng
hồ và nó đã thành tập tục không thể bỏ qua ở đất nước này. Tây Ban Nha có một
nửa đất nước giáp với biển, nên vào mùa hè, người ta thường đổ về những thành
phố biển hay những hòn đảo nhỏ xinh xắn để tránh nắng.
Tôi nhớ buổi tối đầu tiên, dù mệt
nhưng tôi vẫn nhất định phải đi dạo một vòng quanh phố. Sevilla rực rỡ trong
những ánh đèn. Những tòa nhà sáng lấp lánh, bên những quán cà phê, mọi người
thong thả ngồi nói chuyện, trẻ em nô đùa ngoài đường phố. Một ngày ở Sevilla
thường bắt đầu rất muộn nên kết thúc cũng rất muộn, tôi đã không còn bỡ ngỡ và
thắc mắc tại sao hơn 10h tối rồi mà trẻ con vẫn tụ tập chơi và hò hét ngoài
đường và quảng trường. Bởi cuộc sống của người Tây Ban Nha thiên về đêm, buổi
tối là thời điểm lý tưởng nhất để trẻ em ở Sevilla có thể nô đùa sau khi kết
thúc một ngày học ở trường. Tôi để những bước chân dẫn mình đi trên những con
phố nhỏ, mơ màng nhìn về phía dòng sông, ngắm Tháp chuông Giralda và những vì
sao lấp lánh phía trên trời.
Chiều hôm sau, hai đứa chúng tôi rủ
nhau đi dạo dọc dòng sông Guadalquivir và ngắm hoàng hôn từ từ buông xuống, tôi
thấy mình như vừa trút bỏ được những bộn bề cuộc sống ngoài kia và ngắm những
giọt nắng từ từ buông trên dòng nước bằng tất cả say mê. Tự nhiên tôi nhớ tới
cô giáo dạy tiếng Tây Ban Nha của mình, nhớ những bài thơ cô từng đọc cho cả
lớp nghe, nhớ lời cô từng kể rằng người dân Sevilla luôn tự hào về thành phố
của họ vì nơi đây là nơi Christopher Columbus bắt đầu cho chuyến đi kiếm tìm
thế giới của mình, nhớ nhứng ngày hè trước khi năm học kết thúc, tôi và các bạn
luôn đòi cô tổ chức nấu một bữa ăn Tây Ban Nha. Nỗi nhớ vô tình gợi lại kỉ niệm
khiến tôi khẽ mỉm cười. Có ai ngờ được rằng sau khi thôi học tiếng Tây Ban Nha,
tôi lại đặt chân đến mảnh đất này đâu. Âu có lẽ cũng là cái duyên của cuộc
sống.
Những ngày ở Sevilla, Nienke đã là
một cô hướng dẫn viên thật tuyệt vời, đưa tôi thăm thú Sevilla. Cô nàng dẫn tôi
đi tới Thánh đường Sevilla và Cung điện Real Alcazares. Hai công trình kiếm
trúc nằm giữa trung tâm này có thể được xem là biểu tượng của thành phố và thu
hút khách du lịch nhiều nhất.
Từ trên đỉnh của thánh đường bạn có
thể ngắm nhìn toàn bộ thành phố và dễ dàng thấy một khu vườn với rất nhiều cam.
Ở Sevilla vào khoảng tháng Tư và tháng Năm khi mùa cam bắt đầu, trên khắp các
thành phố hay những công viên người ta có thể thấy hàng loạt những cây cam nặng
trĩu cành. Khi chúng tôi đi dạo trong công viên, vẫn còn những cây cam cuối mùa
còn sót lại. Tôi nhắm mắt và tận hưởng mùi hương của nó. Nienke quay sang dặn:
“Cẩn thận kẻo vấp phải quả cam đấy” bởi dưới chân tôi những quả cam lăn tròn
long lóc. Tôi vừa đi vừa bảo: “Sao cam ở đây rụng nhiều thế mà không ai nhặt
nhỉ?” Cô bạn phá lên cười: “Đắng lắm làm sao mà nuốt nổi, cậu thích ăn thì gom
lại đi, mang về Đức mà làm mứt”. Tính tôi xưa nay vẫn vậy, rất thường hay
tiếc vặt, dù đôi khi có những thứ chẳng liên quan gì tới mình.
Thánh đường Sevilla được thiết kế
theo kiến trúc Gothic và cũng là một trong những thánh đường cao nhất thế giới,
Thánh đường này có chiều dài gần 115 m và rộng 76 m, ở bên trong được trang trí
rất cầu kì và cũng tốn kém rất nhiều, bởi phần lớn các hình ảnh được tái hiện ở
thánh đường này đều mô tả cuộc đời của Chúa Giêsu. Ở Tây Ban Nha, 90% dân số
theo đạo Thiên Chúa giáo bởi vậy nên họ rất tự hào gìn giữ nét đẹp cổ truyền.
Những bức tranh quý giá của Murillo, Valázquenz hay Zurbarán[2] cũng
được lưu giữ ở trong này. Nienke dẫn tôi tới bàn thờ chính, nơi cất giữ mộ của
Columbus, người đã phát hiện ra châu Mĩ. Thi hài ông ban đầu được chôn ở Santo
Domingo rồi sau đó đã được cải táng ở Cuba và cho đến khi Cuba độc lập thì
người ta mang thi hài ông về và chôn ở Sevilla. Cho đến bây giờ thì vẫn có
nhiều giả thuyết cho rằng mộ của Columbus ở Sevilla chỉ là mộ giả, còn mộ thật
thì vẫn được chôn ở Santo Domingo và cuộc tranh chấp giữa Sevilla và Santo
Domingo vẫn diễn ra. Dạo quanh ở bên trong thánh đường, chúng tôi trèo hơn mấy
trăm bậc thang để leo lên Tháp chuông Giralda. Từ tháp chuông này, bạn có thể
nhìn toàn bộ thành phố từ phía trên cao, rất đẹp!
[2] Các họa sĩ nổi tiếng
người Tây Ban Nha.
Từ thánh đường Sevilla, chúng tôi
đến thăm cung điện của Vua Reales Alcazares, cũng là một công trình kiến trúc
rất kì công. Từng viên gạch trên tường, từng cột nhà đều được làm rất công
phu. Khi bước chân vào đây, tôi như thấy mình đi lạc vào một thế giới cổ tích
với những khu vườn rất đẹp, những căn phòng được trang trí lộng lẫy. Trên các
tường nhà, trần nhà là hàng trăm các bức chạm khắc vô cùng tuyệt vời, thậm chí
có những vòm trần còn được dát vàng trông vô cùng rực rỡ. Tôi chẳng nhớ mình đã
đi qua bao nhiêu căn phòng, bao nhiêu hành lang rộng lớn được trang trí cầu kì,
phức tạp, để rồi cứ vừa đi vừa trầm trồ, chẳng biết có khi nào trong đời mình
lại được chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật có một không hai này không nữa,
dù có phải giá trị nghệ thuật nào tôi cũng hiểu hết được đâu. Nhưng chính những
cái lạ đó đã khiến tôi thích thú, tò mò và tin chắc một điều rằng khi đã lạc
vào chốn này, bạn cũng sẽ có những cảm giác như tôi.
Chúng tôi đi bộ trên những con phố
dài với những dãy cửa hàng bán quần áo, bán đồ lưu niệm, tranh ảnh và những
thứ làm bằng tay của người dân Sevilla. Thỉnh thoảng khi đi dạo trên đường, tôi
lại bắt gặp tiếng nhạc rộn rã phát ra từ những người nghệ sĩ đường phố hay
những cô nàng diện trên mình chiếc váy Flammenco trông thật yểu điệu và quyến
rũ. Mỗi con đường, mỗi góc phố đều mang một vẻ đẹp riêng, nhưng tôi vẫn thích
nhất là được đi trên những con phố hẹp với những ngôi nhà nho nhỏ được trang
trí bằng những giàn dây leo màu xanh và những giỏ hoa treo lơ lửng bên cửa sổ.
Phố hẹp nên chỉ có những người đi bộ hoặc đi xe đạp mới có thể vào được, tha hồ
được tận hưởng sự yên tĩnh và hít hà mùi hương hoa tỏa ra trên khu phố. Khi
ngồi gõ những dòng chữ này, tôi không tài nào nhớ nổi tên những con phố mà mình
đã bước qua, nhưng khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy trước mắt mình là một bức
tranh Sevilla thơ mộng. Không biết bây giờ, nếu có dịp đi lại trên những con
đường đó, tôi có còn nhận ra không nữa. Những con phố có bao giờ đổi thay?
Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi
dừng chân ở công viên Maria Luisa. Đây là một trong những công viên đẹp nhất
Tây Ban Nha với hàng ngàn cây xanh và rất nhiều vườn hoa lộng lẫy. Tôi và
Nienke làm một cuộc picnic nhỏ trên thảm cỏ, vừa ăn vừa nói chuyện về những
tháng ngày cùng nhau đi học, những đổi thay kể từ ngày cô rời nước Đức và nằm
nghe tiếng ve sầu kêu. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chẳng biết đó có phải là
tiếng ve sầu không nữa, nhưng tiếng kêu của nó hệt như tiếng ve sầu mà thuở còn
đi học ở Việt Nam
tôi vẫn thường được nghe. Đã lâu lắm rồi kể từ ngày rời quê hương, tôi cứ ngỡ
sẽ không bao giờ được nghe tiếng ve sầu kêu vào những ngày mùa hạ nữa, nhưng
Sevilla đã cho tôi được sống lại cái cảm giác của ngày xưa.
Khi đã xế trưa, Anne gọi điện rủ
chúng tôi đi uống cà phê ở Quảng trường Plaza de América. Anne cũng đang làm
aupair ở Sevilla và tôi thực sự phục cái sự đi của cô gái người Đức này. Sau
khi tôi đã trở về Đức, Anne vẫn giữ liên lạc với tôi và qua Facebook, tôi cũng
biết được rằng cô cũng vừa có một chuyến đi bụi thú vị ở Việt Nam. Chúng tôi
ngồi trong quán cà phê tán ngẫu và ngắm những chú chim bồ câu rồi sau đó cả bọn
rủ nhau đi ăn trưa trong một nhà hàng mà theo lời Nienke nói là “ngon nhất
Sevilla”. Họ bắt tôi thử món Tapas, một món ăn nhẹ truyền thống của Tây Ban
Nha, có thể ví như món khai vị thường là mực chiên, khoai tây chiên, các loại
thịt, ô liu, cà rốt, rau quả trông rất hấp dẫn và ngon miệng, để rồi sau này
dù đã rời Sevilla, tôi vẫn nhớ mãi mùi hương tuyệt vời đó.
Đêm cuối trước khi trở về Hostel
sửa soạn vali cho chuyến bay ngày hôm sau, Nienke dẫn tôi đi thăm Quảng trường
Plaza de Espana (Spain
Square). Quảng trường này là biểu tượng chính
của thành phố từ khi ra đời vào năm 1929. Khung cảnh buổi đêm với tòa nhà dài
200m trải dài hai bên chân tháp cùng những cây cầu trong ánh đèn mờ mờ ảo ảo đã
tạo nên một bầu không khí thật sự yên bình và lãng mạn. Phía dưới chân tường
được trang trí bằng những bức tranh vẽ hình phong cảnh của những thành phố
khác nhau của Tây Ban Nha. Tôi chọn Barcelona
với hy vọng trong chuyến đi Tây Ban Nha tới của mình, sẽ được đặt chân ở thành
phố đó. Đến tận lúc này, trong tôi Sevilla có một cái gì đó vừa cổ điển, vừa
hiện đại, vừa nồng nhiệt nhưng cũng rất kiêu kì. Vẻ đẹp của thành phố phương Nam này đã được
dung hòa như thế, nhưng thật tiếc, chuyến đi nào rồi cũng phải trở về, cho dù
có phải khó khăn để nói lời tạm biệt. Tôi biết rồi tôi sẽ nhớ lắm một Sevilla
với những nụ cười trong trẻo của người dân nơi đây, đã làm tôi quên đi cái nắng
nóng tới hơn 40 độ của xứ sở này. Tôi sẽ nhớ lắm mùi cam thơm ngây ngất mà có
thể ngửi được từ bất cứ con đường nào trong thành phố. Nhớ một sáng tinh mơ nằm
dài trên bãi cỏ trong tiếng gió đu đưa và ve kêu của mùa hè, nghe tiếng nhạc du
dương và những vũ điệu nhảy Flammenco của những cô nàng Sevilla xinh đẹp. Nhớ
một thành phố phương Nam
nồng nàn và quyến rũ…
Tạm biệt Sevilla - thành phố yêu
thương đầy thơ mộng, nơi đã cho tôi những ngày rất đẹp. Và tôi biết nếu bất kỳ
ai đã từng nghe đến cái tên Anda-Louise Bogza thì chắc chắn họ sẽ biết tới thủ
đô Sevilla yêu dấu của bang này. Cái thành phố nhìn bề ngoài có vẻ tĩnh lặng và
cổ điển nhưng lại chứa chất rất nhiều điều kì thú để bất cứ du khách nào đến
đây đều háo hức khám phá và không hề ân hận khi trở về. Khi lái xe đưa tôi ra
sân bay, trên Radio đang chạy bản nhạc Time to say Goodbye, tự nhiên tôi
thấy lòng mình trùng xuống. Nienke quay sang nhìn tôi rồi nói khẽ: “Hai tuần
nữa tớ cũng sẽ theo chân nàng về Đức, đến bây giờ tớ vẫn chưa định hình được
cảm xúc của mình nữa. Chỉ biết là sẽ rất nhớ thôi.” Tôi im lặng một hồi, mãi
sau mới nói: “Ừ, Sevilla là vậy đó, chưa xa mà đã nhớ…”

