Buồn nôn - Chương 22

Tôi nhìn những ánh lập loè màu xám của thành phố Bouville
dưới chân tôi. Dưới ánh mặt trời chúng giống như những đống vỏ sò, vỏ hến,
xương vụn, đá sỏi. Chìm mất trong những mảnh vụn ấy, những đốm sáng nhỏ bằng
chai hay bằng nhựa bắn ra những ngọn lửa nhẹ từng chặp. Những rãnh, những hào,
những luống mảnh mai chạy giữa những vỏ sò ấy, trong một giờ nữa, chúng sẽ là những
con đường, tôi sẽ bước đi trên những con đường đó, giữa những bức tường. Những
thằng người đen lí nhí mà tôi nhận ra trên con lộ Boulibet đó, trong một giờ
nữa tôi sẽ là thành phần trong bọn chúng.

Trên đỉnh ngọn đồi này, tôi cảm thấy xa họ tuyệt mù. Tôi
thấy như mình thuộc về một loài khác. Họ ra khỏi phòng giấy sau một ngày làm
việc, họ nhìn những ngôi nhà và những công viên bằng một vẻ thoải mái, họ nghĩ
rằng đó là thành phố của họ, một “thành phố trưởng giả mỹ miều”. Họ không chút
sợ hãi, họ cảm thấy quen thuộc. Từ bao giờ họ chỉ thấy dòng nước quen thuộc
chảy ra từ những vòi nước, ánh sáng phát ra từ những bóng đèn khi người ta ấn
trên nút bấm điện, họ chỉ thấy những cây lai giống, cây cùi mà người ta chống
đỡ bằng những chảng ba. Họ có hàng trăm bằng cớ mỗi ngày rằng mọi thứ đều hoàn
thành đúng theo cơ chế, rằng thế giới tuân theo những quy luật cố định bất di
bất dịch. Vật thể rơi trong chân không đều rơi với cùng một tốc độ, công viên
đóng cửa mọi ngày từ 16 giờ vào mùa đông, từ 18 giờ vào mùa hè, chì biến sang
thể lỏng ở 335°, chuyến tàu điện cuối cùng đi từ toà thị chính lúc 23 giờ 5
phút. Họ sống bình thản, hơi ảm đạm, họ nghĩ đến Ngày Mai, nghĩa là một ngày
hôm nay mới; thành phố chỉ cung ứng có mỗi một ngày, ngày ấy cứ trở đi trở lại
y hệt nhau vào mỗi buổi sáng. Có chăng, người ta trau chuốt nó một ít vào những
ngày chủ nhật. Những tên xuẩn ngốc. Điều ấy làm tôi kinh tởm, khi nghĩ rằng sắp
sửa gặp lại những bộ mặt dày và tự tin của chúng. Chúng làm ra luật lệ, chúng
viết ra những cuốn tiểu thuyết bình dân, chúng cưới nhau, chúng ngu xuẩn cùng
độ khi sinh ra những đứa con. Tuy vậy cái thiên nhiên rộng lớn mơ hồ đã lẻn vào
thành phố của chúng, trong chính con người chúng. Thiên nhiên đó không cử động,
nó giữ vẻ lặng lẽ và chúng, tâm hồn đầy ứ thiên nhiên, chúng thở hít thiên
nhiên mà không nhìn thấy nó, chúng tưởng tượng rằng nó ở bên ngoài, cách thành
phố chừng hai mươi dặm. Còn tôi, tôi thấy nó, tôi thấy cái thiên nhiên, đó...
Tôi biết rằng lệ thuộc vào thiên nhiên là lười biếng, tôi biết rằng nó không có
quy luật: điều mà chúng cho là yếu tố thường hằng của nhiên giới... Nhiên giới
chỉ có những thói quen và nó có thể thay đổi những thói quen đó vào ngày mai.

Nếu có chuyện gì xảy ra? Nếu bỗng chốc thiên nhiên bắt đầu
dao động? Lúc đó, chúng sẽ nhận ra rằng thiên nhiên đang hiện thể ở đấy và tim
chúng dường như tan vỡ. Lúc đó, những bờ đê, những pháo đài, những lò sưởi
điện, những lò cao, những búa chày của chúng sẽ dùng làm gì? Điều đó có thể xảy
ra bất cứ lúc nào, có lẽ xảy ra ngay bây giờ đây: những triệu chứng đang có
kia. Chẳng hạn, một người cha đang đi dạo sẽ thấy một chiếc khăn màu đỏ băng
qua đường về hướng ông ta như tuồng được một ngọn gió đẩy tới. Và khi chiếc
khăn đến thật gần, ông ta mới thấy đó là một khoanh thịt thối, vấy đầy bụi, vừa
bò lê vừa nhảy, một miếng thịt bị nghiền lăn trong những dòng suối và phóng ra
từng hồi những tia máu. Hay một bà mẹ nhìn má đứa con và hỏi: “Con bị gì kia,
rôm hả?” và bà sẽ thấy da thịt sưng phù lên một ít, nứt nẻ, mở ra, và, dưới đáy
đường nứt một con mắt thứ ba, một con mắt tươi cười xuất hiện. Hay họ sẽ cảm
thấy những phớt chạm dịu dàng trên toàn thân, như những mơn trớn mà những con
người bơi trong nước cảm thấy đối với những cây cối. Và họ sẽ biết rằng y phục
của họ đã biến thành những con vật sống ngọ nguậy. Và một người khác sẽ thấy
rằng có gì đang cào cào trong miệng y. Y tiến đến gần một tấm gương há miệng
ra: lưỡi y đã biến thành một con rết khổng lồ linh hoạt đang ngọ nguậy những
chiếc chân và cọ sát vào vòm miệng. Y sẽ muốn khạc nhổ nó ra, những con rết,
lúc đó là một phần của chính y và y phải bứt rời ra bằng hai tay. Và một lô
những sự vật sẽ xuất hiện mà người ta phải tìm những tên mới cho chúng, chẳng
hạn như mắt-đá, cánh-tay-khổng-lồ-ba-sừng, ngón-chân-cái- làm-nạng-chống,
màn-nhện-làm-hàm. Và người đang ngủ trong chiếc giường êm ái, trong căn phòng
ấm cúng của mình sẽ thức dậy trần truồng trên một nền đất màu xanh, trong một
khu rừng cây xào xạc, màu đỏ và trắng, dựng thẳng lên trên như những ống khói ở
miền phụ cận Bouville, với những hòn dái to lớn vượt ra khỏi đất một nửa, láng
lẩy và phồng tròn, như những củ hành. Và những con chim sẽ bay lượn quanh những
chiếc cây, dùng mỏ mổ vào làm chúng chảy máu. Tinh khí sẽ chảy ra một cách chậm
chạp, nhẹ nhàng từ những vết thương, thứ tinh khí có lẫn máu, lầy nhầy và ấm
nóng với những bọt nhỏ. Hay chẳng có gì xảy ra như trên, chẳng có một thay đổi
nào đáng kể xảy đến, nhưng một sớm, khi mở chiếc cửa lá sách, người ta kinh
ngạc vì một loại cảm giác ghê sợ, bám víu nặng trĩu trên sự vật và như có vẻ
đang đợi chờ. Chỉ có thế: nhưng chỉ cần điều ấy kéo dài ít lâu, là sẽ có hàng
trăm người tự tử. Ừ! Chỉ cần nó thay đổi một chút thôi, tôi không đòi hỏi gì
hơn. Lúc bấy giờ người ta sẽ nhìn thấy những người khác bỗng chốc bị lao vào cô
đơn. Những con người hoàn toàn cô đơn, hết sức cô đơn với những nét mặt quái gở
ghê gớm, sẽ chạy khắp đường phố, họ sẽ nặng nề diễn qua trước mặt tôi, đôi mắt
đăm đăm, trốn chạy cơn bệnh của họ và đem chúng theo cùng, miệng há hốc với
cái-lưỡi-côn-trùng đang đập cánh. Lúc đó tôi sẽ phá lên cười, ngay cả khi thân
thể tôi bị bao bọc bằng những đồ dơ bẩn, ám muội, đang nở ra thành những đóa
hoa thịt, những đóa hoa tím, hoa mao lương. Tôi sẽ dựa lưng vào một bức tường
và hét to khi họ chạy ngang: “Các ông đã làm gì với khoa học của các ông? Các
ông đã làm gì với chủ nghĩa nhân bản của các ông? Đâu là phẩm giá của cây sậy
suy tư đấy hở?”. Tôi sẽ không sợ hãi - hay ít ra, không sợ hãi hơn bây giờ.
Phải chăng đó không phải luôn luôn là hiện hữu, những biến thể của hiện hữu?
Tất cả những con mắt thứ ba đang ăn dần một khuôn mặt, chúng là thừa thãi, hẳn
thế, nhưng không thừa thãi hơn hai con mắt đầu tiên. Tôi sợ là sợ cuộc hiện
hữu.

Chiều xuống, những ngọn đèn đầu tiên được thắp lên trong
thành phố. Chúa ơi! Thành phố có vẻ tự nhiên làm sao, mặc dù
tất cả những vẻ hình học của nó, trông nó có vẻ bị đè bẹp ngần nào dưới buổi
chiều. Điều đó quá sức... hiển nhiên, khi nhìn từ đây, có thể nào tôi là người
duy nhất nhìn thấy nó? Không có một anh chàng Gassandre nào ở một nơi nào đó,
trên một ngọn đồi, nhìn một thành phố dưới chân mình đang bị nuốt chửng vào
lòng thiên nhiên hay sao? Vả lại, điều đó có quan hệ gì? Tôi sẽ có thể nói gì
với y?

Rất nhẹ nhàng, thân thể tôi xoay về hướng tây, hơi lảo đảo
rồi bắt đầu bước đi.

Thứ tư: ngày cuối cùng của tôi ở Bouville.

Tôi đã đi khắp thành phố để tìm lại chàng Tự Học. Chắc chắn
là y không về nhà.

Y phải đi lang thang, lòng dồn dập cả hổ thẹn lẫn kinh sợ,
anh chàng nhân bản khốn khổ mà người ta không muốn biết tới nữa ấy. Thật ra,
tôi chẳng ngạc nhiên gì khi sự việc xảy ra: từ lâu rồi tôi cảm thấy rằng tâm
hồn dịu dàng và nhút nhát của y sẽ gây nên tai tiếng. Y chẳng làm gì nên tội:
đấy hầu như do cái vẻ nhục cảm, tình yêu chiêm ngưỡng khiêm tốn của y đối với
những thiếu niên - đúng ra là một hình thức nhân bản. Nhưng phải có một ngày
nào đó y tự thấy cô độc. Như ông Achille, như tôi: y thuộc giống nòi tôi, y có
thiện chí. Hiện giờ y đã bước vào cô đơn - và mãi mãi. Tất cả đều sụp đổ một
lần, giấc mơ văn hóa, giấc mơ hòa thuận với loài người của y. Đầu tiên là sự sợ
sệt, sự kinh hãi và những đêm không ngủ, rồi sau đó, những chuỗi ngày lưu đày
dài dặc. Buổi chiều, y sẽ trở về lang thang trong sân Hypothèques; y sẽ đứng
nhìn từ xa những cửa sổ lấp lánh sáng của thư viện và lòng y se thắt khi y nhớ
đến những kệ sách dài, với những chiếc bìa đóng bằng da và mùi giấy từ các
trang sách. Tôi tiếc đã không đi theo y, nhưng y đã không muốn như thế; chính y
đã van tôi để cho y đi một mình: y bắt đầu tập sự cô đơn. Tôi viết những dòng
này ở quán cà phê. Tôi đã vào quán một cách trịnh trọng, tôi muốn chiêm ngưỡng
ông quản lý, bà thâu ngân và cảm thấy rằng tôi nhìn họ lần cuối cùng. Nhưng tôi
không thể đừng nghĩ đến chàng Tự Học, tôi cứ luôn nhìn thấy khuôn mặt xanh xao
ốm yếu đầy trách móc và cái cổ áo cao ướt đẫm máu của y. Lúc bấy giờ tôi đã hỏi
xin giấy và tôi sẽ thuật lại những gì đã xảy ra cho chàng Tự Học.

Tôi đến thư viện vào khoảng hai giờ chiều. Tôi đã nghĩ: “Thư
viện. Mình vào đây lần cuối”.

Căn phòng hầu như trống không. Tôi buồn mà nhận ra điều đó
vì biết rằng mình sẽ không bao giờ trở lại nữa. Căn phòng nhẹ như một làn hơi,
gần như vô thực, và nhuộm một màu đỏ chói; mặt trời ngả bóng nhuộm đỏ chiếc bàn
dành cho nữ độc giả, cánh cửa, những chiếc gáy sách. Trong một giây, tôi có cảm
tưởng êm đềm như vào trong một khu rừng còn đầy lá vàng rực rỡ; tôi mỉm cười.
Tôi nghĩ: “Đã lâu mình không mỉm cười đấy”. Gã đảo Corse nhìn ra cửa sổ, tay
chắp lại sau lưng. Gã thấy gì? Chiếc sọ của Impétraz chăng? “Mình thì mình sẽ
không còn thấy nữa chiếc sọ Impétraz, cái mũ cao cũng như chiếc áo choàng của
ông ta. Trong sáu giờ nữa, mình sẽ rời Bouville”. Tôi đặt trên bàn giấy của
người thủ thư hai cuốn sách mượn vào tháng trước. Y xé một tấm thẻ xanh và đưa
mảnh giấy cho tôi:

“Đây, thưa ông Roquentin”.

“Cám ơn ông.”

Tôi nghĩ: “Bây giờ, tôi không còn nợ họ gì cả. Tôi không còn
nợ một ai ở đây nữa. Tôi sắp sửa đến từ giã bà chủ quán “Rendez-vous des
Cheminots”. Tôi đang tự do. Tôi ngần ngại một lúc: tôi có nên dùng những phút
cuối cùng này để đi dạo một vòng qua Bouville, nhìn lại đại lộ Victor Hugo, đại
lộ Galvani, đường Tournebride? Nhưng khu rừng con này êm đềm quá, tinh khiết
quá: tôi thấy như nó chỉ hơi hơi hiện hữu và cơn Buồn Nôn đã lánh xa nó. Tôi
đến ngồi gần lò sưởi. Tờ Nhật báo Bouville trải ra trên bàn.
Tôi với tay lấy báo.

“Được chó cứu sống.”

“Chiều qua, ông Dubosc, nghiệp chủ ở Remiredon, trong khi
dùng xe đạp trở về nhà từ chợ phiên Naugi...”

Một bà to lớn đến ngồi bên phải tôi. Bà đặt chiếc nón nỉ bên
cạnh. Mũi bà mọc lên trên khuôn mặt như một con dao cắm trong một trái táo.
Dưới chiếc mũi, một cái lỗ nhỏ đang nhăn nhíu lại một cách khinh thị. Bà lôi từ
xắc ra một cuốn sách đóng bìa da, tựa khuỷu tay vào bàn và tựa đầu vào đôi tay
mập mỡ. Trước mặt tôi, một ông già đang ngủ. Tôi biết ông ta: ông đã có mặt ở
thư viện vào cái buổi chiều mà tôi kinh hãi đó. Ông cũng kinh hãi, tôi tin thế.
Tôi nghĩ: “Thật là xa xôi, tất cả những chuyện đó”.

Lúc bốn giờ rưỡi, chàng Tự Học đi
vào. Tôi thích siết tay y và nói vài lời từ biệt. Nhưng phải tin rằng cuộc hội
kiến cuối cùng của hai người đã để lại cho y một kỷ niệm buồn: y chào tôi một
cách xa vắng và đến đặt xuống bàn khá xa tôi một gói nhỏ trắng, trong đó hẳn
chứa đựng như thường lệ một khúc bánh mì và một thỏi sô-cô-la. Một lát sau, y
trở lại với một cuốn sách có hình mà y đặt gần bên gói. Tôi nghĩ: “Mình đang
gặp y lần cuối”. Chiều mai, chiều mốt, những chiều kế tiếp, y sẽ đến đọc sách ở
cái bàn này và ăn 

bánh mì với sô-cô-la, y theo đuổi một cách kiên tâm những
nhảm nhí như chuột của y, y sẽ đọc những tác phẩm của Nabaud, Naudeau, Noder,
Nys và thỉnh thoảng ngừng lại để ghi một châm ngôn vào cuốn sổ nhỏ mang theo.
Còn tôi, tôi đi trong thành phố Ba Lê, trên những con đường của Ba Lê, tôi sẽ
nhìn thấy những khuôn mặt mới. Cái gì sẽ xảy đến cho tôi, trong lúc y đang ở
đây, trong lúc ngọn đèn chiếu vào khuôn mặt to lớn, trầm ngâm của y? Tôi cảm
thấy đúng lúc rằng tôi lại sắp bị mê hoặc bởi ảo ảnh của cuộc phiêu lưu. Tôi
nhún vai và tiếp tục đọc trở lại.

“Bouville và những vùng lân cận.

Monistiers.

“Hoạt động của đội cảnh sát trong năm 1932. Đội trưởng
Guspard, chỉ huy đội Cảnh sát Monistiers và 4 thuộc viên của ông, các ông
Lagoutte, Nizan, Pierpont và Ghil đã không thiếu việc làm trong năm 1932. Quả
thế, cảnh sát cùa ta đã ghi nhận được 7 án mạng, 82 tội tiểu hình, 159 tội vi cảnh,
6 vụ tự tử và 15 vụ tai nạn xe hơi trong đó có 3 vụ tử nạn.”

Phụ cận Bouville.

“Nhóm ái hữu những người chơi kèn của vùng phụ cận Bouville.

“Hôm nay tập dượt chung, phát thiệp cho cuộc hòa nhạc thường
niên.

Compostel.

“Lễ gắn Bắc đẩu bội tinh tại tòa thị sảnh.

Hội du khách Bouville. (Thành lập do Hướng đạo
Bouville năm 1924):

“Chiều nay, lúc 20 giờ 40, họp hằng tháng ở nhiệm sở xã hội
số 10, đường Ferdinand Byron, phòng A. Chương trình nghị sự: đọc biên bản cuối
cùng. Thư tín, tiệc thường niên, lạc quyên năm 1932, chương trình những cuộc du
ngoạn tháng 3; những vấn đề linh tinh; niêm yết.”

Bảo vệ loài vật (Hội Bouville):

“Thứ năm tuần tới, từ 15 đến 17 giờ, phòng C, 10, đường
Ferdinand Byron, Bouville, thường trực dành cho công chúng. Thư từ gởi cho Chủ
tịch, tại nhiệm sở hay số 154, đại lộ Galvani.

“Hội bảo vệ chó Bouville... Hội những bệnh nhân chiến tranh
Bouville... Nghiệp đoàn chủ xe tắc-xi... Hội ái hữu những trường Sư phạm ở
Bouville...”

Hai thiếu niên bước vào với những cặp sách. Những học sinh trung
học. Gã đảo Corse rất thích các học sinh trung học, vì gã có thể giám thị chúng
thân tình như cha đối với con. Gã thường thích để cho chúng lắc lư trên mấy
chiếc ghế và nói chuyện thả cửa, rồi bỗng chốc gã rón rén đến đằng sau chúng và
la rầy: “Đây có phải là thái độ của những người đã lớn không? Nếu các em không
thay đổi thái độ, ông thư viện trưởng buộc lòng phải than phiền với ông giám
học”. Và nếu chúng kháng cự, y nhìn chúng bằng đôi mắt ghê gớm: “Cho tôi biết
tên các em”. Y cũng hướng dẫn sự đọc sách của chúng: Ở thư viện, vài cuốn sách
được đánh dấu bằng một chữ thập đỏ; đó là Hỏa Ngục: những tác phẩm của Gide,
Diderot, Baudelaire, những sách y khoa. Khi một học sinh trung học xin tra cứu
một trong các cuốn đó, gã đảo Corse ra dấu cho cậu, kéo cậu vào một góc và tra
hỏi. Sau một hồi, y tuyên bố và giọng y vang lên trong phòng đọc sách: “Có
những cuốn sách thú vị hơn nhiều cho tuổi các em. Những sách giáo dục. Trước
hết em đã làm xong bài chưa đã? Em học lớp mấy? Lớp đệ tam? Và em không có việc
gì làm sau 4 giờ chiều? Giáo sư các em thường đến đây và tôi sẽ mách ông về
chuyện các em.

Hai cậu bé còn đứng sững cạnh lò sưởi. Cậu nhỏ tóc màu nâu,
da gần như quá mịn và một cái mồm thật bé, tinh quái và kiêu hãnh. Anh chàng bồ
bịch của cậu, một cậu lớn con mạnh bạo, với một bộ râu mép măng tơ, lấy khuỷu
tay huých cậu và thì thầm vài tiếng. Cậu bé tóc nâu không trả lời, nhưng nhếch
mép cười, đầy kiêu ngạo tự mãn. Rồi cả hai lừ đừ chọn một cuốn tự điển trên một
trong những kệ và lại gần chàng Tự Học lúc ấy đang đăm đăm nhìn chúng bằng một
tia nhìn mệt mỏi. Chúng có vẻ không biết đến sự hiện diện của y, nhưng chúng
ngồi sát y, cậu bé tóc nâu bên tay trái chàng Tự Học và cậu lưng gù to con bên
trái cậu tóc nâu. Chúng bắt đầu lật cuốn tự điển. Chàng Tự Học nhìn mông lung
khắp phòng, rồi trở lại đọc sách. Chưa bao giờ một phòng thư viện lại mang một
quang cảnh làm vững dạ hơn. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào, ngoại trừ
hơi thở ngắn của cái bà to lớn, tôi chỉ thấy những chiếc đầu cúi xuống trên
những cuốn sách khổ gấp-tám. Tuy nhiên, ngay lúc đó, tôi có cảm tưởng rằng một
biến cố khó chịu sắp xảy ra. Tất cả những người đang cúi mặt xuống với một vẻ
chăm chú đó dường như đang đóng kịch; tôi đã cảm thấy cách đây mấy phút, cái
gì như một làn khí ác độc vừa tỏa lan trên chúng tôi.

Tôi đã đọc xong, nhưng quyết định nán lại: tôi vừa chờ đợi,
vừa giả bộ đọc báo. Điều làm tăng thêm sự tò mò và làm tôi bực tức, đó là những
người khác cũng đang đợi chờ như tôi. Tôi nghe như là người đàn bà cạnh tôi giở
những trang sách của bà mau hơn. Vài phút trôi qua, rồi tôi nghe tiếng thì
thào. Tôi thận trọng ngẩng đầu lên. Hai cậu bé đã gấp quyển tự điển lại. Cậu
tóc nâu không nói gì, cậu quay khuôn mặt mang dấu tôn kính và chú ý sang bên
phải. Ẩn một nửa sau vai của cậu, chú tóc vàng lắng tai và chế giễu một cách im
lặng. “Nhưng ai đang nói?” tôi nghĩ thầm trong trí.

Chính là Chàng Tự Học, y đang cúi xuống trên chú bé ngồi
cạnh; mắt trong mắt.

Y mỉm cười với chú: tôi thấy môi y động đậy và thỉnh thoảng
hàng mi dài của y chớp chớp. Tôi chưa từng nhìn thấy vẻ trẻ thơ này nơi y, nó
gần như mang vẻ quyến rũ. Nhưng, được một lúc, y ngừng lại và nhìn thoáng về
sau, lo lắng. Cậu bé dường như đang uống lấy lời y, cảnh đó không có gì phi
thường và tôi sắp sửa trở lại đọc sách thì tôi nhìn thấy cậu bé lướt từ từ bàn
tay mình trên mép bàn ở sau lưng cậu. Che mắt được chàng Tự Học bằng lối đó,
bàn tay cậu tiếp tục lướt đi và bắt đầu sờ soạng xung quanh, rồi khi đã gặp
cánh tay của cậu tóc vàng to lớn, cậu tóc nâu béo một cái thật mạnh. Cậu kia
đang quá say sưa thưởng thức trong yên lặng những lời nói của Chàng Tự Học nên
không thấy bàn tay đang đến, cậu nhảy nhỏm lên và miệng há lớn ra dưới hậu quả
của ngạc nhiên và khâm phục. Cậu tóc nâu bé nhỏ vẫn giữ nét mặt chăm chú đầy
kính cẩn. Người ta có thể đâm ra nghi ngờ không biết bàn tay kia có phải là của
cậu hay không. “Chúng sắp làm gì y thế?”. Tôi nghĩ tôi hiểu rõ rằng có một cái
gì đó đê tiện sắp xảy ra, tôi cũng thấy rõ rằng còn kịp ngăn việc đó đừng xảy
ra. Nhưng tôi chưa đoán ra được phải ngăn lại chuyện gì đây. Trong thoáng giây,
tôi có ý định đứng dậy, đến vỗ vai Chàng Tự Học và nói chuyện với y. Nhưng cùng
lúc đó, y chợt gặp phải cái nhìn của tôi. Y ngưng ngang câu chuyện và mím môi
với vẻ bực bội. Nản lòng, tôi quay mắt đi nhanh và tiếp tục giả vờ đọc báo. Lúc
đó cái bà to lớn đã đẩy cuốn sách của bà đi và ngẩng đầu lên. Bà có vẻ như bị
mê hoặc. Tôi cảm thấy rõ ràng bà ta sắp sửa lên tiếng: tất cả bọn họ đều muốn cho
chuyện nổ bùng ra. Tôi có thể làm gì đây? Tôi nhìn nhanh về phía gã đảo Corse:
gã không còn nhìn ra cửa sổ, gã hơi xoay người về phía chúng tôi.

Một khắc trôi qua, Chàng Tự Học bắt
đầu thì thầm trở lại. Tôi không dám nhìn y nhưng tôi tưởng tượng rất rõ ràng vẻ
thơ trẻ dịu dàng của y và những cái nhìn đè nặng trên y mà y không biết. Có một
lúc tôi nghe tiếng y cười, một tiếng cười nhỏ trong trẻo và ranh mãnh. Tiếng
cười làm tôi se lòng: tôi có cảm tưởng như những đứa trẻ khốn kiếp sắp nhận
nước một con mèo. Rồi bỗng chốc, những tiếng thì thào ngưng hẳn. Sự im lặng đối
với tôi chứa đầy vẻ bi thảm: đó là sự kết thúc, sự thi hành án tử. Tôi cúi đầu
trên tờ báo 

và giả bộ đọc; nhưng tôi không đọc: tôi nhướng đôi mày và
nâng cao mắt lên hết sức, để cố bắt chợt những gì đang xảy ra trước mặt tôi
trong nỗi yên lặng này. Khi nhẹ xoay đầu, rnắt tôi thoáng gặp một điều: một bàn
tay, rnột bàn tay nhỏ và trắng vừa lướt dọc theo bàn. Bây giờ, bàn tay đó đang
lật ngửa ra, nằm dài, dịu dàng và đầy nhục cảm, bàn tay mang vẻ trần truồng ơ
hờ của một người con gái tắm biển đang nằm sưởi nắng. Một vật màu nâu và bóng
như nhung xích gần lại, ngập ngừng. Đó là một ngón tay lớn vàng khè vì thuốc
hút; nằm bên bàn tay đó, ngón tay có tất cả cái vô duyên thô bạo của phái khỏe.
Nó ngừng lại một lúc, cứng đơ, chìa về phía lòng bàn tay mảnh dẻ, rồi bỗng nó bắt
đầu mơn trớn bàn tay một cách rụt rè. Tôi không ngạc nhiên, duy tôi rất tức
giận chàng Tự Học: đồ ngốc, y không thể tự kìm hãm mình được sao: Y không hiểu
nỗi nguy hiểm đang xảy đến cho y hay sao? Y còn một cơ hội, một may mắn mong
manh: nếu y để cả hai tay trên bàn, hai bên cuốn sách, nếu y tuyệt đối câm mồm,
có lẽ y sẽ thoát khỏi số phận y lần này. Nhưng tôi biết rằng y
sắp bỏ mất cơ hội may mắn đó: ngón tay trườn nhè nhẹ, khiêm nhu, trên khối thịt
da bất động, lướt nhẹ lên mà không dám đè mạnh: dường như ngón tay ý thức được
vẻ xấu xa của nó. Tôi đột ngột ngẩng đầu lên, tôi không còn chịu đựng nổi cuộc
vuốt ve lì lợm đó: tôi tìm đôi mắt của Chàng Tự Học và tôi ho thật lớn, để báo
cho y hay. Nhưng y đã khép chặt mí mắt, y đang mỉm cười. Tay kia của y mất hút
dưới gậm bàn. Hai đứa bé không còn cười nữa, mặt chúng trở nên xanh mét. Cậu bé
tóc nâu cắn môi, cậu đang sợ hãi. Tuồng như cậu thấy những biến cố đã vượt quá
tầm kiểm soát của mình. Tuy nhiên, cậu không rụt tay lại, cậu để mặc nó trên
bàn, bàn tay bất động, gần như hơi co rút lại. Bạn cậu miệng há hốc ra trong
một vẻ ngu độn và sợ hãi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3