Kẻ cắp tia chớp - Chương 01
1. Tôi Trót Làm Cô
Giáo Dạy Đại Số Bốc Hơi
Nói thật nhé, tôi đâu muốn làm á thần!
Nếu khi đọc sách này, bạn cho rằng một nửa dòng máu chảy
trong huyết quản mình thuộc về thần thánh, tôi khuyên bạn hãy đóng sách lại
ngay đi. Hãy tin mọi lời dối trá về thân thế của mình từ cha mẹ và sống cuộc
đời bình dị như bao người khác.
Mạng á thần như trứng treo đầu đẳng. Đáng sợ lắm! Cái chết
đau đớn, kinh khiếp luôn theo sát gót họ gần như mọi lúc mọi nơi.
Nếu bạn là một đứa trẻ bình thường, bạn đọc cuốn sách này vì
bạn nghĩ nó là một điều hư cấu, thì thật tuyệt. Tiếp tục đọc nó nhé! Tôi ganh
tị với bạn vì bạn có thể giả vờ những chuyện trong cuốn sách này chưa bao giờ
xảy ra.
Nếu thấy những gì tả trong sách này giống với mình quá, nếu
thấy trực giác, linh tính không chịu ngủ yên, hãy ngừng đọc ngay vì có thể bạn
giống chúng tôi. Nếu bạn biết, chẳng chóng thì chày chúng cũng
đánh hơi thấy và tìm đến lấy mạng bạn.
Đừng trách tôi không báo trước nhé.
Tên cha sinh mẹ đẻ của tôi là Percy Jackson.
Tôi mười hai tuổi. Vài tháng trước đây, tôi
còn là học sinh nội trú tại Học việc Yancy, một trường tư dành cho học sinh cá
biệt thuộc khu vực thượng New
York.
Tôi có phải là một cậu nhóc “cá biệt” không?
Có, ai cũng biết thế.
Mọi thời điểm trong quãng đời ngắn ngủi và đau khổ của tôi
đều chứng minh điều đó. Nhưng mãi đến tháng Năm vừa rồi, mọi chuyện mới bắt đầu
tệ hại không chịu nổi. Đó là lúc khối lớp Sáu chúng tôi đi tham quan ở Manhattan. Hai mươi tám
nhóc tỳ tâm thần có vấn đề cùng hai giáo viên lên chiếc xe buýt vàng chóe nhắm
Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan thẳng tiến. Các mẫu vật trưng bày có từ thời
Hy Lạp và La Mã cổ đại là mục đích tham quan của ngày hôm đó.
Phải phải, nghe như sắp bị tra tấn vậy. Hầu hết những chuyến
tham quan của Học viện Yancy đều thế cả.
Nhưng hôm nay, thầy Brunner dạy tiếng Latinh sẽ hướng dẫn
học trò, thế nên lòng tôi tràn ngập hy vọng.
Thầy giáo tôi trạc tuổi trung niên ngồi xe lăn có gắn động
cơ. Tóc thầy thưa mỏng, bộ râu quai nón không chăm chút thường xuyên và thầy thường
mặc áo khoác cũ sờn ám mùi cà phê. Nhìn qua chẳng ai bảo thầy có gì thú vị
nhưng ngược lại, trong giờ học thầy hay kể chuyện, nói đùa và cho học trò chơi
nhiều trò bổ ích. Thầy còn có một bộ sưu tập tuyệt vời toàn vũ khí và áo giáp
của người La Mã cổ. Vậy nên chỉ mỗi tiết của thầy là tôi không thấy buồn ngủ.
Tôi hy vọng buổi tham quan này suôn sẻ, hay ít nhất cũng
không có sự cố gì xảy đến với tôi.
Nhưng hỡi ôi, đó chỉ là hy vọng hão huyền.
Hình như buổi tham quan hay dã ngoại nào tôi cũng gặp chuyện
khóc dở mếu dở. Chẳng hạn, trong chuyến thăm chiến trường Saratoga hồi lớp Năm,
tôi gặp tai nạn với khẩu đại bác có từ thời Chiến tranh Cách mạng. Thực lòng
thì tôi không cố tình nhắm bắn xe buýt của trường. Nhưng dù thanh minh thế nào
đi nữa thì tôi cũng bị đuổi học. Còn nữa, hồi lớp Bốn, khi chúng tôi được đến
phía sau hậu trường của hồ cá mập ở Thế giới Đại Dương, tôi chẳng may chạm vào
cần đòn bẩy trên lối đi hẹp khiến cả lớp phải tập bơi bất đắc dĩ. Chưa hết,
trước đó tôi còn… Mà thôi, chắc các bạn đoán ra cả rồi.
Nhưng lần tham quan này, tôi tự hứa với lòng nhất định mình
sẽ ngoan.
Suốt quãng đường xuống trung tâm, tôi nghiến răng chịu cảnh
nhỏ Nancy Bobofit - mặt đầy tàn nhang, tính hay táy máy - cầm bánh kẹp bơ đậu
phộng rưới xốt cà chốc chốc lại đập vào đầu Grover, bạn thân nhất của tôi.
Grover là con mồi ngon xơi của những đứa ngỗ ngược như Nancy. Thằng bạn chí cốt
của tôi gầy nhẳng, lúc buồn bực chỉ biết khóc. Chắc chắn nó đúp vài năm rồi vì
trong khối lớp Sáu, chỉ mình nó có mụn trứng cá và vài cọng râu thưa. Grover là
trẻ tật nguyền. Nó có giấy được miễn học thể dục cả đời vì bị bệnh gì đó ảnh
hưởng đến cơ chân. Dáng đi của nó vẹo vọ trông rất tội nghiệp, như thể mỗi bước
chân đều làm nó đau đớn. Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà tưởng lầm. Mỗi khi căn-tin
có món bánh bột ngô nhân thịt, nhìn Grover chạy đua đến đó thì cứ gọi là lác
mắt nhé.
Quay lại chuyến tham quan để đời hôm ấy. Nancy Bobofit điềm
nhiên đều đặn ném mẩu vụn véo từ cái bánh kẹp vào mái tóc nâu xoăn tít của
Grover. Chỉ lát sau, đầu nó dính chi chít đầy mẩu bánh nhỏ. Nhỏ Nancy biết tôi
không làm gì được nó vì tôi đang trong thời gian bị theo dõi chặt chẽ bởi từng
mắc lỗi trước đó. Trước lúc đi, thầy hiệu trưởng đe rằng tôi sẽ bị đuổi học
thẳng thừng nếu gây bất cứ chuyện gì không tốt, làm mọi người xấu hổ hoặc đơn
giản chỉ là chọc cười ai đó trong chuyến đi này.
Tôi lẩm bẩm:
- Tớ sẽ lấy mạng con nhỏ cho coi.
Grover cố trấn tĩnh:
- Không sao đâu mà. Tớ thích bơ đậu phộng.
Nó lanh lẹ né mẩu bánh từ tay Nancy vừa bay tới.
- Thế này thì quá lắm.
Tôi đã chực đứng dậy nhưng bị Grover kéo xuống ghế, đoạn
nhắc:
- Đang trong thời gian quản chế, chắc cậu biết nếu có xô
xát, ai là kẻ phải giơ đầu chịu báng rồi đấy!
Giờ ngẫm lại, tôi ước lần ấy mình hạ đo ván Nancy luôn cho xong.
Bị cấm túc trong trường sau giờ học không nhằm nhò gì so với mối họa tôi sắp tự
rước vào thân.
Thầy Brunner dẫn đầu đoàn tham quan.
Điều khiển xe lăn đi trước, thầy đưa chúng tôi qua mấy phòng
trưng bày rộng thênh thang, đi qua mấy bức tượng tạc từ đá cẩm thạch và dãy tủ
kính bày đầy đồ cổ bằng chất liệu gốm màu da cam pha màu đen.
Tôi cực kỳ ngạc nhiên: suốt hai ba ngàn năm qua, sao đồ gốm
vẫn chưa bị bể nhỉ?!
Thầy Brunner gọi chúng tôi đến vây quanh cây cột đá cao gần
bốn mét. Đầu cột có con nhân sư lớn và kể rằng nó vốn là bia của ngôi mộ cổ,
nơi an nghỉ của một bé gái trạc tuổi chúng tôi. Thầy còn kể tỉ mỉ về những hình
chạm khắc hai bên cột. Chuyện của thầy khá hay. Tôi muốn nghe lắm nhưng mấy bạn
đứng gần cứ nói chuyện riêng hoài. Mỗi lần tôi bực mình quát bảo họ im miệng, cô
Dodds đứng canh chừng gần đó lại lừ mắt cảnh cáo tôi.
Cô Dodds người nhỏ thó quê ở Georgia, dạy môn Toán. Dù đã năm
mươi tuổi nhưng cô luôn mặc áo da màu đen. Cô nanh nọc và đanh đá, trông như
lúc nào cũng sẵn sàng cưỡi xe Harley phân khối lớn đâm thẳng vào tủ đựng đồ của
kẻ nào mà cô không ưa. Cô mới dạy chúng tôi được vài tháng do thầy Toán cũ của
chúng tôi bị suy nhược thần kinh.
Ngay hôm đầu nhận lớp, cô Dodds đã quý Nancy và coi tôi là
tên vô lại. Mỗi khi cô xỉa ngón trỏ cong như móc câu về phía tôi với giọng ngọt
như mía lùi: “Nghe này cưng…”, y như rằng tôi bị phạt ở lại sau giờ học cả
tháng.
Có lần, sau khi bị cô bắt ngồi đến tận nửa đêm gôm hết phần
bài giải trong chồng sách bài tập toàn cũ, tôi bảo Grover: “Chắc cô Dodds không
phải là người”. Nó nghiêm trang nhìn tôi, bảo:
- Cậu hoàn toàn đúng.
Thầy Brunner vẫn đang nói về nghệ thuật thể hiện trong cách
tổ chức ma chay của người Hy Lạp cổ.
Giọt nước tràn ly đúng lúc Nancy cười khúc khích, nói câu gì đó về
hình chạm người thanh niên trần truồng trên cột đá. Không chịu nổi, tôi quay
xuống:
- Có câm mồm không thì bảo?
Tôi không chủ tâm quát to như thế.
Cả lớp cười ồ. Thầy Brunner ngừng kể, nói với tôi:
- Trò Jackson vừa nhận xét gì thế?
Mặt tôi đỏ rần:
- Thưa thầy, không ạ.
Thầy Brunner chỉ bức tranh khắc trên cột:
- Em thử trình bày nội dung bức tranh này xem.
Nhìn bức điêu khắc, tôi mừng rơn vì biết khá rõ:
- Có phải Kronos đang nuốt các con vào bụng không ạ?
Rõ ràng thầy Brunner chưa thỏa mãn với câu trả lời ấy:
- Phải. Và ông ta đã làm thế vì…
Tôi cố moi óc nhớ bài:
- Vì… thần Kronos là chúa tể của các vị thần và…
- Các vị thần nào?
Tôi nói chữa:
- À không, người
khổng lồ Titan. Kronos không tin các con, vốn là các vị thần. Thế nên ông ta
nuốt sống các con mình. Đúng không ạ? Nhưng vợ Kronos đã tráo thần Dớt, lúc ấy
là hài nhi, bằng một hòn đá rồi giấu con đi. Sau này, thần Dớt khôn lớn đã lừa
cha để ông ói ra anh chị em mình…
Đám con gái đứng
sau tôi kêu lên:
- Eo ôi!
- … Và thế là xảy
ra cuộc chiến lớn, một bên là các vị thần, bên kia là người khổng lồ Titan.
Cuối cùng, các vị thần đã chiến thắng.
Có tiếng cười
khúc khích trong đám học trò.
Đứng sau lưng
tôi, Nancy rỉ tai bạn nó:
- Học cho lắm
cũng có mài kiến thức ra ăn được đâu. Sau này đi xin việc làm, chẳng ai yêu
cầu: “Xin hãy giải thích tại sao Kronos lại nuốt các con vào bụng” cả!
Thầy Brunner hỏi:
- Trò Nancy
Bobofit vừa có ý hay. Tôi xin diễn giải thành câu hỏi để
trò Jackson giải thích nhé: Chuyện em vừa kể áp dụng vào thực tiễn
như thế nào?
Grover thì thầm:
- Dính chưởng.
Nancy rít
lên, mặt nó còn đỏ hơn cả mái tóc đỏ rực trên đầu:
- Câm ngay.
Ít nhất Nancy cũng
bị bắt lỗi. Trong trường chỉ mình thầy Brunner luôn phát hiện được những điều
bậy bạ mà nó phát ra. Tai thầy chẳng khác dàn ra-đa hiện đại.
Ngẫm nghĩ câu hỏi một lát, tôi nhún vai:
- Thưa thầy, em không biết ạ.
Thầy Brunner có vẻ thất vọng:
- Được rồi. Chuyện này khuyên con người ta không nên cả tin.
Thần Dớt cho cha uống rượu pha mù tạt khiến ông nôn ra năm người con của mình
vốn là các vị thần bất tử. Họ vẫn sống và trưởng thành ngay trong bụng người
khổng lồ Kronos. Các vị thần đánh bại cha, dùng ngay liềm cắt cỏ của Kronos băm
ông thành trăm ngàn mảnh nhỏ và rải xuống ngục Tartarus, phần tận cùng của địa
ngục. Tôi biết các em mừng vì đã đến giờ ăn trưa. Phiền cô Dodds đưa các em ra
ngoài nhé?
Cả lớp tản ra. Đám con gái ôm bụng, còn bọn con trai xô đẩy
nhau cười đùa ầm ĩ. Grover và tôi dợm quay ra cửa thì nghe thầy Brunner gọi
giật lại:
- Trò Jackson.
Biết ngay mà.
Tôi bảo Grover đi tiếp, đoạn quay lại hỏi:
- Dạ, thầy bảo gì em ạ?
Ánh mắt của thầy thật khó quên. Cặp mắt nâu luôn tập trung
nhìn chăm chú ấy hình như đã cả ngàn tuổi và nhìn thấu sự đời.
- Trò phải học cách trả lời các câu hỏi thầy đưa ra chứ!
- Về người khổng lồ ư, thưa thầy?
- Về thực tiễn và cách áp dụng những kiến thức đã học vào
đời sống thực tế.
- À, ra thế.
- Thông tin thầy cung cấp vô cùng quan trọng. Thầy mong em
hiểu tầm quan trọng lớn lao của nó. Thầy chỉ muốn có được các câu trả lời tốt
nhất từ em. Hãy nhớ lấy điều đó, Percy Jackson ạ.
Tôi chạnh lòng. Sao lúc nào thầy cũng thúc ép tôi thế ?!
Phải công nhận những ngày thi môn học của thầy vui cực kỳ.
Khi đó, thầy Brunner mặc áo giáp của người La Mã cổ và thét vang: “Nhìn đây”.
Tay cầm kiếm chỉ hộp phấn, thầy thách các trò chạy lên bảng, viết tên bất kỳ
nhân vật huyền thoại nào của Hy Lạp và La Mã cổ từng được học, kể tên cha mẹ họ
và vị thần mà họ thờ phượng. Nhưng khổ nỗi thầy kỳ vọng tôi phải học hành bằng
bạn bằng bè, dù biết tôi mắc bệnh khó đọc và chứng mất tập trung. Cả đời tôi
chỉ nhận toàn điểm C trở xuống. Không – thầy không chỉ kỳ vọng tôi phải học
hành bằng bạn bằng bè. Thầy muốn tôi phải giỏi hơn nữa cơ. Nhớ cả đống tên
người và thông tin về họ đã khó, huống hồ thầy còn đòi tôi phải đánh vần cho
đúng từng cái tên.
Tôi lí nhí hứa sẽ cố gắng nhiều hơn nữa. Nhưng thầy Brunner
chỉ buồn bã nhìn mãi bia đá như thể thầy đang dự đám tang người con gái nọ.
Lát sau, thầy bảo tôi ra ngoài ăn trưa cho kịp.
Cả lớp tụ tập trên bậc tam cấp của viện bảo tàng ngắm dòng
người đi bộ tấp nập trên Đại lộ Số Năm.
Trên trời, một cơn dông lớn dữ dội đang kéo đến. chưa bao
giờ tôi thấy đám mây to, đen kịt như thế trên bầu trời thành phố. Không biết có
phải tại Trái đất đang nóng lên hay không mà từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết
khắp bang New York này
kỳ lạ lắm: nào bão tuyết khốc liệt, nào lụt lội ghê gớm, nào cháy rừng do sét
đánh. Lần này nếu có bão nhiệt đới xuất hiện, tôi cũng không ngạc nhiên.
Hình như không ai để ý đến thời tiết thì phải. Góc kia có
mấy thằng con trai đang vãi mẩu bánh cho chim bồ câu ăn. Ở góc này, Nancy đang tìm cách
móc túi một bà qua đường và tất nhiên cô Dodds không hề hay biết gì.
Tôi và Grover tách khỏi đám đông và tìm chỗ ngồi trên thành
hồ dưới chân đài phun nước. Biết đâu thấy vậy, người qua đường sẽ tưởng hai đứa
tôi không phải học sinh của cái trường toàn bọn học dốt, cá biệt mà các trường
khác không nhận nên mới dồn cả vào đây.
Grover hỏi:
- Thầy phạt cậu à?
- Không. Đời nào thầy Brunner phạt tớ. Lắm lúc tớ chỉ mong
thầy đừng quan tâm tớ quá thế. Tớ đâu phải thiên tài.
Grover im lặng một lúc lâu. Cứ tưởng nó sắp nhận xét một câu
thật sâu sắc hay triết lý cao xa để an ủi tôi thì nó lại bảo:
- Tớ xin cậu quả táo có được không?
Tôi đắng hết cả miệng, chẳng thiết ăn bèn cho nó.
Ngắm dòng xe cộ chạy xuống phía cuối Đại lộ Số Năm, tôi nhớ
căn hộ của mẹ chỉ cách đây một quãng. Từ Giáng sinh đến giờ chưa gặp được mẹ,
giờ tôi chỉ chực nhảy ngay lên taxi về thẳng nhà. Mẹ sẽ ôm chầm lấy tôi, mừng
rỡ vì được gặp con nhưng đồng thời bà sẽ thất vọng cho coi. Mẹ sẽ gửi tôi trở
lại Học viện Yancy, với lời dặn dò tôi phải cố gắng cho dù tôi đã sáu lần “đúp”
lớp Sáu và rất chắc chắn lần này cũng sẽ bị đuổi học. Ánh mắt buồn rười rượi
của mẹ chắc sẽ làm tôi quỵ mất.
Thầy Brunner ngồi trong xe lăn đậu phía dưới chân dốc dành
cho người tàn tật. Thầy vừa đọc tiểu thuyết vừa ăn cần tây. Lưng ghế của thầy
có gắn chiếc dù đỏ khiến nhìn từ xa, trông xe lăn giống bàn cà phê di động.
Vừa giở gói giấy bánh kẹp định ăn, tôi đã thấy Nancy Bobofit
dẫn mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn đến đứng ngay trước mặt. Chắc nó đã chán móc
túi khách du lịch nên đến đây gây sự. Con nhỏ ném phần ăn trưa còn lại vào
người Grover:
- Ối, chỉ lỡ tay chứ không cố ý đâu.
Nó quay sang tôi cười phô hàm răng vẩu. Tàn nhang trên mặt
nó màu vàng da cam, trông như ai vừa xịt sơn đầy mặt nó vậy.
Tôi cố không nổi nóng. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường
dặn tôi cả triệu lần rằng: “Nếu gặp chuyện chướng tai gai mắt, hãy đếm đến mười
và cố tự chủ”. Nhưng lúc này tôi giận quá nên không nhớ được gì. Hai tai tôi
lùng bùng như có ai đánh trống trận bên trong.
Tôi không nhớ là đã chạm vào người Nancy, chỉ thấy loáng cái nó đã ngồi bệt
trong hồ nước, hét vang:
- PERCY ĐẨY EM NGÃ.
Không biết từ đâu, cô Dodds đã ở sát ngay cạnh hai thằng
tôi.
Có vài đứa học trò thì thào:
- Cậu có thấy không…
- … nước hồ này kỳ quá…
- … hình như nước dâng lên lôi tuột con nhỏ Nancy…
Tôi không hiểu bọn nó nói gì, chỉ biết tai họa lại sắp giáng
xuống đầu mình.
Ngay sau khi ngó từ đầu đến chân cô trò cưng, biết Nancy không hề hấn gì và
hứa sẽ mua cho nó áo phông của viện bảo tàng ở quầy lưu niệm, bla bla bla, cô
Dodds quay ngay sang tôi. Ngọn lửa đắc thắng bừng lên trong mắt cô như thể tôi
vừa làm một chuyện cô đã chờ xem suốt mùa hè.
- Nghe này, cưng…
Tôi lúng búng:
- Em biết rồi. Một tháng gôm sách bài tập ạ?
Đó không phải điều cô Dodds muốn nghe.
- Đi theo tôi.
Grover la lên:
- Khoan đã. Lỗi
tại em. Chính em đẩy bạn Nancy ạ.
Tôi trố mắt ngạc
nhiên nhìn nó. Thật không thể tin nó dám bao che cho tôi. Grover vốn sợ cô
Dodds như sợ cọp cơ mà.
Cô Dodds trừng
mắt nhìn khiến cằm nó run bần bật.
- Cậu Underwood,
tôi lại không nghĩ như vậy.
- Nhưng mà…
- Em ở nguyên đó.
Grover tuyệt vọng nhìn tôi. Tôi bảo nó:
- Không sao đâu. Cảm ơn cậu vì đã cố cứu tớ.
Cô Dodds quát lớn:
- Trò Percy, đi nào.
Nancy Bobofit trề môi đắc thắng.
Tôi nhìn nó với ánh mắt lát-nữa-mày-sẽ-biết-tay-tao. Đẩy nó
ngã vào hồ nước được thì có bị rắc rối chút đỉnh cũng đáng. Ước gì tôi nhớ được
động tác xô mạnh Nancy
xuống nước khi nãy.
Tôi quay lại nhìn cô Dodds, nhưng cô ấy đã không ở đó. Cô ấy
đang đứng ở lối vào viện bảo tàng, ở những bậc thang trên cùng, đang kiên nhẫn
chờ tôi đi đến.
Sao cô ấy đi đến đó nhanh như vậy nhỉ?
Chuyện ấy thường hay xảy đến với tôi. Chắc thi thoảng não
tôi lại ngủ quên. Ngay sau đó, tôi biết mình vừa bỏ lỡ một điều gì đó, như thể
một mảnh ghép của trò chơi xếp hình vừa tan vào hư không, để mặc tôi đứng đó
nhìn trân vào chỗ trống. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường bảo đó một phần là
do chứng mất tập trung do hiếu động thái quá: não tôi nhận thức sai về sự vật
hiện tượng bên ngoài.
Thực lòng tôi cũng không chắc lắm.
Tôi đi theo cô Dodds.
Đi được nửa bậc thang, tôi ngoái lại nhìn Grover. Mặt tái
nhợt, nó hết ngó tôi lại quay sang cầu cứu thầy Brunner. Hình như nó muốn báo
cho thầy biết chuyện nhưng thầy đang đắm mình vào cuốn tiểu thuyết trên tay,
không để ý gì đến xung quanh.
Tôi quay đầu lại. Cô Dodds một lần nữa lại biến mất. Bây giờ
cô ấy lại đang ở trong viện bảo tàng, đứng phía cuối sảnh ra vào, đang vẫy tay
giục tôi khẩn trương tiến vào.
Tôi bụng bảo dạ: “Sẽ không có chuyện gì đâu. Chắc cô giáo
ép mình đến quầy lưu niệm mua áo phông cho Nancy thôi”.
Nhưng rõ ràng tôi đoán sai bét.
Tôi theo cô vào sâu trong viện bảo tàng. Khi tôi bắt kịp cô,
chúng tôi đã trở lại khu trưng bày mẫu vật thời La Mã, Hy Lạp cổ đại.
Ngoài chúng tôi ra, phòng trưng bày rộng thênh thang không
một bóng người.
Cô Dodds đứng khoanh tay cạnh cây trụ đá lớn thờ các vị thần
trong thần thoại Hy Lạp. Từ họng cô phát ra tiếng kêu lạ tai, nghe như tiếng
gầm gừ.
Dù không có tiếng ấy, hồn vía tôi đã lên mây cả. Chỉ một
mình đối mặt với thầy cô đã sợ rồi, đối mặt với cô Dodds đáng sợ gấp nghìn lần.
Ánh mắt cô nhìn trụ đá không bình thường, như thể cô chỉ muốn nghiền nó ra cám.
- Cậu mang lại rắc rối cho chúng tôi.
Tôi cố giữ thân bằng cách chiều theo ý cô:
- Dạ, cô dạy phải.
Cô Dodds kéo mạnh tay áo khoác da màu đen:
- Cậu tưởng lần này tôi để yên sao?
Ánh mắt cô còn hơn cả giận dữ. Nó trở nên độc ác vô song.
Tôi hốt hoảng nghĩ thầm: “Dù thế nào thì cô Dodds cũng là
cô giáo mà. Chẳng lẽ cô ấy nỡ hãm hại mình?”
- Thưa cô, em sẽ cố gắng hơn nữa ạ.
Có tiếng sấm làm rung chuyển cả tòa nhà.
- Này Percy Jackson, ngươi tưởng qua mắt được bọn ta sao?
Chẳng chóng thì chày, bọn ta cũng tìm được ngươi. Nếu tự thú, ngươi sẽ bớt đau
đớn nhiều đấy.
Tôi chẳng hiểu cô đang nói gì.
Tôi chỉ lo thầy cô tìm thấy đống kẹo tôi giấu trong phòng ở
ký túc xá để thỉnh thoảng lén bán cho các bạn. Hoặc có lẽ họ biết tôi tải bài
luận viết về Tom Sawyer trên mạng đem nộp mà không hề đọc chữ nào trong sách và
giờ tính trừ phăng điểm của bài luận ấy. Hoặc tệ hơn, họ sẽ bắt tôi phải đọc
cuốn truyện dày cộm đó.
Cô Dodds rít lên:
- Thế nào hả?
- Thưa cô, em không…
- Ta hết kiên nhẫn với ngươi rồi.
Thế rồi, một chuyện quái đản nhất trên đời xảy đến. Chắc đầu
óc tôi có vấn đề rồi.
Cô Dodds bắt đầu thay hình đổi dạng.
Mắt cô đỏ rực như lò than nướng thịt ngoài trời, ngón tay
vươn dài biến thành móng vuốt nhọn hoắt. Cô rít lên. Ý tôi là không phải rít
giống người đang tức giận, mà như rắn hổ mang bành rít vậy. Áo khoác trên người
cô tan chảy biến thành đôi cánh lớn có màng da dày.
Cô Dodds không còn là người nữa rồi. Cô biến thành mụ phù
thủy nhăn nheo có cánh dơi, móng vuốt sắc nhọn và miệng đầy răng nhọn vàng khè
và sắp sửa xé tôi thành từng mảnh nhỏ.
Sau đó, cơn ảo giác tiến triển quái dị hơn nữa.
Thầy Brunner một phút trước đó còn ngoài cổng viện bảo tàng
giờ đã xuất hiện ngay cửa phòng trưng bày, tay giơ cao cây viết.
Vừa tung bút lên cao, thầy vừa hô to:
- Bắt lấy, Percy!
Lập tức, cô Dodds lăn xả vào tôi.
Hoảng hốt kêu to, tôi né sang một bên chỉ kịp nghe tiếng
móng vuốt vụt trượt nghe vun vút ngay bên tai. Tôi chộp cây bút bi trên không
trung nhưng khi chạm tay tôi, nó liến biến thành cây kiếm. Đó chính là cây kiếm
bằng đồng mà thầy Brunner thường dùng trong những ngày thi.
Mắt long lên tàn độc, cô Dodds phóng vọt về phía tôi.
Đầu gối tôi bủn rủn, hai tay run bắn suýt làm rơi thanh
kiếm.
Cô Dodds gầm lên:
- Cho mày chết này.
Dứt lời, cô lao thẳng vào tôi.
Cơn kinh hoàng hoàn toàn chế ngự tôi. Tôi chỉ làm đúng theo
bản năng là vung kiếm lên.
Lưỡi kiếm sắc lẻm chém xả vai và xuyên qua người cô như thể
thân xác cô làm từ nước.
Cô Dodds như lâu đài cát đặt ngay trước quạt công suất cực
mạnh. Người cô nổ tung, biến thành bột màu vàng nghệ rồi tan biến ngay trước
khi kịp rơi xuống. Dấu vết chẳng còn gì ngoài mùi trứng thối, tiếng kêu giãy
chết và âm khí lạnh buốt. Tôi cảm tưởng cặp mắt vằn đỏ vẫn còn đâu đó trên cao
đang trừng trừng nhìn tôi.
Chỉ còn mình tôi trơ trọi trong phòng trưng bày trống trải,
quạnh quẽ.
Trong tay tôi có cây bút bi nhỏ.
Thầy Brunner biến mất. Ngoài tôi ra, xung quanh không còn ai
khác.
Tay tôi run bắn. Chắc chắn
đồ ăn trong bữa trưa của tôi bị nhiễm nấm gây ảo giác mất rồi.
Chẳng lẽ từ đầu đến cuối là do tôi tưởng tưởng ra sao?
Tôi trở ra phía ngoài.
Trời bắt đầu mưa.
Vẫn ngồi bên đài phun nước, Grover lấy sơ đồ viện bảo tàng
che đầu cho khỏi ướt. Nancy Bobofit ướt như chuột lột sau khi vùng vẫy dưới hồ
nước giờ vẫn đứng đó càu nhàu với mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn của nó. Vừa
thấy tôi, nó bảo:
- Tao mong cô Kerr đánh cho mày tướp mông ra.
Tôi ngạc nhiên:
- Ai cơ?
- Thằng đần, cô giáo chứ còn ai.
Tôi chớp mắt lia lịa. Trường tôi có cô giáo nào tên Kerr đâu nhỉ? Tôi hỏi Nancy rằng nó vừa nói
nhăng nói cuội gì thế.
Nó tròn mắt nhìn
tôi, tỏ vẻ chán nản, sau đó chẳng thèm trả lời câu hỏi của tôi.
Tôi hỏi Grover có
thấy cô Dodds đâu không. Nó bảo:
- Ai cơ?
Tuy nhiên, nó hơi
ngập ngừng và không dám nhìn thẳng tôi. Tưởng nó chòng ghẹo mình, tôi bảo:
- Đừng đùa nữa.
Tớ hỏi nghiêm túc đấy.
Trên trời cao,
tiếng sấm nổ rền.
Tôi thấy thầy
Brunner ngồi bên trên bờ dốc dành cho người tàn tật, bên dưới cây dù màu đỏ.
Thầy cắm cúi đọc sách như thể chưa hề nhúc nhích từ đầu buổi đến giờ.
Thấy tôi đến bên,
thầy ngơ ngác nhìn lên:
- À, có phải cây
bút của thầy không? Jackson này, lần sau đi học nhớ mang theo dụng cụ học tập
nhé.
Mãi đến lúc thầy
giật bút khỏi tay mình, tôi vẫn chưa nhận ra là mình đang cầm nó.
Tôi rụt rè:
- Thưa thầy, cô
Dodds đâu rồi ạ?
Thầy mở to mắt
nhìn tôi, vẻ không hiểu:
- Cô Dodds nào?
- Cô giáo đi cùng
bọn em sáng nay ấy ạ. Cô Dodds dạy toán ấy.
Thầy nhíu mày
ngồi thẳng lưng, nét mặt thoáng lo âu:
- Percy này, đoàn
tham quan hôm nay không có cô Dodds nào cả. Còn nữa, thầy biết rõ mười mươi Học
viện Yancy ta không có nữ giáo viên nào tên Dodds hết. Em có bị làm sao không
vậy?