Thiên táng - Chương 09 phần 1

Đã đến lúc Văn rời khỏi vùng Bách Hồ, đỉnh núi Anyemaqen
tuyết phủ và các núi khác của vùng Thanh Hải. Những đồng cỏ, sông hồ và núi
thiêng vùng này đã xâm chiếm cả tâm hồn bà. Nơi đây bà nếm trải mọi vui buồn
của đời người. Nơi đây tình yêu của bà với Khả Quân ngày càng mãnh liệt. Nơi
đây bà tìm thấy quê nhà tinh thần của mình. Mặc dù thân xác bà ra đi, nhưng
tinh thần bà sẽ ở lại nơi đang lưu giữ người chồng đã khuất. Trong khi bà chuẩn
bị cho chuyến đi, trái tim bà giống như mặt nước lặng, mọi gợn lăn tăn của lòng
khát khao hay nỗi buồn đã được nhẹ nhàng xoa dịu nhờ tác động của thánh thần.
Văn biết rằng trong những tháng năm sắp tới, ở mọi nơi, mọi lúc, bà sẽ giống
như cánh diều, gắn chặt với núi Anyemaqen bằng một sợi chỉ vô hình.

Bà chia làm đôi cuốn sách tiểu luận của mình, các trang
trong đó ghi kín đặc tất cả những lời nhung nhớ khát khao của bà. Một nửa bà sẽ
mang theo mình về Trung Quốc, nửa kia bà sẽ để lại cùng Lão Ẩn sĩ Cường Ba.
Bằng cách này, một nửa của Khả Quân và một nửa của bà sẽ tiếp tục sống ở Tây
Tạng.

Họ quyết định Văn, Zhuoma và Thiên An Môn sẽ đi đến Lhasa,
thành phố cổ nhất và là thành phố thiêng của Tây Tạng. Ở đó họ có thể tìm các
đại diện của quân đội Trung Quốc để xem người ta biết gì về số phận của Khả
Quân. Họ cũng sẽ hỏi thăm đi về Trung Quốc bằng cách nào. Zhuoma quyết tâm làm
một cuộc hành trình cuối cùng về quê nhà Văn, còn Thiên An Môn muốn thấy nơi
từng là nguồn hứng khởi cho Zhuoma, sau đó mới quay về tu viện. Một trong các
gia đình cắm trại bên hồ hứa rằng họ sẽ tìm gia đình của Gela và chuyển lời nhắn tới cho họ.

Chuyến đi về phía Nam thật gian khổ, họ hoàn toàn đơn
độc trên suốt đường đi. Tuy nhiên, khi vượt qua dãy núi Tanggula, họ gặp thêm
nhiều lữ khách khác trên đường, và cứ thế họ đến vùng đất đông người ở hơn.
Thật ngạc nhiên, họ bắt đầu nhận ra những khuôn mặt Trung Quốc tại các phiên
chợ. Có những nhà hàng và cửa hiệu có bảng đề chữ Trung Quốc. Thiên An Môn đặc
biệt choáng ngợp trước những gì họ thấy. Như thể họ đã bước vào một thế giới
khác hay một thế kỷ khác vậy. Một hôm thậm chí họ còn thấy mình đang ở trong
quảng trường một ngôi làng nơi thanh niên nam nữ mặc quần áo nhiều màu sặc sỡ
kết hợp giữa kiểu Trung Quốc và kiểu Tây Tạng đang khệnh khạng đi lên đi xuống
theo tiếng nhạc. Một trong những người đứng xem bảo Văn rằng đây là một “chương
trình biểu diễn thời trang.”

Văn không thể nào ngờ mình sẽ gặp nhiều người Trung Quốc
định cư, xây dựng gia đình và lập nghiệp ở đây đến như vậy. Bà chưa bao giờ
hình dung nổi rằng tất cả những khủng khiếp và đổ máu mà bà chứng kiến lại sẽ
dẫn tới kết quả này. Quá nhiều điều xảy ra trong khi bà ở nơi thâm sơn cùng
cốc. Những người Trung Quốc định cư đã làm gì đất nước huyền bí này cùng với
nền văn hóa cuả nó? Một phần của bà mong muốn sao có thể bắt chuyện với vài
người trong số đó. Phần khác của bà thì giữ bà lại, nhớ rằng đã phải khó khăn
như thế nào khi trò chuyện với những người Trung Quốc ở buổi lễ Hoạt Phật.

Những gì họ thấy trên đường đi chẳng là gì so với phố phường
náo nhiệt của Lhasa, Điện Potala khổng lồ trắng toát sừng sững phía trước họ.
Khi ba người bạn tiến vào thành phố, họ thấy chóng mặt vì sự nhộn nhịp huyên
náo, vì tiếng ồn và những mùi xa lạ. Văn tràn ngập nỗi buồn nhớ quê nhà. Nếu
không có những ngôi đền và những con người mặc quần áo Tây Tạng thì bà thấy hầu
như mình đã về lại Trung Quốc, nhất là những con phố của khu chợ Bát Giác
(Barkhor), nơi các dân buôn người Trung Quốc và người Tây Tạng chen lấn nhau để
bán hàng. Thiên An Môn hết sức kinh ngạc trước những gì ông thấy. Ông gãi gãi
gáy, sửng sốt. Với ông, việc sử dụng tất cả những đồ vật lạ lẫm kia là một điều
bí ẩn hoàn toàn. Zhuoma thì một phần bối rối, một phần lại thích thú
trước quang cảnh đó.

“Chẳng giống Tây Tạng tí nào,” bà nói.

Thiên An Môn chỉ vào một nhóm lạt ma nơi một quầy hàng đang
rao bán những vật dụng tôn giáo - tràng hạt, phướn, sọ bò khảm ngọc và đồ cúng
tế.

“Họ tụng kinh gì vậy?” ông hỏi. Mặc dù Văn và Zhuoma biết
không phải các lạt ma đang tụng kinh, nhưng họ cũng ngạc nhiên chẳng khác gì
ông khi thấy các lạt ma mà lại đi bán hàng.

Ở chợ, Zhuoma đổi một chuỗi hạt quý lấy một cây bút cho Văn,
một cái áo dài mới cho Thiên An Môn, và một chiếc khăn choàng cùng ít tiền lẻ
cho chính bà. Qua nhiều năm, chỗ nữ trang tổ tiên để lại của Zhuoma đã vơi
nhiều, nhưng bà vẫn còn giữ được vừa đủ để ba người có thể đi Trung Quốc.

Trời đang tối dần và họ nhận ra mình phải tìm chỗ nào đó để
trú. Trong một phố nhỏ, họ tìm được cái nhà khách nhỏ do một ông giáo về hưu
người Trung Quốc làm chủ, ông ta chỉ cho họ nơi để ngựa. Ông ta bảo họ rằng
người ta cử ông lên Tây Tạng từ hai mươi năm trước. Ban đầu ông ta thấy rất khó
ở lại định cư, nhưng ít nhất thì ở đây không khí đấu tranh giai cấp và học tập
chính trị cũng đỡ căng thẳng. Văn vờ hiểu những gì ông ta nói, nhưng tâm trí
mệt mỏi của bà khó lòng hiểu được gì. Ông ta nói “đấu tranh giai cấp” và “học
tập chính trị,” mấy cái đó nghĩa là gì vậy?

Giữa đêm, Văn và Zhuoma nghe có tiếng gõ gấp gáp vào cửa
phòng họ. Theo bản năng, Văn sờ tìm nửa cuốn sách tiểu luận của mình cùng với
ảnh và cuốn nhật ký của Khả Quân mà bà để dưới gối trước khi đi ngủ. Khi Văn mở
cửa ra, họ thấy Thiên An Môn đứng đó trong trạng thái rất phấn chấn.

“Lại mà xem,” ông nói. “Chúng ta đang ở Thiên đàng.”

Văn và Zhuoma theo ông vào căn phòng áp mái của ông. Ông
đứng cạnh cửa sổ. Bên ngoài, Lhasa sáng rực ánh điện.

Văn và Zhuoma nhìn nhau. Mỗi người đều từng qua đêm ở Nam
Kinh và Bắc Kinh. Khó mà tưởng tượng được một thành phố hiện đại trông như thế
nào đối với một người chưa hề nhìn thấy điện.

Buổi sáng, chủ nhà khách cho Văn biết bà có thể dùng buồng
tắm của ông ta. Trong khi đứng dưới cái vòi hoa sen thô sơ - một cái ống cao su
mỏng thòi ra từ một ống nước trên đầu bà -, Văn nhớ lại lần tắm gội sang trọng
ở căn cứ quân đội tại Trịnh Châu, đã bao nhiêu năm trước, lúc cuộc hành trình
đi Tây Tạng của bà mới bắt đầu. Nếu ngay lúc đó bà biết rằng phải bao lâu nữa
mình mới lại bước vào một buồng tắm thì sẽ thế nào nhỉ? Cái tôi nay đã già của
bà kinh ngạc trước sự hồn nhiên và dũng cảm của mình hồi trẻ.

Zhuoma nói bà không hiểu gì mấy món đồ Trung Quốc ấy, nên
chỉ lấy bát múc nước xối người từ trên xuống dưới. Thiên An Môn thì tuyên bố
ông chỉ có thể tắm ở ngoài sông, và hai người phụ nữ không thể làm gì để thuyết
phục ông đổi ý.

Gần trưa, họ đến hành lễ tai Điện Potala. Văn đứng dưới chân
những bậc tam cấp dốc đứng dẫn lên tòa điện cao chót vót. Đó là tòa nhà khác
thường nhất mà Văn từng thấy - rộng mênh mông, đẹp đẽ và cao đến nỗi bà chẳng
bao giờ tưởng tượng được. Đằng trước bà, hàng hàng đám đông đang trèo lên các
bậc tam cấp để lên cổng điện, cứ ba bước lại dừng mà phủ phục xuống. Có lẽ Khả
Quân đã luôn luôn muốn đưa bà đến nơi này. Có lẽ số phận định sẵn rằng bà phải
đi suốt từ đồng bằng châu thổ sông Dương Tử tới Tây Tạng để trèo lên đây và
được tiếp nhận vào tôn giáo của các thánh thần. Bà bắt đầu trèo,việc ừa trèo
vừa cúi thấp mình như mọi người xung quanh và thầm niệm “Án ma ni bát mê hồng.”

Khi đã vào trong điện, ba người bạn đi dọc theo những hành
lang tối, đầu tiên băng qua một phòng họp rộng thênh thang, sau đó đi qua những
sân trong và nhà nguyện. Có những phòng chứa hàng dãy sách quý, cả bức trướng
thêu tinh tế treo trên tường, những tượng Phật mặc quần áo đẹp đẽ bằng lụa thêu
kim tuyến và quàng khăn nhiều màu sắc, cùng nhiều điện thờ. Đâu đâu cũng ngời
ánh sáng màu vàng hắt ra từ những ngọn đèn thắp bằng mỡ bò.

Ở nơi gọi là “Bạch Điện” họ sửng sốt trước cảnh lộng lẫy của
khu phòng ở dành cho Đạt Lai Lạt Ma. Kiến trúc và thiết bị nội thất thật là tao
nhã. Trên các bàn trà là ấm trà bằng vàng và tách ngọc được chế tác tinh xảo.
Những chiếc khăn thêu kim tuyến lộng lẫy đến lóa mắt. Trong “Xích Điện” họ thấy
những ngọn linh tháp khảm vàng và đá quý đựng di hài các vị Đạt Lai Lạt Ma quá
cố. Có tới hàng ngàn phòng. Văn chưa bao giờ nghĩ rằng xứ Tây Tạng lại có thể
giàu có đến như vậy. Đầu bà quay cuồng. Bà dừng chân để lấy hơi. Bên cạnh bà là
bức tranh tường mô tả một đám cưới. Bà nhận ra đó là đám cưới giữa Songtsen
Gampo với Công chúa Văn Thành, ngôi điện này, xây vào thế kỷ thứ bảy, khởi thủy
vốn dành cho bà công chúa này. Bà nghĩ tới những lời cuối cùng của Khả Quân:
“Chúng tôi chỉ muốn làm mỗi một điều là đưa tri thức Trung Quốc đến cho các
người, cải thiện cuộc sống của các người, như Công chúa Văn Thành đã làm hơn
ngàn năm trước.” Trong khi bốn phía quanh bà những người hành hương đang tụng
kinh, bà ngồi xuống cầu nguyện cho tới khi Zhuoma kéo bà đi.

Bất cứ ai mà họ trò chuyện ở Lhasa đều bảo họ rằng họ cần
được phép của bộ phận nhân sự tại “đơn vị công tác” của họ thì mới về Trung
Quốc được. Họ có thể về Bắc Kinh bằng máy bay, nhưng muốn vậy phải có giấy
phép. Zhuoma và Thiên An Môn rất bối rối trước chuyện này. “Đơn vị công tác” là
gì? Họ có cái gì như thế không? Khi Thiên An Môn gợi ý rằng tu viện của ông có
thể là đơn vị công tác của ông, Văn không biết nên cười hay nên khóc. Bà nói
với họ rằng bà sẽ nộp đơn lên bộ chỉ huy quân sự để xin các giấy tờ đi đường
cần thiết.

Tìm bộ chỉ huy quân sự không khó. Người địa phương hình như
ai cũng biết nó nằm ở đâu nên chẳng mấy chốc họ đứng ngay trước một doanh trại
quân đội nơi cánh cổng lớn ghi mấy chữ “Ban Quân Sự Khu Tây Tạng”. Trong khi họ
đứng trước cổng mà bàn nhau xem nên làm gì, một lính gác mang súng lại gần lịch
sự hỏi họ muốn gì.

“Tôi đến đây để tìm tung tích người chồng mất tích của tôi,”
bà nói.

Văn quan sát người lính gác gọi mấy cuộc điện thoại vào bên
trong khu nhà, và chẳng bao lâu sau, một người xuất hiện, trông có vẻ là sĩ
quan. Sau khi hỏi họ tên của họ và quan hệ giữa họ với nhau, anh ta đưa họ vào
một phòng tiếp khách có bày sofa và bàn uống trà khá tiện nghi.

Thiên An Môn cứ kè kè sát bên cạnh Zhuoma, bà làm gì ông làm
theo nấy. Ông ngồi xuống một cách thận trọng và rõ là sửng sốt khi thấy cái
sofa mềm đến thế. Văn cảm thấy như mình vừa bước vào một căn nhà Trung Quốc. Bà
vẫn còn nhớ cái sofa cũ tả tơi ở nhà bố mẹ bà ngồi mới thoải mái làm sao. Trong
khi nhấp trà xanh mà viên sĩ quan mang tới, những cảm nhận khiến bà ứa lệ.

Văn kể cho viên sĩ quan một cách vắn tắt nhất có thể về bản
thân mình và những gì mình đã trải qua: về Vương Lượng ở căn cứ quân sự tại
Trịnh Châu, đoàn xe hộ tống đã đưa bà đến Tây tạng, những gì đã xảy ra với bà
trong những năm sau đó, và câu chuyện về sự tuẫn tiết của Khả Quân. Bà bảo anh
ta rằng bà muốn biết quân đội có những hồ sơ gì về cái chết của Khả Quân và
liệu họ có biết đến sự anh hùng của anh ấy hay không. Bà nói bà muốn quay về
Trung Quốc.

Viên sĩ quan sửng sốt nhìn bà. Anh ta dường như xúc động sâu
xa trước những gì bà kể. Anh ta nói anh ta rất sẵn lòng giúp bà, nhưng anh chỉ
mới tới Tây Tạng tám năm trước thành thử không biết nên bắt đầu điều tra theo
yêu cầu của bà như thế nào.

Tuy nhiên, liệu anh ta có thể cho phép họ đi Trung Quốc
không, Văn hỏi. Viên sĩ quan giải thích rằng anh ta cần phải xác minh chuyện họ
kể thì mới có thể làm vậy, nhưng nhất định anh ta sẽ liên lạc với bộ tham mưu ở
Bắc Kinh để xem có thể phát hiện được gì không. Anh ta báo trước rằng bà không
nên quá hy vọng: trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nhiều hồ sơ đã bị thất lạc
hoặc bị đốt.

“Ông nói “Cách mạng văn hóa” nghĩa là sao?” Văn bối rối hỏi.

Viên sĩ quan nhìn bà.

“Nếu bà có thể ở lại lâu hơn một chút,” anh ta nói, “tôi sẽ
cố giải thích cho bà những chuyện xảy ra ở Trung Quốc trong hơn ba mươi năm
qua.”

Văn và Zhuoma ngơ ngác nghe khi viên sĩ quan kể cho họ về
“Nạn đói” trong thập niên 1960, “Cách mạng Văn hóa” trong thập niên 1970, “Cải
cách và Mở cửa” của Đặng Tiểu Bình trong thập niên 1980, và “các cải cách kinh
tế hiện nay.” Thiên An Môn ngồi xếp bằng trong một góc, vừa lần tràng hạt vừa
lầm rầm tụng kinh.

Văn phải đợi mấy ngày mới nhận được thư triệu tập tới Bộ chỉ
huy quân sự. Lần này chỉ một mình bà được vào trong vì Thiên An Môn và Zhuoma
không có tên trong thư. Ở đó bà được viên sĩ quan lần trước tiếp đón, và có
thêm một người già hơn. Người lớn tuổi hơn xin lỗi vì các bạn bà phải đợi ở
ngoài và hứa rằng người ta sẽ chăm sóc họ chu đáo. Ông ta tự giới thiệu là một
trong các vị tướng chịu trách nhiệm chỉ huy các đội quân đồn trú tại Lhasa và
bảo Văn rằng họ đã kiểm tra tất cả tên họ và số đơn vị mà bà đưa cho. Đáng buồn
là có quá nhiều người tên Vương Lượng nên không thể truy ra được chính viên sĩ
quan mà bà nói tới, nhất là vì có quá nhiều hồ sơ đã bị thất lạc và thông tin
về thời kỳ đó rất thiếu tin cậy. Tuy nhiên, họ xác minh được rằng đúng là có một
đơn vị mang số hiệu như bà nói từng đóng tại Thành Đô. Tuy nhiên, hồ sơ ghi
rằng toàn bộ thành viên của đơn vị đã bị giết.

Nghe những lời đó, tim Văn đau nhói vì tuyệt vọng.

Nhận thấy nỗi buồn trên mặt bà, vị tướng cố an ủi bà. Ông
cam đoan rằng họ sẽ tiếp tục tìm thông tin mới, và họ sẽ tìm trên thực địa được
đến đâu hay đến đấy.

“Tôi không tin rằng bà sẽ ngã lòng,” ông nói. “Không một
người bình thường nào có thể bỏ trọn nửa đời để tìm chồng - chỉ tình yêu đích
thực mới có thể sinh ra nổi một quyết tâm nhường đó.” Những lời của ông khiến
cho Văn ứa lệ. Ông gợi ý rằng Văn và hai người bạn hãy chuyển đến nhà khách của
Bộ chỉ huy quân sự, ở đó sẽ tiện nghi hơn cho họ.

Bất ngờ Văn cảm thấy toàn thân kiệt sức, một cảm giác xưa
nay chưa từng gặp. Chật vật lắm bà mới đứng vững được.

“Bà có sao không?” viên tướng lo âu hỏi.

“Không sao, cám ơn ông,” bà đáp. “Chỉ mệt quá mà thôi.”

“Hãy tin tôi,” vị tướng nói. “Tôi hiểu bà kiệt sức như thế
nào.”

Nhà khách quân đội được trang bị đủ thứ thiết bị hiện đại lạ
lùng. Có máy vô tuyến, ấm điện, toa lét có giật nước và bình nước nóng. Thiên
An Môn đặc biệt lo lắng trước những gì bao quanh họ. Văn có cảm tưởng nếu họ
không được cả người Trung Quốc lẫn người Tây Tạng tiếp đón nồng hậu như thế thì
chắc ông đã không muốn ở lại.

Trong những ngày sau đó, Văn ngồi ngóng đợi tin. Suốt bao
nhiêu năm sống với gia đình Gela và lang thang cùng Zhuoma với Thiên An Môn, bà
đã học được cách từ bỏ lòng mong muốn, để cho cái gì đến thì cứ đến.

Trong khi bà đợi, Thiên An Môn trò chuyện với binh lính
người Tây Tạng đóng quân tại bộ chỉ huy. Họ coi ông là một pho sách sống về
nghề nuôi ngựa và thường đến nhờ ông chỉ bảo cách nuôi dạy ngựa. Một người
trong số họ thậm chí còn mời Thiên An Môn đến thăm cha mẹ anh ta sống ở Lhasa.
Tối hôm đó, khi Thiên An Môn quay về căn nhà khách đã khiến ông kinh ngạc với
những cái máy vô tuyến và ấm điện, ông kể cho Văn nghe về đôi vợ chồng mà ông
vừa gặp, một ngày bình thường của họ ra sao. Buổi sáng họ đến miếu thờ của gia
đình, dâng bơ tươi làm từ sữa bò và nước lên bàn thờ ngoài sân miếu. Rồi họ
trèo lên cái mái bằng của nhà mình,ở đó họ đốt gỗ và cây bách xù thơm đặng dâng
khói cho các thần núi, thần nước, thần nhà, cầu xin các vị phù hộ. Sau đó, họ
cùng hàng xóm đi “kinh hành.” Cư dân Lhasa và khách hành hương từ khắp Tây Tạng
thường vừa đi dọc các tuyến đường linh thiêng vừa lần tràng hạt, tụng kinh.
Vòng tròn ngoài thì họ đi quanh cả thành phố và phải đi vào sáng sớm, vòng tròn
trong thì đi quanh Phật Đường bên trong Đền Jokhang tức Đại Chiêu Tự, một tòa
nhà nguy nga và thiêng liêng khác của Lhasa. Thiên An Môn được biết, chỉ cần
vừa đi vừa tụng niệm suốt một vòng tròn như vậy vài lần là sẽ tích lũy được
nhiều công đức hơn so với tụng kinh ở bất cứ nơi nào khác.

Trong thời gian lưu tại nhà khách, Văn có thêm nhiều cơ hội
để trò chuyện với vị tướng về những gì đã xảy ra với bà. Bà đặc biệt kiên quyết
trong chuyện người ta cần phải cho phép Zhuoma và Thiên An Môn đi cùng bà về
Trung Quốc. Bà giải thích với ông tướng rằng Zhuoma là trưởng tộc một gia đình
Tây Tạng thuộc hàng danh gia vọng tộc. Bà cho ông ta xem một số nữ trang của
Zhuoma để làm chứng cho chuyện bà kể. Vị tướng hứa sẽ làm hết sức để tìm hồ sơ
chứng minh thân thế của Zhuoma. Một chiều nọ, ông đến gặp Văn và Zhuoma, tỏ ra
phấn chấn, nói rằng ông đã tìm được hồ sơ bằng văn bản về gia tộc của Zhuoma.

“Tuy nhiên, e rằng tôi có vài tin xấu,” ông ngập ngừng nói.
“Tôi nghe người ta nói cơ ngơi của họ đã bị đốt trụi từ nhiều năm trước rồi.”

Zhuoma không giải thích với ông rằng bà đã chứng kiến cảnh
nhà mình bị đốt. Văn nhìn bà, nhưng không nói gì. Văn biết rằng ngôi nhà xưa
kia của Zhuoma đã thôi tồn tại đối với bà theo bất cứ nghĩa nào.

Hai ngày sau, vị tướng lại đến tìm họ. Lần này mặt ông rạng
rỡ nụ cười.

“Có vài người ở Bắc Kinh nhớ là đã đọc một báo cáo mô tả cái
chết của Khả Quân đúng như bà kể với tôi,” ông nói. “Một người còn nhớ rằng đâu
như người ta có nhắc tới một người vợ sống ở Tô Châu. Tôi nghĩ chừng đó là đủ
bằng chứng để chúng tôi xác nhận thân thế của bà và cho phép bà đi Bắc Kinh. Ở
đó bà có thể nộp đơn xin tái định cư và xin trợ cấp hưu trí của quân đội. Còn
về Zhuoma, chúng tôi được biết đúng là có một người thừa kế nữ đối với cơ ngơi
của gia tộc bà, và những nữ trang có một không hai của bà chứng minh bà đúng là
người đó.”

Văn và Zhuoma thấy thật hạnh phúc, như thể lần đầu tiên
trong nhiều chục năm qua họ mới được cho biết họ thật sự là ai. Nhưng vẫn có
điều gì đó khiến Văn chưa an tâm.

“Nếu từng có hồ sơ về cái chết của Khả Quân,” bà hỏi, “thì
tại sao giấy báo tử của anh ấy lại không nhắc tới anh ấy đã chết như thế nào,
hoặc không phong cho anh ấy danh hiệu liệt sĩ hy sinh vì cách mạng?”

Vị tướng nhìn bà với vẻ nghiêm nghị. “Điều đó thì tôi không
trả lời được,” ông nói.

Trong vòng một tuần, Văn, Zhuoma và Thiên An Môn đã ngồi
trên máy bay đi Bắc Kinh, với đầy đủ giấy tờ mà họ cần. Zhuoma được cấp một thư
giới thiệu chính thức cho phép bà tìm một chân dạy học ở Đại học Dân tộc tại
Bắc Kinh nếu bà muốn. Thiên An Môn thì có một văn bản nói rằng ông đang thăm
chính thức Trung Quốc và sau đó sẽ trở về tu viện.

Văn không nói một lời nào trong suốt chuyến bay. Quãng đời bà ở Tây Tạng, hết cảnh này đến cảnh khác, lướt qua trước mắt bà. Những gương mặt của gia đình Gela tràn ngập tâm trí bà. Bà lấy bức ảnh Khả Quân nhàu nát cùng cuốn nhật ký cũ mòn ra, tuôn lên đó một dòng suối lệ lặng lẽ. Khả Quân sẽ chẳng bao giờ gặp lại vợ mình, khuôn mặt vợ anh giờ đây hằn sâu linh hồn của Tây Tạng. Anh sẽ ở lại vĩnh viễn trên vùng cao nguyên đó, dưới trời xanh mây trắng.

Tim bà đầy hồi hộp. Cha mẹ bà có còn sống không? Chị bà nay ở đâu? Liệu gia đình bà có nhận ra bà không?

Bà lấy con sếu giấy đã bao nhiêu năm bị giam cầm trong cuốn sổ của bà, mở ra rồi nhẹ nhàng vuốt cho phẳng bức thư của chị bà. Thời gian đã xóa mờ mọi dấu vết những dòng chữ. Nửa cuốn sách tiểu luận của bà nghe thật nặng như thể trĩu xuống vì nước và đất của vùng cao nguyên.

Vẫn choàng tỉnh khỏi những ký ức khi giọng một đứa trẻ hỏi mẹ nó bằng tiếng Trung Quốc: “Mẹ ơi, sao cái bà Tây Tạng này hôi thế?”

“Suỵt, đừng thô lỗ thế,” mẹ nó nói. “Người Trung Quốc với người Tây Tạng có lối sống rất khác nhau. Con không nên nói năng khinh suất như vậy.”

Văn nhìn xuống bộ quần áo xác xơ bạc phếch của mình. Nếu bà không còn là Trung Quốc nữa thì bà là ai? Nhưng có lẽ câu hỏi đó không quan trọng. Điều quan trọng là linh hồn bà đã được sinh ra. Vương Lượng nói đúng: chỉ sống được thôi cũng đã là chiến thắng rồi.

Không thể nào so sánh giữa toa hạng nhất có giường ngủ của Văn trên đường từ Bắc Kinh về Tô Châu với đoàn tàu lèn chặt như cá mòi đã đưa bà đến Thành Đô hàng bao nhiêu năm trước. Cũng giống như sự khác biệt giữa thiên đường với địa ngục vậy, không thể nào nói một mạch mà xong được. Trái ngược với cao nguyên Tây Tạng, những quang cảnh lướt qua cửa sổ phòng bà đầy ắp sự sống. Bà ngồi ngắm những căn nhà xây gạch đỏ lợp ngói xám của Bắc Kinh nhường chỗ cho những căn nhà màu trắng quen thuộc của vùng châu thổ sông Dương Tử.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3