Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 5) - Chương 30 - 31
30
“Jack!” Olivia ngồi cuối giường phàn nàn. “Khi nào thì
anh định dùng cái máy tập chạy đó hả?”. Chị không thích phải chì chiết,
nhưng vì anh cứ chần chừ kể từ buổi sáng Giáng sinh, khi chị mở quà của
mình ra. Mặc dù anh cố gắng thể hiện vẻ hài lòng nhưng chị thấy sự thất
vọng trong mắt anh. “Anh sẽ”, anh đáp, anh bước ra khỏi phòng tắm trong
bộ đồ lót. “Sớm thôi”.
“Tuần trước anh đã hứa rồi mà”.
“Anh
biết, anh biết”. Anh mang vẻ mặt cam chịu của một người đàn ông bị kết
án trên đường từ phòng xét xử vào nhà giam. Mặt anh sáng lên. “Anh không
có gì để mặc”.
“Jack, anh thừa biết em đã mua cho anh một đôi áo len rồi mà. Đừng có nói với em là anh quên đấy nhé”.
“Anh không quên”, anh thừa nhận, “nhưng anh thấy không thoải mái khi mặc quần áo mới”.
“Jack Griffin, đó là lý do kỳ quặc nhất em từng nghe đấy. Đủ rồi. Tập luyện đi”.
“Bây giờ hả?”, anh há hốc miệng.
“Bây giờ!”.
“Nhưng anh còn phải đi làm”.
“Anh cứ đi bộ ít nhất một dặm trước đã”.
“Một dặm hả?”.
“Đi làm về thì anh đã quá mệt rồi”.
“Có
thể là anh không quá mệt”, anh nói tràn đầy hy vọng, và nhìn khá kỳ cục
khi anh bĩu môi đứng trong phòng ngủ mà chỉ mặc đồ lót và đi tất sẫm
màu.
“Anh sẽ đi bộ, Jack ạ”.
Olvia bỏ ngoài tai các lý do
của anh. Tuần tiếp sau lễ Giáng sinh thì quá gấp. Jack nói như vậy nhưng
ngay sau Năm mới thì mỗi buổi sáng anh sẽ luyện tập với cái máy. Olivia
đã ngu ngốc tin lời anh. Bây giờ đã gần đến tuần thứ hai của tháng Một
mà anh thậm chí vẫn chưa thèm cắm điện cho nó. Olivia không rời khỏi
phòng trước khi anh bắt đầu đi bộ.
“Em thực sự không thấy khoẻ lắm”. Chị đảo mắt.
Càu
nhàu trong hơi thở, Jack mở ngăn kéo dưới đáy tủ lôi bộ quần áo thun
màu xám ra. “Anh hy vọng em thấy vui”, anh lẩm bẩm khi trở lại phòng
tắm.
“Anh sẽ thấy khoẻ hơn khi tập xong”.
“Nếu anh còn sống”.
“Vui
đấy”, chị đốp lại. “Anh hãy bắt đầu đi chậm và tăng dần tốc độ. Đừng
làm quá đấy”, chị khuyên anh. Anh không thèm nhìn chị nhưng Olivia cảm
thấy hơi có lỗi khi bước theo anh vào phòng tắm.
“Grace và em tuần
nào cũng phàn nàn về lớp aerobics nhưng sau đó cả hai chúng em đều thấy
khoẻ. Anh cũng sẽ như thế. “Nếu em đã nói vậy”. Jack ngồi trên thành
bồn tắm buộc dây giày thể thao.
“Nói cho anh biết”, Olivia nói. “Em sẽ làm bữa sáng cho anh trong khi anh đi bộ”.
Jack nở nụ cười đầu tiên trong buổi sáng ngày hôm đó.
“Thịt lợn hun khói, trứng, hai lát bánh mì. Làm bằng lúa mạch ấy nhé.”, anh bổ sung vì biết chị phản đổi món bánh mì trắng.
“Cháo yến mạch”.
“Cháo yến mạch”, anh nói vọng lại phía sau.
“Với
nho khô, nhưng chỉ khi anh thôi phàn nàn đi”. Tiếng càu nhàu vọng lại,
và dù muốn tỏ ra nghiêm khắc, Olivia vẫn phải bật cười. Anh quá trẻ con
với những chuyện thế này.
“Em gọi điện đến văn phòng giúp anh
nhé?”, anh nói khi trở lại phòng ngủ và nói cho chị cả một danh mục các
chỉ dẫn. Cứ như thể anh sẽ đi xa cả tuần chứ không phải chỉ có một giờ.
Đứng trước chiếc máy chạy bộ, anh nhìn chằm chằm vào nó, như thể đang
tìm kiếm cơ hội cuối cùng trốn tránh việc này.
Một lát sau, có vẻ
anh đã quyết định. Anh cắm dây điện rồi bước lên băng chuyền, cau mày
nhìn bảng hiển thị rồi bắt đầu nhấn các nút.
“Anh không muốn đọc sách hướng dẫn trước à?”, chị gợi ý.
“Anh
phớt lờ chị. Cỗ máy phát ra tiếng kêu vang rền rồi bắt đầu chuyển động,
chút nữa thì ném Jack ngã. Olivia nuốt tiếng cười chực bật ra, biết
rằng anh sẽ không đánh giá cao phản ứng của chị.
Do không có lựa
chọn nào khác với chiếc máy nên anh bắt đầu bước đi. Nhưng sau một vài
phút, anh thở hổn hển, một lần nữa khẳng định sức khoẻ tệ hại của mình.
Olivia muốn bảo anh chậm lại nhưng chị nhận thấy Jack không thể nghe
thấy gì.
Olivia tránh vào trong bếp nhưng vẫn nghe thấy tiếng rền
vang của cỗ máy tập chạy khi chị cho nước vào lò nấu món cháo yến mạch
cho anh. Anh có thể phàn nàn nhưng anh đã ăn hết sạch bát lần trước chị
nấu cho anh.
Tiếp theo, chị với tay lấy điện thoại và gọi cho toà
soạn báo. Khi trợ lý biên tập Steve Fullerton nghe máy, chị đọc thẳng
một mạch những chỉ dẫn Jack đưa cho mình. Lúc này, nước cũng vừa sôi,
chị cho yến mạch vào rồi tắt bếp để ninh chín từ từ.
Chị băn khoăn
không biết Jack thế nào nên qua lại phòng ngủ. Khi vòng qua góc nhà,
chị thấy anh ngừng tập từ lúc nào rồi. Anh chỉ mới tập được mười lăm
phút. Chị hy vọng rồi anh sẽ tăng dần sức chịu đựng của mình. Chị cũng
hy vọng mỗi buổi sáng sẽ không còn là một trận đánh vật như buổi tập hôm
nay.
Bước vào phòng, Olivia thấy Jack đang ngồi trên chiếc máy tập hít thở khó nhọc. Mặt anh tái xám mồ hôi đầm đìa.
“Jack?”.
Chị gọi khẽ và lao về phía anh. “Jack? Jack, anh có sao không?”. Anh áp tay lên tim và lắc đầu...
“Em sẽ gọi 911”.
“Không”, anh thở dốc. “Anh sẽ ổn thôi. Một lúc nữa”.
Olivia không thể liều lĩnh thế. Chị chạy vào bếp vồ lấy điện thoại. Chị bấm vội ba con số.
“911 nghe đây”, một giọng phụ nữ trả lời máy.
“Tôi
là thẩm phán Olivia Lockhart”, chị nói với giọng quyền uy nhất có thể.
“Tôi cần một xe cấp cứu tới số 16 đường Lighthouse. Chồng tôi đang bị
đau tim”. Chị nghe thấy giọng mình hết hoảng nhưng không thể kìm chế
được. Có cảm giác như thể chính trái tim chị có nguy cơ ngừng đập.
“Thẩm phán Lockhart, làm ơn hãy giữ máy”.
“Không,
chồng tôi cần tôi. Hãy nhanh lên! Vì Chúa, làm ơn nhanh lên”. Chị dập
máy, nhớ lại điều mình đã đọc được nhiều tháng trước đây - rằng một viên
aspirin có thể cứu một nạn nhân lên cơn đau tim.
Tay chị run rẩy
khi lấy lọ thuốc aspirin từ tủ bếp và lắc đổ ra lòng bàn tay. Vài viên
thuốc rớt ra và chị ném chỗ thừa xuống sàn trong trạng thái hoảng loạn.
Trông Jack có vẻ tệ khi chị trở lại, nằm sóng soài há miệng đớp đớp không khí.
“Jack,
ôi, Jack”, chị khóc nức nở. Chị cố gắng cho anh nuốt viên aspirin.
Tiếng còi cấp cứu vọng đến từ phía xa và chị lao ra mở cửa trước.
Một
chiếc xe cấp cứu đậu bên cạnh nhà và hai nhân viên cứu thương mang theo
thiết bị của họ lao về phía bậc thềm. Olivia thở phào nhẹ nhõm tới mức
gần như quỵ gối xuống.
Từ lúc đó, các sự kiện cứ nhòa dần trong
đầu chị. Cả hai người đàn ông sơ cứu Jack trong mấy phút đầu. Lúc đó anh
đã bất tỉnh nhân sự và ý nghĩ kinh hoàng thoáng qua đầu chị rằng anh đã
chết như bóp nghẹt chị. Chị không thể thở nổi. Trước khi chị có thể
nhận ra chuyện gì đang diễn ra thì Jack đã được đưa lên băng ca chuyển
tới xe cấp cứu.
“Chúng ta đang mất anh ấy!”, một trong các nhân viên hét lên.
“Không!”. Olivia thét lên khi đứng giữa sân. “Không!”. Chị không thể nhìn nên lấy tay bưng mặt lại. Xe cấp cứu lao đi.
Chị
trở vào trong nhà, tìm thấy chìa khoá xe và thấy mình đang run rẩy.
Trong tình trạng này chị không thể lái xe được. Chị phải ấn máy ba lần
mới gọi được đúng số điện thoại nhà Grace.
“Olivia”, cô bạn thân nhất nói khi nhấc máy trả lời “Chút nữa thì tớ đã ra khỏi cửa rồi. May là cậu gọi được tớ đấy”.
“Jack... đau tim”. Ba từ đó khó nhọc bật ra từ cổ họng khô khốc của chị.
“Cậu đang ở đâu?”.
“Nhà”.
“Năm phút nữa tớ sẽ có mặt”.
Đó
là năm phút dài nhất trong đời Olivia. Tất cả những gì chị có thể nghĩ
đến là ngày đứa con trai Jordan của chị bị chết đuối. Chị nhớ đó là một
buổi chiều tháng Tám tươi đẹp khi phó Cảnh sát trưởng đến nhà. Lúc đầu
chị không tin anh ta - không muốn tin anh ta. Rồi chị muốn chồng về ở
bên mình thật nhanh. Viên cảnh sát đã gọi cho Stan nhưng chồng chị làm
việc ở tận Seattle. Anh phải mất hai giờ mới về được đến nhà. Hai giờ
khủng khiếp như sự thật về cái chết của con trai họ bắt đầu ập đến.
Olivia nhớ lại Justine và James đã đến và ở bên chị thế nào. Ba người
bọn họ đã khóc và ôm chặt lấy nhau. Grace cũng là người Olivia gọi điện
đầu tiên ngày hôm đó. Grace đã đến ngồi với chị và lũ trẻ cho đến khi
Stan về.
Olivia sẽ không bao giờ quên cơn đau thắt trong bụng vào
cái ngày tháng Tám khủng khiếp đó và bây giờ chị lại phải trải qua tất
cả những cảm giác đó. Chị không biết Jack còn sống hay đã chết.
Jack
đã không muốn leo lên cái máy tập đó. Anh đã cố nêu mọi lý do nhưng chị
không thèm nghe. Ôi, không, chị biết rõ nhất và chị không chịu để anh
thôi tập. Sau đó chị nhớ ra rằng anh đã nói là anh không thấy khoẻ lắm.
Chị đã khăng khăng mặc kệ điều đó. Đúng ra, chị đã càu nhàu buộc anh
phải leo lên nó.
Grace đến nơi và ngay khi Olivia nhìn thấy bạn, chị lao qua bãi cỏ, khóc nức lên và gần như cuồng loạn.
“Lên xe đi”, Grace nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện trên đường tới bệnh viện”.
“Tớ… tớ không nghĩ anh ấy sẽ vượt qua được”, chị oà khóc.
“Chúng ta không biết được khi chưa đến đó”.
Người
bạn thân nhất của chị nói có lý, nhưng Olivia sợ phải hy vọng, sợ phải
tin rằng Jack sẽ không sao. Mất đi anh ấy, ngay vừa lúc mới tìm lại được
tình yêu là một việc không thể tưởng tượng nổi. Chắc chắn Chúa trời sẽ
không quá tàn nhẫn với chị.
“Họ đưa anh ấy tới bệnh viện Harrison hả?”. Grace hỏi khi chị vòng cua trên khúc đường quanh co quá tốc độ cho phép.
“Tớ...
không... rõ, phòng khám tư mới, tớ nghĩ vậy”. Đột nhiên chị không biết.
Các nhân viên cấp cứu chắc hẳn đã nói với chị nhưng lúc đó chị không
thể tập trung được.
Đúng như vậy, chiếc xe cấp cứu đang đậu bên ngoài phòng khám mới của vịnh Cedar. Olivia lao vào bên trong tới bàn đón tiếp.
“Chồng tôi ở đây - Jack Griffin”.
“Vâng thưa bà Griffin, bây giờ các bác sĩ đang cấp cứu cho ông ấy. Mời bà ngồi xuống ghế, họ sẽ ra ngay khi có thể”.
“Không”,
Olivia cãi lại. Người phụ nữ này có vẻ không hiểu rằng người đàn ông
phía sau những cánh cửa đóng chặt kia là chồng chị. Những quy định và
luật lệ chết tiệt Jack có thể đang chết và chị là vợ nên có quyền ở bên
anh. Trong tất cả những năm tháng làm thẩm phán toà án dân sự, Olivia
chưa từng dùng vị thế của mình để đạt mục đích cá nhân. Tuy nhiên, trong
trường hợp này chị không thể yên lặng.
“Tôi là thẩm phán. Và tôi cần ở bên chồng tôi”.
“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi không được phép”.
“Cô không hiểu”, chị nói cao giọng và gần như phát điên. “Tôi cần ở bên chồng tôi”.
Grace tiến lên phía bàn đón tiếp và vòng tay ôm lấy Olivia. “Các bác sĩ sẽ ra ngay thôi mà”, chị nói.
Olivia đứng yên tại chỗ. “Tớ muốn ở bên anh ấy”.
“Cậu sẽ được làm thế”, Grace hứa với giọng dịu dàng.
“Anh ấy cần tớ”.
“Ngay
lúc này anh ấy cần các bác sĩ hơn. Sẽ không lâu đâu Olivia”. Grace đưa
chị trở lại khu vực chờ, và chỉ với sự phản đối chiếu lệ, Olivia ngồi
xuống.
Một thế kỷ trôi qua. Hai thế kỷ. Charlotte và Ben xuất hiện.
“Ben
có một máy quét sóng giống như của cảnh sát Charlotte giải thích. “Khi
chúng tôi nghe thấy tiếng người điều vận nói ở số 16 đường Lighthouse,
chúng tôi đoán chắc hẳn là Jack”.
Charlotte ngồi xuống bên chị, Grace ngồi phía bên kia. Mỗi người nắm một tay chị.
Người bác sĩ rốt cuộc cũng đã xuất hiện, Olivia thấy biển ghi tên là bác sĩ Timmons. Anh bước về phía chị.
Chị đứng dậy, chuẩn bị tâm lý cho điều tồi tệ nhất.
Bác sĩ Timmons nở nụ cười trấn an chị. “Chúng tôi đã cứu được ông ấy rồi”.
“Ơn Chúa”. Chị thở phào nhẹ nhõm đến mức suýt nữa khuỵu gối xuống. May là Grace đã đỡ lấy chị.
“Ông ấy là người may mắn. Chỉ cần năm hay mười phút nữa thôi là không còn cứu kịp nữa”.
Olivia trố mắt nhìn chằm chằm vào vị bác sĩ. “Ý anh là gì?”
“Nếu không có phòng khám ở vịnh Cedar này thì chồng bà đã có thể chết trên đường tới bệnh viện”.
“Ôi”. Olivia bắt đầu hiểu được ngụ ý điều anh ta đang nói với chị.
Bác sĩ Timmons nói tiếp. “Chúng ta cần chuyển ông ấy tới bệnh viện Harrison để bác sĩ chuyên khoa tim khám”.
“Dĩ nhiên rồi”.
“Còn một số giấy tờ cần bà ký trước khi chúng tôi làm việc đó”.
Chị
gật đầu và nhớ ra rằng chị đã xấu hổ thế nào khi mẹ mình và Ben cùng
bạn bè họ ở Trung tâm Người cao tuổi bị bắt vì tổ chức một cuộc biểu
tình trái phép đòi xây dựng một cơ sở y tế.
Lúc đó Olivia không biết được rằng một cơ sở y tế trong thị trấn của mẹ mình một ngày kia sẽ cứu sống Jack.
31
Corrie
buồn ngủ cả ngày nhưng không muốn để Roy biết. Có nói với anh lý do vì
sao chị buồn cũng chẳng ích gì. Vào ngày này năm 1975, chị ngồi trong
văn phòng luật sư của cha mình và ký giấy tờ cho đi đứa con của mình.
Những ngày đó chẳng cần được sự cho phép của người cha; nhưng nếu có,
Corrie cũng buộc phải nói dối và giấu tên cha đứa bé. Như thế, chị sẽ bị
mất mặt trước gia đình và người bạn của cha mình, nhưng thà làm thế còn
hơn dính dáng tới Roy.
Corrie vừa cầm cốc cà phê mới rót vừa quan
sát chồng đang phân loại thư từ và hóa đơn. Roy đã quá quen thuộc với
việc vợ hiện diện trong công việc tới mức chẳng để ý mấy khi chị đến
phòng anh. Lần này anh nhìn lên và nhíu mày.
“Em bị cúm à?”, anh hỏi khiến chị ngạc nhiên.
“Không. Sao thế?”.
Anh nhún vai trước câu hỏi của chị. “Trông em nhợt nhạt lắm”.
“Không hề”.
“Em cũng đột nhiên trở nên im lặng. Như thế chẳng giống em chút nào”. Anh lại tiếp tục.
“Anh hãy cầu nguyện đi”.
Anh nháy mắt cười. “Có lẽ anh nên như vậy. Nhưng nếu em không khỏe, em về nhà đi. Hôm nay quả là một ngày trôi qua chậm chạp”.
“Có
lẽ em sẽ về”, chị nói, và nghĩ đến việc đó lúc quay lại phòng làm việc
phía ngoài. Roy được thuê để kiểm tra thông tin cần thiết cho một người
bạn ở Seattle, Joe Landry. Gần đây, Joe có thuê một trợ lý mới và nghi
ngờ rằng cô ta khai khống quá trình làm việc trước đây của mình. Anh ta
nhờ Roy kiểm tra và anh đã làm việc này trong vài ngày qua. Những việc
nhỏ nhặt này giúp họ kiếm cơm hàng ngày.
Sau nửa tiếng, Roy ra
khỏi văn phòng và ngồi ở góc bàn của chị. “Em vẫn ở đây à? Corrie, nếu
em thấy không khỏe thì về nhà đi”. Thấy chị chỉ nhún vai, anh hỏi, “gần
đây em có nói chuyện với Linnette không?”.
“Không hẳn”. Corrie
tưởng rằng nếu con gái sống ở vịnh Cedar, hai mẹ con họ sẽ có nhiều thời
gian bên nhau hơn. Nhưng đâu phải. Cả hai đều có cuộc sống bận rộn và
có khi cả tuần họ chẳng gặp nhau hay nói chuyện với nhau. Có vẻ câu trả
lời khiến chồng chị ngạc nhiên. “Con bé mới ghé qua và có vài câu hỏi
liên quan tới chuyện hẹn hò. Về cái anh chàng nuôi ngựa mà em rất thích
đó”.
“Anh khuyên con chuyện tình cảm à?”. Đáng sợ thật.
Roy xù lông lên. “Thực sự anh không muốn nhưng con nó cần giúp đỡ”. “Anh chẳng kể gì về chuyện này”.
Roy xoa mặt. “Đến giờ anh mới nhớ ra. Có thể em cần nói chuyện với con”.
Corrie
công nhận đúng là như vậy và chị với chiếc điện thoại. Chị xem đồng hồ
và hy vọng rằng mình không đánh thức Linnette dậy. Vì con bé đổi ca ở
phòng khám nên khó mà nhớ được giờ làm.
“Sao hôm nay em không rủ con đi ăn trưa? Hãy làm cái việc rất đáng yêu giữa mẹ và con gái đi”.
Corrie
bỏ tay khỏi điện thoại. Có vẻ như chồng chị muốn chị rời khỏi văn
phòng. Đầu tiên, anh giục chị về nhà. Còn bây giờ lại muốn chị đi ăn
trưa. Chắc hẳn có chuyện gì đó và chị rất muốn biết.
Chị khoanh tay nhìn anh chăm chú. “Được rồi, có chuyện gì vậy?”.
Vẻ ngây thơ đến kinh ngạc của anh có thể đánh lừa bất kỳ ai, nhưng chị đã quá hiểu vì từng làm vợ người đàn ông này gần 27 năm.
“Không có gì!”, anh tuyên bố, rõ ràng là anh sốc khi chị có ý như vậy.
“Anh nên kể cho em nghe thì hơn, Roy McAfee”.
“Sao em lại nghĩ là anh có chuyện gì?”.
“Anh sẽ không nói ra. Bởi vì em biết anh là người thế nào”.
Anh nhíu mày rồi lắc đầu. “Em là người phụ nữ đa nghi”.
Chị chẳng tranh cãi với anh. “Lấy anh nên em mới sinh ra thế chứ”.
Roy rời khỏi mép bàn của chị rồi thong thả đi về phòng làm việc như thể trên đời này chẳng có mối bận tâm nào hết.
Corrie theo sau anh và ngồi vào chiếc ghế thường dùng cho khách. “Anh có nhớ tấm thiệp đầu tiên viết gì không?”
Roy
chẳng buồn lôi nó ra. Rõ ràng anh đã đọc rất nhiều lần nên mới thuộc
làu như thế. “AI CŨNG CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ PHẢI ÂN HẬN. CÓ ĐIỀU GÌ ĐÃ LÀM VÀ
ƯỚC MÌNH CÓ THỂ LÀM LẠI KHÔNG. HÃY NGHĨ VỀ ĐIỀU ĐÓ”.
“Mấy tuần vừa
qua cả hai chúng ta đều suy nghĩ rất nhiều”, chị nhẹ nhàng bảo anh.
Trái tim chị ngập tràn tình yêu và, đúng, cả sự hối tiếc nữa. Dù chưa
từng một lần bế, nhưng chị yêu con bé. Khi ký những giấy tờ cho con đi,
chị cảm thấy như mình đang cho đi một phần tâm hồn. Giá chị quyết định
tự mình nuôi con bé, cha mẹ chị sẽ giúp đỡ chị. Nhưng dù lúc đó còn quá
trẻ, Corrie vẫn hiểu rằng như thế là không công bằng với họ, không công
bằng với chị và đứa bé. Một gia đình yêu thương đang mong chờ đón đứa
trẻ và dù lòng đau như cắt, chị vẫn phải ký giấy tờ cho con đi.
“Anh
muốn nói với em rằng giá như anh biết em có thai, anh sẽ không tiếp tục
và làm cái việc kinh khủng đó. Nhưng chỉ là anh không biết...”.
Corrie cũng vậy, đó là nguyên nhân chính khiến chị không thông báo cho anh.
“Em nghĩ đã đến lúc chúng ta nên trung thực với nhau”, chị bảo anh.
Anh
nhìn chị chằm chằm. “Anh đã bao giờ không trung thực với em đâu”. “Có
lẽ chỉ là không cởi mở, nhưng rõ ràng là chiều nay anh muốn xua em ra
khỏi văn phòng và em muốn biết tại sao”.
Roy thở dài. “Được rồi”.
Anh nói không ngần ngại. Anh muốn gọi vài cuộc điện thoại và tìm ra anh
có thể làm gì cho... con gái chúng ta”.
“Mà không cho em biết?”.
Anh lắc đầu. “Anh sẽ cho em biết những gì anh tìm ra”.
“Vào phút cuối”, chị đáp lại.
Anh ngập ngừng rồi thú nhận. “Vào phút cuối”, anh nhắc lại.
“Đó
là những gì em nghĩ. Nhưng tại sao? Anh có nghĩ rằng tinh thần em không
ổn định không? Anh có cho rằng em không thể xử lý bất kỳ thông tin nào
anh đưa ra không?”.
“Không”, anh từ chối thẳng thừng. “Thật kỳ cục”.
“Vậy thì lý do gì có thể khiến anh giấu em?”.
“Chúng ta có một cô con gái ba mươi tuổi”, anh trầm ngâm. “Một đứa con gái mà chúng ta chẳng hề biết gì về nó”.
Chị phải kiềm chế để không nhắc anh rằng, đến tận gần đây, họ cũng chẳng hề biết đứa con đầu lòng là con gái.
“Trong
suốt những năm qua, anh đã chống chọi để gạt những suy nghĩ về đứa trẻ
ra khỏi đầu mình. Anh cảm thấy thoải mái với việc đó. Anh không muốn
biết - và đã làm đúng như vậy. Chúng ta đã thề là không bao giờ nhắc lại
chuyện này, nhưng giờ đây... giờ đây con bé lại xuất hiện và nó không
muốn bị chúng ta lờ đi”.
Rõ ràng Corrie rũng đau đớn. “Anh muốn tự mình tìm ra con bé, tự liên lạc rồi thông báo lại cho em”.
“Anh cần tìm ra con bé”, anh đính chính lại. “Anh đã tìm trong danh sách đăng ký nhận con nuôi và điền tên chúng ta vào”.
“Sao lại loại em ra?” Corrie bật ra.
“Anh sẽ giải thích cho em ngay. Như anh đã nói, anh vào mạng Internet”.
Lúc này chị cũng thú nhận. “Em cũng làm thế”.
Ánh mắt hai vợ chồng gặp nhau. “Con bé chưa đăng ký”.
Corrie
biết điều đó. Chị không hiểu tại sao. Bằng cách nào đó, con gái chị có
thể tìm ra họ mà không thông qua một tổ chức cho nhận con nuôi nào. Và
rồi…
“Vì thế anh mới để em đứng ngoài cuộc”, Corrie lẩm bẩm. “Vì anh không biết chắc động cơ nào khiến con bé làm thế”.
Roy
gật đầu. “Nếu con bé muốn chúng ta tìm ra, nó đã đăng ký. Đằng này nó
lại không đăng ký. Điều này khiến anh nghĩ là không phải ngẫu nhiên. Con
bé đã tìm ra anh, nhưng lại không muốn chúng ta tìm ra nó. Con bé cố
tình gửi những tấm bưu thiếp nặc danh, gửi hoa đến. Con bé muốn làm anh
ám ảnh. Đây là một trò đùa của nó và vì lý do nào đó, con bé thấy anh có
lỗi nhiều hơn em”.
“Em không biết tại sao”, Corrie nói ra suy
nghĩ của mình. “Nhưng em nghĩ có thể anh đúng”. Chồng chị luôn thận
trọng và có lẽ quan trọng hơn cả là nghi. Anh xem xét mọi góc độ, mô tả
từng chi tiết một cách có phương pháp. Cách anh làm khiến chị nghĩ tới
những người giải câu đố, can thận nghiên cứu từng đầu mối một.
“Luật nhận con nuôi ở California khác ở Washington”, Roy nói thêm. “Anh đang nghĩ...”.
“California?” Corrie ngắt lời.
Ngay
lập tức Roy thể hiện vẻ bực bội trên mặt - anh đã nói nhiều hơn anh
muốn. “Ừ, California. Đó là nơi các thủ tục cho và nhận con nuôi cuối
cùng diễn ra”.
Lúc ký tên, Corrie không để ý nhà con bé sẽ ở đâu. Có lẽ luật sư có nói với chị nhưng chị không nhớ.
“Em cũng không để ý đến ngày tháng, đúng không?”.
“Đúng. Tại sao phải thế?”. Chị nuốt nước bọt và lắc đầu. “Chẳng có lý do gì hết”.
“Corrie?”.
Chị nhìn xuống, cố kiềm chế cảm xúc và chẳng muốn nói gì. “Anh đã sai vì không nói với em những gì anh tìm ra”.
“Ý
anh là còn nhiều hơn nữa à?”, chị ngắt lời chồng. Chị cảm thấy giận dữ
khi Roy tiến hành điều tra một mình và gạt chị ra ngoài. Thì đúng là chị
cũng có lỗi. Nhưng chị có lý do chính đáng. Roy đã bảo anh không muốn
biết, anh từ chối bàn về chủ đề này, vì thế nên chị phải tự mình tìm
hiểu.
“Không, anh chẳng tìm thấy gì khác. Anh đã gặp trở ngại lớn
trong việc tìm hiểu hồ sơ bang California. Chỉ Alabama, Alaska, Kansas
và Oregon là “Những bang có hồ sơ mở”. Lý do anh có thể tìm ra nhiều là
vì anh thông qua một người bạn cũ làm cho chính quyền bang California”.
Anh nheo mắt nhìn Corrie. “Sao em lại phát hiện ra là chúng ta có một đứa con gái?”.
Chị
nhìn xuống hai bàn tay đang gập lại. “Nhật ký của mẹ em. Em đã có cuốn
nhật ký đó và em tra ngày tháng. Mẹ em biết. Mẹ em chưa bao giờ nói một
lời nào với em, nhưng bà biết là chúng ta đã có một đứa con gái”.
“Em yêu, chúng ta sẽ tìm ra con bé và khi tìm ra, chúng ta sẽ giải thích mọi chuyện”.
Corrie chỉ có thể hy vọng con bé biết rằng chị đã và vẫn luôn yêu con bé mặc dù chị đã đẩy nó ra khỏi cuộc đời họ.