Lê Vân - Yêu và sống - Lời mở đầu (phần 2)
Những thiên tài thường là những người không ai biết họ là ai
cả. Có không ít những diễn viên, ca sĩ khi ra đường đã tập trung sự chú
ý của mọi người bằng cách bôi son, trét phấn vào cho nhiều, ăn mặc thì
lòe loẹt khác thường. Hôm nay thì người này đưa bằng loại xe này, ngày
mai thì người kia rước bằng loại xe khác. Rồi họ vào các nhà hàng ăn
uống nhậu nhẹt… Đối với em, những người trác táng đó, xin lỗi chị, họ
chỉ là loại “diễn viên ba xu” mà thôi. Chính họ là những con sâu mọt và
gây nên những ấn tượng không tốt, những điều tiếng không hay mà quần
chúng đã “dành” cho giới nghệ sĩ.
Còn với chị, em đã yêu
chị ở cái vẻ bình dị chân chất của chị (chứ không phải của nhân vật) qua
hai phim em đã xem. Chính sự bình dị đó cộng với tài diễn xuất độc đáo
của chị đã cảm hóa được em. Đã yêu mến và kính phục chị qua các hoạt
động nghệ thuật của chị, em lại càng yêu mến chị hơn khi được nhìn thấy
chị ngoài đời, chị vẫn mang cái vẻ bình dị đáng yêu ấy. Càng yêu chị, em
càng muốn biết rõ về chị, về đời sống của chị và gia đình chị. Em đã
tìm hiểu về chị rất cặn kẽ qua báo chí. Nhờ vậy em được biết chị sống
trong một gia đình rất tuyệt vời. Em còn biết là trong các giờ rỗi, chị
nhận đồ gia công về để làm thêm giúp đỡ gia đình.
Em
biết, mỗi buổi sáng, chị điểm tâm bằng thức gì trước khi đến sàn múa, và
ngoài ra, chị còn là một “tay đầu bếp” chính của gia đình nữa. Bấy
nhiêu thôi cũng đủ để em biết rõ về đời sống giản dị bình thường của
chị.
Chị Vân ạ, ngoài tình yêu và lòng mến phục dành cho
chị, ở em còn có một sự kính trọng. Em kính trọng những phẩm chất mà chị
mang trong người để đạt đến mức hoàn thiện của một người nghệ sĩ chân
chính, những phẩm chất mà những “diễn viên ba xu” ấy không bao giờ có
được. Chị là một con người bình thường nhưng chẳng tầm thường tí nao cả.
Chị
biết không, vì quá yêu chị nên em đã đem lòng ghen tị với bạn bè, với
những đồng nghiệp của chị, với những người làm phim, các đạo diễn, và
thậm chí cả với những người thân, người ruột thịt của chị nữa kia. Bởi
vì họ được gặp tiếp xúc với chị hàng ngày. Còn em, tại sao em không có
được cái diễm phúc như họ dù chỉ một lần để được nghe thấy tiếng nói của
chị? Cũng vì yêu chị cho nên hiện giờ trong các ngăn tủ của em có không
biết bao nhiêu là các bài báo nói về chị, phỏng vấn chị, từ các tạp chí
“Tổ Quốc”, “Điện ảnh Việt Nam”, “Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh”, “Điểm
phim” cho đến các loại báo tờ như “Văn hoá nghệ thuật”, “Tiền phong”,
“Nhân dân”, “Quân đội”, “Hà Nội mới”, v.v…
Trong đó em
thích nhất bài trả lời phỏng vấn rất sâu sắc và khiêm tốn của chị mang
tựa đề “Hãy giữ lại những gì cần giữ lại ở tạp chí “Điện ảnh thành phố
Hồ Chí Minh”.
Một hôm đi chợ, tình cờ em thấy một gói
hàng của một bà bán hàng gói bằng tờ báo trên đó có hình của chị. Lập
tức, em chạy đi mua một tờ báo cũ vào và xin bà ta đổi cho em tờ báo đó.
Rồi em quay về ủi (là) thẳng cất vào ngăn tủ. Những tấm hình của chị em
hiện đang có, em không thể nào đếm hết được Em chỉ nhớ một tấm hình
đáng yêu nhất là tấm hình chị chụp dưới tháp Eiffel, Paris, chị mặc
chiếc áo có hai tay dài màu đen, thân màu trắng có chấm hột. Trước đấy,
khi chưa biết chị em cũng rất thích nữ diễn viên balet kiêm điện anh của
Liên Xô Galina Beliaieva, ai ngờ đó cũng là người mà chị yêu thích. Một
sự trùng hợp hết sức thú vị. Yêu chị nên em yêu những gì chị lao động
tạo nên, yêu những gì chị yêu thích. Em đã vui mừng đến tột đỉnh khi
biết tin chị đạt được giải “Diễn viên nữ xuất sắc nhất” trong Liên hoan
phim Việt Nam lần thứ 7 và chị được các nhà điện ảnh nước ngoài khen
ngợi khi họ xem bộ phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” (tại Pháp và Mỹ).
Cách
đây 2 tuần, em xem phim “Toạ độ chết”, lại cũng cái vẻ bình dị ấy của
chị. Sao chị đóng toàn những vai buồn quá vậy Vai nào cũng là một người
vơ, một người mẹ đau khổ. Ở phim này, chị nói rằng, chị đóng một vai
phụ, chắc có lẽ là chị quá khiêm tốn đấy, chứ em thấy chẳng phụ tí nào
cả.
Vì phim này không có nhân vật chính, nên về phía Việt
Nam, chị là chính rồi chứ còn gì. À, chị cũng hay đóng chung với anh
Đặng Việt Bảo nhỉ. Chị lại cùng kéo cờ khai mạc Liên hoan phim với anh
ấy nữa.
Trong một bài báo viết về chị có đoạn: “Người ta
đặt cho Lê Vân rất nhiều câu hỏi, vì sao một người nhỏ, lớn sống ở Hà
Nội, chưa chồng con lại sống thật sinh động cuộc sống của phụ nữ vùng
quê như vậy? Đó là do tài năng thu nhận cuộc sống của người diễn viên.
Lê Vân rất thông minh trong việc nắm bắt những cái cơ bản cần thiết của
nhân vật. Khả năng tư duy cộng với lòng yêu nghề chân thành trong sáng,
đã giúp Lê Vân liên tiếp có được những thành đạt như vừa qua”. Đó cũng
là ý kiến của em.
Bây giờ cho phép em được nói về những
người thân của chị, những người mà đối với em cũng không kém phần yêu
mến và kính trọng. Trước tiên, em xin nói về bác trai, bố của chị: em đã
được xem bác đóng rất nhiều vai (qua truyền hình), có lẽ bắt đầu từ vở
kịch “Hoàng Lang”. Hồi cuối năm 85 hoặc đầu năm 86 gì đó, bác đã cùng
đoàn kịch nói Trung ương vào Đà Nẵng diễn vở “Nhân danh công lý”, bác đã
làm em sửng sốt trong vai Tảo sẹo. Bác diễn vai này hay quá. Một diễn
viên trẻ tuổi có tài đến mấy cũng không thể diễn như bác được sau đó mấy
hôm, em nhìn thấy bác đứng ở ngã tư gần nhà hát, bác đang đợi ai đấy.
Bác mặc quần Jeans xanh và áo sơ mi trắng. Em đi vòng ra phía sau để dễ
dàng nhìn bác, em nhìn bác rất lâu. Trông bác vẫn còn “phong độ” lắm.
Bất chợt bác quay lại, bắt gặp cái nhìn của em, bác mỉm cười với em và
em cũng cười đáp lại nhưng hơi lúng túng. Lúc đó em chỉ muốn chạy lại
hỏi thăm bác về chị, nhưng không hiểu vì sao chân em cứ như là bị đóng
đinh. Gần đây, vào cuối tháng bảy, đầu tháng tám, bác lại vào Đà Nẵng,
cũng vẫn diễn vở “Nhân danh công lý”. và thêm vở “Người cha thô bạo”,
nhưng trong thời gian này em đang ở Sài Gòn. Khi về biết tin này em rất
tiếc. Khoảng một tháng sau, em được xem “Người cha thô bạo” ở truyền
hình. Mỗi lần bác xuất hiện với điệu bộ hai tay đút túi quần, cổ rụt
xuống, hai vai nhô lên, em không thể nhịn được cười. Và cách đây mẩy
hôm, em lại xem bác trong một vở kịch ngắn về kế hoạch sinh đẻ, chị vợ
đang trên bàn sinh kêu rên “chồng ơi là chồng”. Lúc đó liền chiếu qua
cảnh anh chồng đang say rượu, rầu rĩ, buồn bã vì quá đông con (vai này
do bác đóng, em lại một lần nữa cười đến vỡ bụng).
Bác
gái cũng xuất hiện rất nhiều trong các vở kịch ngắn, nhưng trước đây em
chưa biết bác là mẹ của chị. Gần đây em chỉ nhớ bác qua các vớ “Chập
cheng” trong vai bà lên đồng, “Đường anh đã chọn” vai người mẹ… Còn chị
Lê Khanh, em đã xem chị ấy đóng cùng bác gái trong vở “Nỗi đau ngọt
ngào” của Ấn Độ (có chú Đức Trung đóng vai cha và anh Anh Dũng). Không
biết có phải chị ấy đã xuất hiện trong vở “Ngày 10/10/54” không? Và
không biết có phải chị ấy đã đóng vai Juliette cùng với chú Đức Trung
(Romeo) khi mà đoàn kịch Nhà hát tuổi trẻ về Đà Nẵng cách đây hơn 1 năm
không? Bởi vì lúc đó em chưa biết chị ấy là Lê Khanh.
Qua
báo chí, em cũng biết chị Lê Khanh đã đóng trong các vở “Đỉnh cao mơ
ước” và “Chim sơn ca”, nhưng em chưa được xem. Còn chị Lê Vi, em chỉ
biết chị dang đi theo con đường của chị Vân, chứ em chưa được xem chị
diễn, vì chị còn đang học. Và em biết cả cậu Lê Chúc của chị nữa đấy.
Vậy
là hiện giờ, em đang giữ một tấm hình của bác trai (hình in trong báo),
một tấm hình của cậu Lê Chúc, một tấm hình bác gái chụp chung với ba
chị, trong này, cả ba chị đều giống mẹ như đúc. Và bốn tấm hình của chị
Khanh, hai tấm hình chị Vi, mặc dầu ở hai tấm này, người ta đều ghi: học
sinh trường múa Trung ương nhưng em vẫn nhận ra chị Vi ngay. Còn hình
chị Vân thì nhiều quá em không đếm hết. Có một điều em nhận thấy ở chị
Vân và chị Khanh là: Cả hai chị đều có một vẻ đẹp thánh thiện, cả hai
chị đều giống Juliette. Có lẽ vì vậy mà đạo diễn đã chọn chị Khanh thể
hiện nhân vật Juliette và Jand'A.
Gia đình chị thật là
hạnh phúc, em rất muốn được sống trong một gia đình như vậy. Em đã đặt
tên cho gia đình chị là một “Gia đình nghệ sĩ chân chính”, một “Tổ ấm
tài năng và hạnh phúc”.
Chị Vân yêu mến!
Đối
với chị, có thể đây chỉ là một bức thư “tỏ tình” hết sức vụng về của
một cô gái 18 tuổi. Còn với em, toàn bộ bức thư này là một sự thật, là
tất cả những tình cảm bấy lâu nay em cứ bị dồn nén mãi cho đến bây giờ
mới được bộc lộ. Một sự thật em sẽ mang theo suốt cuộc đời mình. Chị
biết không, các anh chị của em cũng rất mến mộ tài năng của chị và những
người trong gia đình chị, nhưng họ không có “cuồng nhiệt” như em. Phải!
Em cuồng nhiệt bởi vì ở em không chỉ có lòng mến mộ, mà em còn yêu chị
nữa, em yêu chị một cách say đắm. Nói vậy chắc cũng đủ để chị hiểu lòng
em. Bây giờ, cho phép em dừng bút. Em rất muốn biết nhà chị ở phố nào?
Để khi nào có dịp ra Hà Nội em sẽ tìm đến. Hoặc khi nào chị vào Đà Nẵng,
em cũng sẽ tìm đến chị. Lần này, em sẽ dẹp bỏ tất cả mặc cảm để tìm đến
chị.
Nhất định em sẽ tìm đến chị! Chị có cho phép em làm
điều đó không? Chị có sẵn sàng tiếp đón em không? Xin chị hãy nói với
bác trai và chị Khanh rằng, em cũng sẽ tìm đến bác và chị Khanh nếu như
một trong hai người có dịp vào Đà Nẵng.
Chị Vân ạ, không
hiểu sao em bỗng có một linh tính và hi vọng là một ngày nào đó em sẽ
nhận được thư của chị, em sẽ được đọc những dòng chữ thân yêu mà em đang
khao khát. Đó cũng là niềm hạnh phúc lớn lao đối với em. Nếu như niềm
hi vọng đó sẽ trở thành nỗi tuyệt vọng thì… chắc là em sẽ buồn lắm đấy!
Nhưng không sao. Dù sao đi nữa chị cũng vẫn là “Lê Vân của em”, chị vẫn
là thần tượng không bao giờ sụp đổ trong em. Dù sao đi nữa, em cũng vẫn
giữ mãi những ấn tượng tốt về chị, em vẫn luôn dành những tình cảm tốt
đẹp nhất cho chị, em vẫn trân trọng chúng như trân trọng những gì thiêng
liêng nhất của đời em. Chắc chị biết nữ nghệ sĩ Mireille Mathieu? Người
ta gọi bà ấy là “Người phụ nữ tượng trưng cho nước Pháp”. Còn em, nếu
sau này có ai hỏi em, thì em sẽ nói rằng: “Lê Vân, chị ấy là người phụ
nữ tượng trưng cho nước Việt”
Cuối thư cho em gởi lời chúc đến hai bác và các chị.
Em chúc chị luôn đạt đến những đỉnh cao vinh quang của cả hai lãnh vực nghệ thuật mà chị đang cống hiến cả cuộc đời.
Hôn chị rất nhiều
Em, Tố Nguyệt
Em
đã hôn lên những tấm hình của chị nhiều rồi. Và giờ đây em cũng đã hôn
lên những trang giấy này, những nơi mà chị sẽ đặt tay lên cầm lấy bức
thư.
***
Tôi nhận được lá thư trên cách đây vừa chẵn
hai mươi năm, một bức thư đặc biệt. Trong thư, Nguyệt đã thật vô tư, hào
phóng và chân tình trao cho tôi mối tình yêu thánh thiện, ngây thơ.
Suốt chín trang đầu, tôi ngỡ đó là bức thư của một chàng trai trẻ đang
yêu, mãi đến trang thứ mười, như Nguyệt tự nhận “… đây chỉ là bức thư
“tỏ tình” hết sức vụng về của một cô gái mười tám tuổi đang yêu một cách
đắm say cuồng nhiệt” tôi mới vỡ lẽ, thì ra em là gái.
Trong thời
gian làm diễn viên, tôi đã nhận được rất nhiều thư của người hâm mộ, mà
chưa một lần trả lời. Tôi tâm niệm rằng, tôi sẽ trả lời bằng những vai
diễn. Bỗng một ngày, ngộ ra, hình như tôi chưa trả lời một ai, hình như
tôi đang mắc nợ một ai… Bao nhiêu thư đã đến, đã thất lạc. Lạ lùng sao
chỉ còn lại mỗi thư của Nguyệt. Bức thư dài hơn mười trang giấy đặc kín
chữ. Nét chữ mực tím cứng cáp, nghiêm trang. Đọc lại, tôi phát hiện ra,
tôi đã là một kẻ bạc bẽo làm sao!
Giờ cô bé ấy ở đâu, người đã cho tôi ngần ấy tình thương mến? Tôi chưa bao giờ gặp cô và có thể chẳng bao giờ gặp cả.
Tôi
đã tự bỏ mất cơ hội đáp lại tình cảm của một người chân thành yêu quý
mình vì những thứ khiến giờ đây tâm hồn tôi trở nên nặng trĩu. Hai mươi
năm có thể chỉ là một khoảnh khắc với những người may mắn và hạnh phúc.
Còn với tôi, hai mươi năm là một cuộc vật lộn với cuộc đời và với chính
mình chỉ để không bị biến thành một người khác. Giờ đây đọc lại lá thư
của cô bé ngày ấy, tôi bỗng thấy thương xót cho em vô cùng. Có biết bao
nhiêu điều xảy ra với tôi mà em - một tâm hồn trong trắng vô ngần -
không đáng phải bị nghe kể lại. Chính bản thân tôi cũng từng chôn chặt
chúng xuống tận đáy lòng và hy vọng sẽ không bao giờ phải đối mặt với
nó. Nhưng càng ngày tôi càng bị đẩy đến trước một sự thật không thể lẩn
tránh: có những điều sẽ đến lúc nào đó một mình tôi không đủ sức đem
nổi. Và khi đó không biết điều khủng khiếp nào sẽ xảy ra với tôi.
Nhưng
ngay cả điều khủng khiếp nhất là tôi gục ngã trong cảm giác bị trừng
phạt thì cũng không kinh sợ bằng việc tôi dung túng cho sự dối trá. Có
những sự thật, những uẩn khúc cần phải được nói ra. Chừng nào nó còn
chưa được nói ra, chừng đó tôi còn sống trong cảm giác tội lỗi mà tôi
thì không thể chịu nổi điều đó. Thế là tôi có nhu cầu phải kể hết đời
mình, không giấu giếm bất cứ điều gì, ngay cả những điều mà người ta có
quyền giữ im lặng, với một người nào đó. Ngay lập tức tôi nghĩ đến cô bé
hâm mộ mình ngày xưa mà tôi đã đối xử thật tệ bạc.
Em xứng đáng
được nghe tôi tự thú, thay cho một lời phúc đáp muộn màng, để rồi sau đó
tùy em phán xét. Nhưng may thay có một người đã linh cảm thấy nỗi đau
vò xé ấy trong tâm hồn tôi, kịp đến và đưa ra lời can ngăn thật đúng
lúc. Những gi tôi sắp kể chỉ có thể gọi là những lời sám hối và người
nghe nó không nên chỉ là một mình cô bé ngày xưa của tôi. Khi đưa ra lời
khuyên như vậy có thể chị bạn tôi quên mất rằng giờ đây, sau hai mươi
năm cô bé đã là một người trưởng thành. Nhưng tự trái tim tôi cũng thấy
đó là lời mách bảo sáng suốt. Và để có chỗ cho tôi nương tựa về mặt tinh
thần, chị ấy đã tự nguyện, một cách đầy kiên nhẫn và đồng cảm ngồi nghe
tôi “thú tội”.
Những gì xảy ra sau đó - tôi muốn nói đến sự ra
đời của cuốn sách này - hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Giờ đây tôi chỉ
còn lại một ý nghĩ đủ sức an ủi mình: Thế là cuối cùng mình cũng đã có
thể thanh thản mà sống tiếp. Tuy nhiên mọi việc diễn ra thì không phải
lúc nào cũng suôn sẻ. Thỉnh thoảng, tôi ngừng lại suy nghĩ, nói ra những
điều này để: rồi người ta viết nên cuốn sách này, liệu có phải chỉ vì
nhu cầu muốn mọi người hiểu đúng về cuộc đời mình hay vì tôi vẫn đang
còn rất nhiều ham hố?
Hoặc ai đó sẽ đặt câu hỏi, người này còn
tham vọng gì nữa đây mà bỗng nhiên lại tâm sự hết, bộc bạch hết cho
người đời xem từ trong ra ngoài? Tôi tự hỏi, chẳng lẽ mình chưa đủ “tai
tiếng” à? Tại sao mình lại bị cuốn vào việc này một cách rất say sưa?
Tỉnh
táo nghĩ lại như thế. Và tự trả lời: không phải. Tôi đã sống một cuộc
đời thường có cả điều đúng, có cả điều sai, có cả những đau khổ tự chuốc
lấy trong khi đó tôi cũng trút đau khổ lên không ít người khác. Tôi có
cả một tuổi thơ cay đắng mà không biết đổ lỗi cho ai. Tôi từng có thể
muốn gì được nấy, những thứ mà bất cứ người bình thường nào cũng đều
thèm khát. Và ngược lại, tôi cũng phải đối mặt với biết bao sự ê chề
trong đó có cả do tôi, có cả do người khác gây cho tôi. Tóm lại tôi
chẳng việc gì phải dựng nên những thứ mà tự nó đã chật kín trong cuộc
đời mình rồi. Nhưng nếu vẫn có ai đó không tin mục đích của tôi khi chấp
nhận có cuốn sách này, thì tôi cũng không hề vì thế mà thiếu tôn trọng
họ. Chúng ta được đào luyện trong một môi trường mà lòng thành thật
không phải lúc nào cũng được đặt ở những vị trí xứng đáng.
Đôi khi
tôi lại nghĩ, hình như mình đang “vạch áo cho người xem lưng”. Những
lúc ấy tôi chỉ muốn bảo thẳng với Bùi Mai Hạnh - người càng ngày càng tỏ
ra hiểu tôi hơn tôi tưởng với một sự kiên nhẫn vô bờ bến - có lẽ dừng
lại thôi, quẳng đi thôi. Tại sao tôi lại cứ phải làm cho những người
thân của mình đau lòng? Nhưng hóa ra người đau lòng nhất lại chính là
tôi.
Giờ đây thì mọi việc đã không thể nào dừng lại được. Thôi thì
ai muốn nghĩ gì về tôi là quyền của họ. Tôi chấp nhận cả sự nguyền rủa.
Bởi vì nếu cuốn sách này trở thành nguyên nhân của những hiểu lầm có
thể xảy ra, thì nó cũng đồng thời là một cơ hội để tôi tự thanh tẩy tâm
hồn mình. Mục đích lớn nhất của tôi là sám hối mặc dù tôi biết không
phải mọi sự sám hối đều được tha thứ. Tôi muốn tự trừng phạt mình thay
cho một sự trừng phạt từ trên cao sớm muộn rồi cũng giáng xuống…
Tôi
chịu trách nhiệm trước lương tâm và luật pháp về tính chân xác của
những sự kiện, những câu chuyện được viện dẫn trong cuốn sách này. Tôi
không muốn vì sự sám hối của mình mà có thể làm tổn thương đến bất cứ
ai. Những nhân vật được nhắc tới chỉ bởi vì họ đã góp làm nên một phần
cuộc đời tôi, thuộc về cấu trúc tạo nên số phận tôi. Thiếu họ trong câu
chuyện, tức là tôi không thể hoàn thành tâm nguyện là thành thật đến tận
cùng về bản thân mình. Ngoài điều đó ra, bất cứ sự gây hiểu lầm nào
cũng có thể coi là sơ xuất bất khả kháng, ngoài ý muốn của tôi. Và thể
nào cũng xảy ra điều tương tự với người này người kia nên tôi xin được
bày tỏ trước niềm hối tiếc và mong các vị rộng lòng lượng thứ.
Không
hiểu sao cứ mỗi khi sắp kiệt sức, chẳng hạn như lúc này, lúc mà tôi
phải nói những điều thật khó khăn, tôi lại nhớ bà ngoại. Bây giờ bà đã
về Trời. Bà mất khi gần trăm tuổi. Lần cuối cùng về Hải Phòng thăm bà
ốm, tôi được bà trăng trối: “Nếu như, sau khi chết đi mà bà biết rằng bà
còn có thể phù hộ cho ai đấy, thì người đó sẽ là cháu. Bà phù hộ cho
cháu luôn hạnh phúc”.
Tôi tin rằng chính bà ngoại đã thể hiện sự
phù hộ, như bà hứa, khi mách bảo cho tôi những gì tôi cần phải làm trước
khi lại được về làm đứa cháu gái tội nghiệp của bà.
LÊ VÂN