Các trận chiến làm thay đổi thế giới - chương 12 part 1
SERIES XII: Trận Tsushima 1905 :
Japan Empire VS Russian Empire
Hải chiến Tsushima(hải chiến Đối Mã) là một trận hải chiến giữa hạm đội của Đế
quốc Nga và hạm đội của Đế quốc Nhật Bản diễn ra tại eo biển Tsushima trong
Chiến tranh Nga-Nhật ngày 27-28 tháng 5 năm 1905.
Trong trận hải chiến, Hạm đội Nhật bản dưới quyền chỉ huy của Đô đốc (Admiral)
Heihachiro Togo tiêu diệt hai phần ba hạm đội Nga dưới quyền chỉ huy của Đô đốc
Zinovy Rozhestvensky. Theo sách Theodore Rex (ISBN 0-394-55509-0), sử gia
Edmund Morris gọi nó là trận hải chiến lớn nhất kể từ sau trận Trafalgar. Nó là
trận hải chiến lớn nhất thời kỳ chiến hạm tiền-dreadnought.
Trận chiến kết thúc với thắng lợi to lớn của hạm đội Nhật, buộc Nga phải ký
Hiệp định Porstmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á và khẳng
định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á.
Trận hải chiến Tsushima là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử khi các thiết
giáp hạm đóng vai trò quyết định kết cục trận đánh. Hơn thế nữa, phải kể đến
hạm đội Nga của Đô đốc Rozhestvensky khi buộc phải thực hiện một cuộc hải trình
kéo dài lên đến 18.000 hải lý (chừng 33.000km) để đến được đích là vùng Viễn
Đông do Anh, đồng minh của Nhật không cho qua kênh đào Suez.
Trước khi chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, các cường quốc xây dựng tàu chiến với đủ
loại pháo với các cỡ nòng khác nhau, chủ yếu là 150mm (6-inch), 203mm (8-inch),
254mm (10-inch) và 305mm (12-inch), với dự kiến là các chiến hạm này sẽ đánh
giáp lá cà trong đội hình khép kín để quyết định chiến trường. Kinh nghiệm
chiến trường cho thấy các cỗ trọng pháo với tầm bắn xa có lợi thế hơn, được ưa
chuộng trong các trận hải chiến hơn là các khẩu đội pháo gồm nhiều cỡ nòng hỗn
hợp. Ngay từ năm 1904, Hải quân Đế chế Nhật bản đã cho đóng tàu Satsuma (hạ
thủy ngay trước trận hải chiến Tsushima, ngày 15 tháng 5 năm 1905), chiếc tàu
chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng trọng pháo. Hải quân Hoàng gia của
Đế quốc Anh nhanh chóng bắt nhịp, khởi công đóng tàu chiến HMS Dreadnought
tháng 10 năm 1905, và trở thành tàu chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng
đại pháo 305mm. Tàu HMS Dreadnought được hạ thủy vào năm 1906, đánh dấu mốc
thời kỳ "tiền-Dreadnoughts" trước 1906 và "Dreadnoughts" từ
1906 trở đi.
1. Hoàn Cảnh Trước Trận Chiến
* về nước Nga:
Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các bộ lạc
khác nhau như người Goth, Hun và Avar gốc Thổ trong khoảng thời gian từ thế kỷ
3 tới thế kỷ 6. Bộ lạc người Scythia gốc Iran sinh sống ở các thảo nguyên miền
nam, và bộ lạc người Ca dắc (Khazar) gốc Tuốc (Turk) đã cai trị phần phía tây
của vùng đất này cho đến thế kỷ 8. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là
người Varangia thay thế, bộ lạc này đã thiết lập thủ đô tại thành phố của người
Slav Novgorod và dần dần hòa trộn với người Slav. Người Slav tạo thành nhóm dân
cư chính từ thế kỷ 8 trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc
Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc Phần Lan-Ugric, chẳng hạn như người
Merya, Muromia và Meshchera.
Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ
liên kết với Chính thống giáo và chuyển thủ đô về Kiev năm 1169. Trong kỷ
nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "Russ" lần đầu tiên được
sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ thế kỷ
10 đến thế kỷ 11 quốc gia Rus Kiev (Киевская Русь) đã trở thành lớn nhất ở châu
Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động thương mại tích cực với cả châu Âu và
châu Á.
Trong thế kỷ 13 khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị
tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là Kim trướng của người Mông Cổ và
các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các công quốc Nga trên ba
thế kỷ. Còn được biết đến như là người Tatar, họ đã cai trị vùng miền nam và
miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sát nhập vào Đại công
quốc Litva và Ba Lan. Sự chia rẽ về chính trị của Rus Kiev đã tách người Nga ở
phía bắc ra khỏi người Belarus và người Ukrain ở phía tây.
Phần phía bắc của Nga cùng với Novgorod vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ
nhất định trong thời gian cai trị của người Mông Cổ. Tuy thế Nga cũng đã phải
chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của người Đức khi người Đức có ý đồ
chiếm khu vực này làm thuộc địa.
Giống như khu vực Balkan và Tiểu Á sự cai trị kéo dài của những người du mục đã
làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự chuyên quyền kiểu
châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn
hóa và kinh tế.
Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là Đế chế
Byzantin, Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập,
cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh
thổ. Sau thất thủ của Constantinople năm 1453, Nga là quốc gia Chính thống giáo
duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu,
điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế
Byzantin.
Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì công quốc
Moskva đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự
kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối thế kỷ 14. Ivan Hung đế, vị vua đầu
tiên xưng tước vị Sa hoàng, đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực
xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và xâm lược những vùng đất rộng lớn ở
Siberi. Đế chế Nga ra đời.
Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới triều đại
Romanov kế tiếp, bắt đầu với Sa hoàng Mikhail Romanov năm 1613. Pyotr Đại đế,
Sa hoàng từ 1689 tới 1725, đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa
từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên
thủy. Ekaterina Đại đế (Екатерина II Алексеевна), cai trị từ năm 1762 đến năm
1796, đã gia tăng cố gắng này, làm cho nước Nga không chỉ là một quyền lực ở
châu Á, mà còn muốn ngang hàng với Anh, Pháp, Đế quốc Áo và Phổ ở châu Âu
*về Nhật Bản:
Tên "Nhật Bản" viết theo Rōmaji là Nihon theo chữ Hán hai chữ
"Nhật Bản" có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và như thế, được
hiểu là "xứ Mặt Trời mọc".
Nhật Bản còn có các mĩ danh là "xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh
đào (桜 sakura) mọc trên khắp nước
Nhật từ Bắc xuống Nam, những cánh hoa "thoắt nở thoắt tàn" được người
Nhật yêu thích, phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều
quyết liệt của dân tộc họ; "đất nước hoa cúc" (xin xem: Hoa cúc và
thanh kiếm, của Ruth Benedict, nhà dân tộc học người Mỹ năm 1946) vì bông hoa
cúc 16 cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là
quốc huy Nhật Bản hiện nay; "đất nước Mặt Trời mọc" vì Nhật Bản là
quốc gia ở vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu (天照 Thái dương thần nữ).
Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato. Còn người Trung Quốc từ
trước Công nguyên đã gọi Nhật là Nụy quốc (倭国 "nước lùn"), người Nhật là Nụy nhân (倭人 "người lùn"), những tên cướp biển trên biển
Đông Trung Hoa thời Minh là Nụy khấu (倭寇 "giặc lùn"). Do thời đó người Nhật chưa có
chữ viết riêng nên Yamato được viết bằng chữ Hán 倭. Sau này, người Nhật dùng hai chữ Hán 大和 (Đại Hòa) để biểu ký âm Yamato, thể hiện lòng tự tôn
dân tộc.
Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang (扶桑). Cây phù tang, tức một loại cây dâu. Theo truyền
thuyết cổ phương Đông có cây dâu rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là
nơi thần Mặt Trời nghỉ ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ
Đông sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi Mặt Trời mọc
Năm 670, năm đầu niên hiệu Hàm Hanh (670-674) nhà Đường (vua Đường Cao Tông),
Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình Trung Quốc
và từ đó được đổi tên là Nhật Bản.
Thời kỳ Azuchi-Momoyama (安土桃山時代
| An Thổ - Đào Sơn thời đại) kéo dài từ năm 1573 đến năm 1603. Đây là thời kỳ
thống nhất đất nước. Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi là hai nhà quân sự lỗi
lạc có công đầu.
Oda Nobunaga trục xuất viên shogun Ashikaga cuối cùng và thành công trong việc
thống nhất một khu vực quan trọng của đất nước. Sau khi ông chết do bị phản
bội, công việc của ông được người tùy tùng trung thành tên là Toyotomi
Hideyoshi kế nghiệp và hoàn thành.
Trong thời kỳ này, những người châu Âu đầu tiên đã đến Nhật Bản, mang theo súng
ống và Cơ đốc giáo. Việc buôn bán với nước ngoài bắt đầu. Đạo Cơ đốc và việc
buôn bán với nước ngoài phát triển mạnh mẽ dưới thời Oda và vào đầu thời
Toyotomi, nhưng cuối cùng Toyotomi nghi ngờ những tham vọng về đất đai của
người châu Âu và đã ra lệnh trục xuất những người truyền giáo. Mặc dù vậy, việc
buôn bán vẫn tiếp tục.
Toyotomi Hideyoshi đưa quân xâm chiếm Triều Tiên. Cuộc viễn chinh sau những
thành công lớn bước đầu đập tan các đạo quân kháng cự yếu ớt và kiểm soát nhiều
phần rộng lớn thuộc lãnh thổ Triều Tiên, cuối cùng lại thất bại nặng nề. Sự
thất bại này, bên cạnh nguyên nhân do Triều Tiên, đương thời là phiên thuộc
Trung Hoa, đã nhờ quân đội Trung Hoa giúp sức, thì nguyên nhân lớn là do lực
lượng hải quân Nhật Bản giai đoạn này còn yếu. Những chiến thuyền còn nhỏ và
kinh nghiệm hải hành còn thiếu, kế hoạch đổ bộ của các đạo quân lên bán đảo
Triều Tiên không khớp nhau đã dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các
cánh quân. Sau này người Nhật đã rút kinh nghiệm và lưu ý đến việc xây dựng hải
quân hùng mạnh hơn.
Trường phái hội họa Kano và trà đạo đạt tới giai đoạn hoàng kim.
Sau khi Toyotomi Hideyoshi chết, quyền lực bị Tokugawa Ieyasu thâu tóm.
Thời kỳ Edo (江戸時代 |
Giang Hộ thời đại), còn gọi là thời Tokugawa, kéo dài từ năm 1603 đến năm 1868.
* Sơ kỳ Edo (1603 đến đầu thế kỷ 18)
1600, Tokugawa Ieyashu đánh bại liên quân 40 Daimyo miền Tây tại Shekigahara và
nắm chính quyền. Tokugawa được bổ nhiệm làm shogun (cả Oda Nobugana lẫn
Toyotomi Hideyoshi đều không cố gắng trở thành shogun mà chỉ duy trì quyền lực
qua các vị trí chính thức tại triều đình). Các daimyo chống đối gia đình
Tokugawa đều bị chuyển tới các thái ấp ở những vùng xa trung tâm và bị ép phải
dùng phần lớn của cải của họ để làm đường và các dự án khác, bị buộc phải luân
phiên di chuyển hàng năm giữa Edo và thái ấp của mình, để lại gia đình làm con
tin lâu dài ở Edo. Các thái ấp được những người tùy tùng của shogun cai quản,
tuy nhiên quyền lực ở đây rất lớn. Thành lập bộ luật hợp pháp cho các gia đình
quý tộc, tạo điều kiện cho chế độ shogun kiểm soát triều đình và hoàng đế. Hệ
thống 4 đẳng cấp shinokosho(sĩ nông công thương) được thừa nhận, cùng với việc
hôn nhân giới hạn trong những người ở cùng một đẳng cấp. Ở từng đẳng cấp, mối
quan hệ chủ-tớ phong kiến được thiết lập. Chế độ shogun Tokugawa được cấu thành
vững chắc từ hệ thống này và được biết tới dưới tên gọi bakuhan (kết hợp shogun
và chủ thái ấp). Buôn bán và đạo Cơ đốc một lần nữa lại phát triển thịnh vượng
trong thời gian ngắn, tuy nhiên, cũng như Hideyoshi, Ieyasu ngày càng e ngại
đạo Cơ đốc và bắt đầu những biện pháp đàn áp với mức độ ngày càng tăng. Tới
thời kỳ của shogun Tokugawa thì đạo Cơ đốc hoàn toàn bị cấm tại Nhật Bản. Những
người Nhật Bản theo đạo Cơ đốc bị hành hình. Các thương gia, trừ người Hà Lan
và người Trung Hoa, đều bị cấm tới Nhật Bản, và người Hà Lan bị hạn chế chỉ cho
phép đến một hòn đảo nhỏ ở cảng Nagasaki.
Cùng với việc thống nhất đất nước, quyền lực của chế độ shogun được củng cố,
việc cai trị tập trung, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao
thông được cải thiện, đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội
địa. Các thị trấn mọc lên ngày càng nhiều và rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô
thị quanh cung điện. Giới thương gia trở nên giàu có, và từ tầng lớp này xuất
hiện những hình thức nghệ thuật mới, bao gồm thơ haiku mà Matsuo Basho là người
khai sáng, tiểu thuyết bình dân của Ihara Saikaku, kịch của Chikamatsu
Monzaemon, các bản tranh khắc gỗ, kịch Ca vũ kỹ được dàn dựng lần đầu tiên ở
Kyoto vào đầu thời kỳ này, sau đó hạn chế chỉ dành cho diễn viên nam, bắt đầu
được diễn ở Edo và Osaka vào cuối thế kỷ 17.
* Trung kỳ Edo (Đầu thế kỷ 18 đến đầu thế
kỷ 19)
Hệ thống bakuhan không ngừng suy yếu do sự tập trung của cải vào tay giới
thương gia. Chế độ shogun gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nông
dân rơi vào cảnh nghèo khó. Đã có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ shogun, nhưng
do vẫn duy trì chính sách thả lỏng việc tư nhân kinh doanh nên tình trạng suy
vong ngày càng nặng nề. Nạn đói kém và thảm hoạ thiên nhiên, cộng thêm sưu cao
thuế nặng (đối với lúa gạo) mà chế độ shogun và daimyo bắt người dân gánh vác
đã biến những người nông dân và các tầng lớp dân thường khác thành nghèo khổ.
Các cuộc khởi nghĩa của nông dân xuất hiện. Lĩnh vực văn hoá chứng kiến sự nở
rộ cuối cùng của nền văn hoá Edo. Các truyện ngắn theo xu hướng phóng đãng,
truyện tình lịch sử, nghệ thuật đóng kịch Kabuki, các loại tranh và bản in gỗ
gồm nishiki-e (bản in tranh nhiều màu) được phát triển. Giáo dục được truyền bá
vào tầng lớp thương gia và thậm chí cả những nông dân tại terakoya. Phát triển
các trường kokugaku (Quốc học), một xu hướng giáo dục thoát khỏi ảnh hưởng của
Trung Hoa và trở lại các truyền thống quốc gia. Rangaku (Lan học) - việc nghiên
cứu các tác phẩm khoa học khác nhau du nhập từ phương Tây qua các thương nhân
Hà Lan như địa lý, y học, thiên văn, vật lý, hoá học cũng dần dần phát triển.
Hậu kỳ Edo (Đầu thế kỷ 19 đến 1868): Chính sách bế quan tỏa cảng đã kéo dài hơn
200 năm cho đến ngày 8 tháng 7 năm 1853, khi tướng Matthew Perry của Hải quân
Hoa Kỳ cùng với 4 chiến hạm — Mississippi, Plymouth, Saratoga, và Susquehanna —
vào vịnh Edo, Tokyo cũ, và phô diễn sức mạnh của các khẩu pháo hạm. Ông lịch sự
đề nghị Nhật Bản mở cửa thương mại với phương Tây. Từ đây, những con tầu này
được gọi là kurofune, Hắc thuyền.
Năm sau, tại Hiệp ước Kanagawa ngày 31 tháng 3 năm 1854, Perry quay lại với 7
chiến hạm và đề nghị shōgun ký "Hiệp định Hòa bình và Hữu nghị,"
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trong vòng 5
năm, Nhật Bản đã kí các hiệp định tương tự với các quốc gia phương Tây khác.
Hiệp định Harris được ký với Mỹ ngày 29 tháng 7 năm 1858. Giới trí thức Nhật
Bản coi các hiệp định này là bất bình đẳng, do Nhật Bản đã bị ép buộc bằng sự
đe dọa chiến tranh, và là dấu hiệu phương Tây muốn kéo Nhật Bản và chủ nghĩa đế
quốc đang nắm lấy phần còn lại của lục địa châu Á. Bên các phương tiện khác, họ
đã cho các quốc gia phương Tây quyền kiểm soát rõ rệt đối với thuế nhập khẩu và
đặc quyền ngoại giao (extraterritoriality) đối với tất cả các công dân của họ
tới Nhật Bản. Đây sẽ là một cái gai trong quan hệ giữa Nhật Bản với phương Tây
cho tới khi thế kỉ mới bắt đầu.
Thời kỳ Meiji (明治時代 |
Minh Trị thời đại) kéo dài từ năm ngày 25 tháng 1 năm 1868 đến ngày 30 tháng 7
năm 1912, là thời kỳ tại vị của Minh Trị Thiên Hoàng.
* Cải cách Minh Trị
Xem bài chính về Cải cách Minh Trị
Việc nối lại quan hệ với phương Tây đã dẫn đến sự đổi thay lớn đối với xã hội
Nhật Bản. Shogun phải từ bỏ quyền lực, và sau Chiến tranh Boshin năm 1868,
quyền lực của hoàng đế được khôi phục. Cuộc cải cách Minh Trị tiếp theo đó đã
mở đầu cho nhiều đổi mới. Hệ thống phong kiến bị hủy bỏ và thay vào đó là nhiều
thể chế phương Tây, trong đó có hệ thống luật pháp phương Tây và một chính phủ
gần theo kiểu lập hiến nghị viện. Các thái ấp phong kiến bị bãi bỏ và thay thế
bằng hệ thống quản lý hành chính theo cấp tỉnh. Quyền lực tập trung trong tay
Thiên hoàng. Các đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị huỷ bỏ. Quân đội quốc gia
và việc tuyển quân, chế độ thuế mới, hệ thống tiền tệ theo hệ thập phân, mạng
lưới đường sắt, cùng các hệ thống thư tín, điện thoại, điện báo được thiết lập.
Công nghiệp hiện đại được khởi đầu với các nhà máy do nhà nước xây dựng và điều
hành, sau này được chuyển sang sở hữu tư nhân. Việc cải cách gặp phải sự chống
đối đáng kể nhưng đều bị dẹp yên. Quan hệ buôn bán với Triều Tiên và Trung Quốc
được thiết lập. Nhà nước đã nỗ lực hết sức để sửa đổi những hiệp ước bất bình
đẳng đã được ký kết với các nước phương Tây. Năm 1898, hiệp định cuối cùng
trong các "hiệp định bất bình đẳng" với các cường quốc phương Tây đã
được hủy bỏ, đánh dấu vị thế mới của Nhật Bản trên thế giới. Trong vài thập kỉ
tiếp theo, bằng cách cải tổ và hiện đại hóa các hệ thống xã hội, giáo dục, kinh
tế, quân sự, chính trị và công nghiệp, "cuộc cách mạng có kiểm soát"
của Minh Trị đã biến Nhật Bản từ một nước phong kiến và bị cô lập thành một
cường quốc trên thế giới.
Năm 1874, do tranh cãi với Đài Loan ở quần đảo Ryukyu năm 1871, Nhật Bản xuất
binh đánh chiếm Đài Loan. Năm 1875, đánh Triều Tiên, buộc nước này phải mở cửa
cho hàng hóa của Nhật Bản. Do Trung Quốc tranh chấp ảnh hưởng của Nhật đối với
Triều Tiên, tháng 7 năm 1894, chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra tại bán đảo Triều
Tiên; đến tháng 4 năm sau thì kết thúc với thắng lợi thuộc về Nhật.
Năm 1894, hiệp ước bất bình đẳng với Anh trong buôn bán được sửa đổi và các
hiệp ước với những quốc gia khác cũng sửa đổi theo cho phù hợp.
Sau thắng lợi của Nhật trước Trung Quốc, Nga, Đức và Pháp ép Nhật phải từ bỏ
một số quyền lợi do lo ngại Nhật bành trướng lấn Nga, tạo ra mâu thuẫn lâu dài
và sâu sắc giữa Nhật và các nước trên. Liên minh Nhật - Anh hình thành.
* cuộc Chiến Nga -Nhật:
(tiếng Nhật: 日露戦争
Nichi-Ro Sensō; tiếng Nga: Русско-японская война; tiếng Trung: 日俄戰爭 Rìézhànzhēng; 10 tháng 2 năm 1904 – 5 tháng 9 năm
1905) là một cuộc xung đột xảy ra giữa các đế quốc đối địch đầy tham vọng Đế
quốc Nga và Đế quốc Nhật Bản trong việc giành quyền kiểm soát Mãn Châu và Triều
Tiên. Nơi diễn ra cuộc chiến là Nam Mãn Châu thuộc Trung Quốc, đặc biệt là khu
vực xung quanh bán đảo Liêu Đông và Phụng Thiên, và các khu vực biển quanh
Triều Tiên, Hoàng Hải và Nhật Bản.
Sau cuộc Minh Trị Duy Tân năm 1868, chính phủ Meiji lao vào nỗ lực tiếp nhận
các tư tưởng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và phong tục phương Tây. Cho đến cuối
thế kỷ 19, Nhật Bản đã tự chuyển mình từ một nước cô lập thành một quốc gia
công nghiệp hiện đại trong một thời gian rất ngắn. Người Nhật muốn bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ và được công nhận ngang hàng với các cường quốc phương Tây.
Nga, một cường quốc chính, có tham vọng ở phía Đông. Cho đến cuối thập kỷ 1890,
nước này đã mở rộng biên giới ở Trung Á đến Afghanistan, sáp nhập các quốc gia
khác trong quá trình đó. Đế chế Nga trải dài từ Ba Lan ở phía Tây đến bán đảo
Kamchatka ở phía Đông[2]. Với việc xây dựng tuyến đường sắt Trans-Siberia đến
cảng Vladivostok, Nga hy vọng có thể củng cố hơn nữa ảnh hưởng và sự hiện diện
của mình tại vùng này. Đây là điều Nhật Bản vô cùng lo ngại, vì họ coi Triều
Tiên (và một phần nào đó với Mãn Châu) như một vùng đệm an toàn.
Chính phủ Nhật Bản coi Triều Tiên, địa chính trị gần gũi với Nhật Bản, là một
bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia. Người Nhật muốn, ít nhất, giữ Triều
Tiên độc lập dưới ảnh hưởng của Nhật. Việc Nhật đánh bại Trung Quốc sau này
trong chiến tranh dẫn đến Điều ước Shimonoseki theo đó nhà Thanh buông bỏ quyền
bá chủ với Triều Tiên và nhượng lại Đài Loan, quần đảo Pescadores và bán đảo
Liêu Đông (Cảng Arthur) cho Nhật Bản.
Tuy vậy, Đế chế Nga cũng có tham vọng của riêng mình đối với vùng đất này
thuyết phục Đức và Pháp gây áp lực với Nhật. Vì Tam cường can thiệp, Nhật Bản
phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lại một khoản đền bù tài chính lớn hơn.
Tháng 12 1897, một hạm đội Nga xuất hiện ở cảng Arthur (Lữ Thuận). Sau 3 tháng,
năm 1898, một hiệp định được ký kết giữa Trung Quốc và Nga theo đó Nga được
thuê cảng Arthur, vịnh Đại Liên và vùng nước xung quanh. Nó còn được thỏa thuận
rằng hiệp định này có thể được mở rộng bằng sự đồng ý của đôi bên. Người Nga
tin tưởng rõ ràng rằng đây là cách mà họ không mất thời gian xâm chiếm và cảng
Arthur vững chắc là hải cảng nước ấm duy nhất của họ ở bờ biển Thái Bình Dương,
và có giá trị chiến lược quan trọng. Một năm sau, để củng cố vị thế của mình,
Nga bắt đầu xây dựng một tuyến đường sắt từ Cáp Nhĩ Tân (Harbin) qua Thẩm Dương
(Mukden) đến cảng Arthur. Sự phát triển của đường sắt là yếu tố góp phần dẫn
đến cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn và các ga tại Thiết Lĩnh và Liêu Dương bị đốt
cháy. Người Nga cũng tìm đường vào Triều Tiên, đến năm 1898, họ nhận được
nhượng bộ về khai mỏ và lâm nghiệp gần sông Áp Lục và Đồ Môn (Tumen), khiến cho
người Nhật quan ngại sâu sắc.
Nga và Nhật đều tham dự vào Liên quân tám nước được gửi đến dẹp cuộc nổi dậy
Nghĩa Hòa Đoàn và để giải vây cho công sứ các nước đang bị bao vây tại thủ đô
Trung Quốc. Như các quốc gia thành viên khác, người Nga gửi quân đến Trung
Quốc, đặc biệt là Mãn Châu để bảo vệ lợi ích của mình Nga đảm bảo với các cường
quốc khác rằng họ sẽ bỏ trống vùng đất này sau cuộc khủng hoảng. Tuy vậy, năm
1903, người Nga vẫn chưa đưa ra một lịch rút quân nào và thực tế còn củng cố
thế đứng của mình tại Mãn Châu.
Chính khách Nhật Bản, Itō Hirobumi, bắt đầu đàm phán với người Nga. Ông tin
rằng Nhật quá yếu để có thể đánh đuổi Nga bằng biện pháp quân sự, vì vậy ông đề
xuất trao quyền kiểm soát Mãn Châu cho Nga để đổi lấy việc Nhật Bản kiểm soát
Bắc Triều Tiên. Trong khi đó, Nhật Bản và Anh đã ký hiệp ước Liên minh Anh-Nhật
năm 1902, người Anh muốn hạn chế đối thủ hải quân bằng cách giữ các cảng biển
của Nga ở Thái Bình Dương như Vladivostok và Arthur không được sử dụng triệt
để. Liên minh với Anh có nghĩa rằng nếu bất kỳ quốc gia nào liên minh với Nga
trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào với Nhật, thì Anh sẽ tham chiến về phe Nhật.
Nga không thể nhận sự giúp đỡ từ cả Đức lẫn Pháp thêm nữa vì sự nguy hiểm của
việc Anh tham chiến. Với một liên minh như thế, Nhật Bản cảm thấy có thể tự do
khai chiến, nếu cần thiết.
Ngày 28 tháng 7 năm 1903, Công sứ Nhật Bản tại St. Petersburg được chỉ thị thể
hiện quan điểm của nước mình chống lại kế hoạch củng cố Mãn Châu của Nga. Quan
hệ thương mại bị cắt đứt và tình hình lên tới mức ngày 13 tháng 1 năm 1904 nhờ
đó Nhật Bản đề xuất một công thức mà Mãn Châu nằm ngoài tầm ảnh hưởng của nước
này và tương tự với tìm kiếm một tuyên bố tương tự liên quan đến các từ bỏ các
lợi ích của Nga tại Triều Tiên. Cho đến ngày 4 tháng 2 năm 1904, không có lời
đáp lại chính thức nào được gửi đi và ngày 6 tháng 2, Công sự Nhật Bản Kurino
Shinichiro, thăm Bộ trưởng Ngoại giao Nga, bá tước Lamsdorf, để thông báo mình
sẽ về nước. Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao ngày 6 tháng 2 năm 1904.
Nhật Bản tuyên chiến ngày 8 tháng 2 năm 1904. Tuy vậy, 3 giờ trước khi chính
phủ Nga nhận được lời tuyên chiến từ phía Nhật, Hải quân Đế quốc Nhật Bản tấn
công Hạm đội Viễn Đông tại cảng Arthur. Sa hoàng Nga Nikolai II sững sờ trước
tin bị tấn công. Ông không thể tin được rằng Nhật Bản có thể tấn công mà không
cần tuyên chiến chính thức, và đã đảm bảo với các bộ trưởng của mình rằng Nhật
Bản sẽ không đánh. Nga tuyên chiến với Nhật 8 ngày sau đó. Tuy vậy, việc yêu
cầu tuyên chiến trước khi tiến hành chiến sự không được coi là luật pháp quốc
tế cho đến khi cuộc chiến đã kết thúc vào tháng 10 năm 1907, có hiệu lực từ
ngày 26 tháng 1 năm 1910. Montenegro cũng tuyên chiến với Nhật như là một hành
động ủng hộ về mặt tinh thần với Nga vì biết ơn Nga đã ủng hộ Montenegro kháng
chiến chống lại Đế quốc Ottoman.