Khuyến học - Đọc thêm về tác giả

FUKUZAWA YUKICHI

VÀI NÉT VỀ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Nói
tới Fukuzawa Yukichi, không người Nhật nào lại không biết. Họ nói về
ông như một trong những bậc “khai quốc công thần” của nước Nhật hiện
đại, hình ảnh của ông được in trên đồng tiền có mệnh giá cao nhất ở
Nhật, tờ 10.000 yên.

Fukuzawa Yukichi là nhà tư tưởng có ảnh hưởng
sâu rộng nhất đối với xã hội Nhật bản thời cận đại. Người Nhật tôn vinh
ông là “Voltaire của Nhật Bản”, không chỉ vì tính triệt để và tầm mức
vượt trội trong tư tưởng của ông, mà còn vì cũng như danh nhân người
Pháp, Fukuzawa Yukichi cùng những người đồng chí của mình là những người
khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự
hậu thuẫn tinh thần cho công cuộc Duy Tân của chính phủ Minh Trị. Những
tác phẩm của ông dừ viết từ hơn một thế kỷ trước, nhưng vẫn được người
Nhật Bản ngày nay hết lòng ngưỡng mộ.

Fukuzawa Yukichi sinh năm
1834 trong một gia đình võ sĩ cấp thấp ở Nakatsu, nay thuộc tỉnh Oita,
Kyushu, Nhật Bản. Cha ông - một viên chức tài chính của tỉnh - mất sớm,
khiến gia đình lâm vào cảnh khốn quẫn. Năm 4 tuổi, ông được gửi sang nhà
chú ruột làm con nuôi. Ngay từ thuở niên thiếu, ông đã cảm nhận sâu sắc
nỗi tủi nhục do chế độ đẳng cấp và nỗi khổ do tình cảnh khốn quẫn của
gia đình.

“Ở Nakatsu quê tôi, chế độ quyền thế gia truyền giữa các
sỹ tộc được quy định nghiêm ngặt. Không chỉ trong chốn công đường mà
nguyên tắc đó còn thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, ngay cả trong quan
hệ giữa đám trẻ con trong làng. Con cái của các Võ sĩ cấp thấp như tôi
phải thưa gửi, lễ phép khi nói chuyện với con cái của các Võ sĩ cấp cao.
Ngược lại, con cái của các Võ sĩ cấp cao luôn cao giọng, khiếm nhã đối
với tôi. Sự phân biệt, chia rẽ trên dưới, sang hèn còn thể hiện trong cả
lúc chơi đùa chạy nhảy. Con cái nhà quyền thế chỉ chơi với con cái nhà
quyền thế. Trong lớp học, tôi học giỏi hơn. Vật tay, tôi cũng không bao
giờ thua. Vậy mà lúc nào chúng cũng tỏ thái độ kiêu căng, ngạo mạn với
tôi. Tôi bất bình đến mức không sao chịu nổi.” (Fukuzawa - Tự truyện).

Mãi
tới năm 14, 15 tuổi ông mới được đi học ở trường làng và ông thấy “học
vấn ở đâu cũng chỉ toàn là Hán học”. Mặc dù học Nho học, nhưng Fukuzawa
Yukichi không lấy đó làm “khuôn vàng, thước ngọc”. Ngược lại, ông càng
nhận thấy sự bất công trong xã hội phong kiến: “Nakatsu quê tôi, chế độ
phong kiến đã áp đặt trật tự xã hội từ hàng trăm năm trước thế nào thì
nay vẫn thế nấy. Mọi thứ cứ như bị nhồi chặt cứng trong hộp. Kẻ sinh ra
trong nhà quản gia thì sau này cũng trở thành quản gia. Người sinh ra
trong gia đình thấp cổ bé họng thì sau này cũng vẫn thấp cổ bé họng. Tổ
tiên là quyền quý thì đời đời là quyền quý. Tổ tiên nghèo hèn thì từ đời
này sang đời khác vẫn cứ nghèo hèn.” (Fukuzawa - Tự truyện).

Năm
19 tuổi, ông theo ngành Hà Lan học (ngành học ngôn ngữ Hà Lan, ngành
nghiên cứu y học và các môn khoa học phương Tây như toán, vật lý, hóa
học, sinh học... qua các sách viết bằng tiếng Hà Lan) tại Nagasaki và
Osaka.

Năm 25 tuổi, Fukuzawa Yukichi lên Tokyo, ông đến thăm cảng
Yokohâm - được chính quyền Mạc phủ mở cho tàu bè phương Tây ra vào buôn
bán. Tại đây, “chỗ nào cũng gặp người phương Tây. Nhà cửa, quán xá mọc
lên khắp nơi. Họ vào đó và buôn bán. Tôi dùng tiếng Hà Lan để trao đổi.
Họ không hiểu. Nghe họ nói, tôi cũng không hiểu. Nhìn vào hàng chữ quảng
cáo, các tờ cáo thị, tôi không đọc được. Không biết đó là tiếng gì,
tiếng Anh hay tiếng Pháp?” (Fukuzawa - Tự truyện).

Nhận
thấy “Hà Lan học” đã trở nên lạc hậu với thời đại, ông quyết chí bắt tay
vào học tiếng Anh. Không có người dạy và nơi học, ông đã dựa vào tự
điển để tự học.

Năm 1860, tình cờ ông được cử làm thông dịch viên,
theo phái đoàn của chính quyền Mạc phủ sang Hoa Kỳ, và ông đã đặt chân
lên San Francisco và Hawaii. Hai năm sau, năm 1862, ông lại được tháp
tùng phái đoàn Mạc phủ sang châu Âu. Và năm 1867, ông đặt chân tới các
thành phố phía đông Hoa Kỳ trong chuyến tháp tùng phái đoàn của chính
quyền Mạc phủ đi mua tàu.

Qua ba chuyến đi trên, Fukuzawa Yukichi
đã tiếp cận với thế giới văn vật của các quốc gia phát triển phương Tây,
đồng thời mở ra những hướng mới trong nhận thức về thế giới và làm ông ý
thức rõ hơn vị trí Nhật Bản trên trường quốc tế. Có thể nói chuyến đi
sang các nước phương Tây là bước ngoặc mang tính quyết định vai trò của
Fukuzawa Yukichi đối với lịch sử Nhật Bản trong thời kỳ chuyển mình từ
cuối thời Mạc phủ sang thời kỳ Minh Trị.

Trong suốt cuộc đời,
Fukuzawa Yukichi dịch sách, viết sách và xuất bản nhiều tác phẩm có ảnh
hưởng to lớn trong việc khai sáng xã hội Nhật Bản. Bằng trực quan sắc
bén, ông nắm bắt được nỗi bức xúc của dân chúng, nên các tác phẩm của
ông với cách viết giản dị, dễ hiểu, lời văn thống thiết, đã được mọi
tầng lớp độc giả Nhật Bản đón nhận như “đang khát gặp nước”.

Tác phẩm Sự tình phương Tây 10 tập,
viết từ năm 1866-1870 trên cơ sở những điều “mắt thấy tai nghe” trong
thời gian ở phương Tây, số lượng phát hành lên tới 25 vạn bản. Tác phẩm
giới thiệu thế giới văn vật, quan niệm về quyền lợi và nghĩa vụ, chế độ
chính trị, cơ cấu xã hội, nền giáo dục, học thuật, luật pháp, lịch sử,
nền công nghiệp, quân sự... của các quốc gia Âu - Mĩ. Tác phẩm này được
người Nhật Bản coi là “cẩm nang” của chính phủ Minh Trị trong việc xây
dựng xã hội Nhật Bản theo mô hình phương Tây.

Trong tác phẩm Khái lược về văn minh xuất
bản năm 1875 và “Đổi mới lòng dân” xuất bản năm 1879, Fukuzawa Yukichi
khảo sát về lịch sử và nguyên nhân phát triển của các nền văn minh cổ
kim đông tây. Ông đã bàn về con đường hưng thịnh, suy vong của Nhật Bản,
về cuộc sống của nhân dân Nhật Bản khi tiến lên văn minh trong tương
lai. Tư tưởng, triết học, quan điểm lịch sử, quan điểm quốc gia của
Fukuzawa Yukichi được biểu lộ qua hai tác phẩm này.

Ngoài ra,
Fukuzawa Yukichi còn viết một loạt các tác phẩm hướng đến công chúng
đông đảo, mà đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Các tác phẩm này nhằm
truyền bá những tư tưởng canh tân vào xã hội Nhật Bản, một đất nước đang
thực hiện công cuộc Duy tân do chính phủ Minh Trị tiến hành “từ trên
xuống”, nhưng xã hội bên dưới vẫn còn trong vòng kiềm toả của những quan
hệ, những tập quán, tập tục lỗi thời đã trải qua hàng nghìn năm của chế
độ phong kiến Mạc phủ. Những tác phẩm tiêu biểu trong số đó là:

- Khuyến học, năm 1872-1876.

- Bàn về dân quyền; Bàn về tiền tệ, năm 1878.

- Bàn về quốc quyền; Bàn về quốc hội, năm 1879.

- Bàn về kinh tế tư nhân, năm 1880.

- Bàn về thời sự thế giới; Bàn về quân sự, năm 1882.

- Bàn về nghĩa vụ quân sự; Bàn về ngoại giao, năm 1884.

- Bàn về phụ nữ Nhật Bản; Bàn về phẩm hạnh, năm 1885.

- Bàn về cách nhân sĩ xử thế; Bàn về giao tiếp nam nữ, năm 1886.

- Bàn về nam giới Nhật Bản; Bàn về hoàng gia Nhật Bản, năm 1888.

- Bàn về thuế đất; Bàn về tiền đồ và an trị quốc hội, năm 1892.

- Bàn về thực nghiệm, năm 1893.

- Fukuzawa Yukichi tuyển tập, năm 1897-1899.

- Bàn về đại học nữ, đại học nữ mới, năm 1899.

- Fukuzawa Yukichi - Tự truyện, năm 1899.

Năm
1868, đề nâng cao dân trí, đào tạo thanh niên sinh viên - thế hệ gánh
vác trọng trách xây dựng một nước Nhật Bản văn minh - Fukuzawa Yukichi
đã thành lập trường Keio Gijuku (Keio Nghĩa thục) - tiền thân của trường
đại học Keio nổi tiếng hiện nay tại Tokyo. (Phan Bội Châu có đến thăm
trương Keio Gijuku trong thời gian ở Nhật Bản. Trường Đông kinh Nghĩa
thục lập tại Hà Nội năm 1907 chính là dựa trên hình mẫu của trường này).

Năm
1873, Fukuzawa Yukichi cùng với một số trí thức Tây học lập ra hội
Meirokusha. Hội viên có 10 người và đều là các học giả thuộc nhiều ngành
như Mori Arinori (1847-1889), Nakamura Masâno (1832-1891), Kato
Hiroyuki (1838-1916), Nishi Amane (1829-1897), Taguchi Ukichi
(1828-1903)... Họ tổ chức viết sách, dịch thuật, tổ chức các buổi diễn
thuyết, xuất bản tập san Meroku làm diễn đàn để phổ biến và tranh luận
đủ mọi vấn đề: chính trị, giáo dục, tôn giáo, kinh tế, pháp luật, vai
trò phụ nữ, phong tục, Nhật ngữ...

Các thành viên trong hội
Meirokusha đã dịch và giới thiệu nhiều tác phẩm về tư tưởng, chính trị,
kinh tế, luật pháp, giáo dục phương Tây ra tiếng Nhật. Các tác phẩm được
dịch và giới thiệu trong thời kì này là các cuốn Tự giúp mình (Self-help) của Samuel Smiles (1812-1904), Tự do luận (On liberty), Chính trị Kinh tế học (Political Economy), Chủ nghĩa công lợi (Utilitarianism) của J. S. Mill (1806-1873), Nam nữ bình quyền luận (Social Statics),Giáo dục (Education) của Herbert Spencer (1820-1903), Tinh thần pháp luật của Montesquieu (1689-1755), Khế ước xã hội của Rousseau (1712-1778), Tự do mậu dịch của Adam Smith. Ngoài ra, Thuyết tiến hóa của Darwin và tác phẩm Allgemeines Staatsrecht của J. C. Bluntschli người Đức cũng được dịch và giới thiệu.

Năm 1879, Viện Học sĩ Tokyo - tiền thân của Viện Hàn lâm Nhật Bản ngày nay - ra đời. Fukuzawa Yukichi được chọn làm viện trưởng.

Năm 1882, ông sáng lập và làm chủ bút tờ Thời sự tân báo để trao đổi quan điểm về các vấn đề trong xã hội Nhật Bản thời ấy.

Để
đóng góp hữu hiệu trong việc khai hóa văn minh, nâng cao dân trí, phát
triển xã hội, Fukuzawa Yukichi chủ trương các học giả phải có lập trường
độc lập với chính phủ. Do đó, suốt cả cuộc đời ông nhất quyết từ chối
mọi lời mời tham dự chính quyền, mặc dù nhiều học giả cùng hội cũng như
các môn đệ của ông giữ những trọng trách quan trọng trong chính phủ Minh
Trị.

Năm 1900, ông được nhận giải thưởng từ Hoàng gia Nhật Bản do
công lao đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Giải thưởng trị giá 50.000
yên. Ông tặng lại số tiền cho trường Keio.

Năm 1901, ông mất do xuất huyết não, thọ 68 tuổi.

Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay là cuốn Khuyến học,
được ông viết trong thời gian 1872-1876. Đây không phải là tác phẩm đồ
sộ và sâu sắc nhất của ông, nhưng lại là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng
nhất đến công chúng Nhật Bản. Khi mới được in lần đầu, cuốn sách này có
một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản
thời đó chỉ khoảng 35 triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây
thực sự là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kì
Duy tân. Và kể từ đó đến nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục,
chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản Iwanami Bunko cũng
đã tái bản đến 76 lần.

Trong cuốn sách này, Fukuzawa Yukichi đề
cập đến tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn.
Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của nền
học vấn mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia
pháp trị... cuốn Khuyến học đã làm lay chuyển tâm lý người dân
Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Với tuyên ngôn “Trời không tạo ra người
đứng trên người và cũng không tạo ra người đúng dưới người”, Fukuzawa
Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng - như “không tin vào tai mình” -
cho đa số người dân Nhật Bản vốn bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận,
quen phục tùng, phó mặc và e sợ quan quyền suốt hàng trăm năm dưới chính
thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng
và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn. Về học vấn, Fukuzawa Yukichi
phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền
học vấn dựa trên “thực học”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc
sống hàng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập,
tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc. Và
quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “Làm thế nào để bảo vệ nền độc lập
Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn
bộ châu Á thành thuộc địa.

Với độc giả Việt Nam hiện nay, nhiều tư tưởng của Fukuzawa trong Khuyến học
lẽ không còn là điều mới mẻ gây chấn động lòng người như đối với người
dân Nhật Bản ở thời Minh Trị. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông thì vẫn
còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với những quốc gia đang trên con đường
hiện đại hoá. Ngoài ra cuốn Cẩm nang của người Nhật cày cũng
sẽ giúp cho độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính cách và
tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô
“ăn nhờ ở đậu”, nhờ có sự khai sáng của những con người như Fukuzawa
Yukichi mà đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại và
văn minh như ngày nay.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3