Mùa thu của cây dương - Chương 04

Ra là thế, tôi ấn tượng quá. Không phải tôi đã hiểu được tất cả, nhưng những lời bà nói rất có sức thuyết phục.

“Ở
cái tuổi của bà, một ngày nào đó mà có được sang thế giới bên kia thì
cũng chẳng có gì là lạ cả. Còn giờ là lúc hưởng lệ phí.”

“Lệ phí? Bà thu tiền ư?”

Hai
cánh mũi bà cụ nở ra như muốn nói: ô kìa, cháu phàn nàn cái gì nào?
“Thế chẳng lẽ gửi thư không phải dán tem à? Làm gì có tem miễn phí chứ.”

“Cháu biết thế nhưng mà...”

Thấy tôi ngơ ngác không hiểu gì, bà cụ liền chỉ vào cái tủ màu đen có tay cầm màu vàng.

“Ở ngăn kéo trên cùng ấy. Trong đó, có rất nhiều.”

“Rất nhiều?”

“Đầy ắp,” bà cụ gật đầu dứt khoát.

Tôi
tập trung vào cái ngăn kéo trên cùng. Tủ tiết kiệm của lão bà bà! Đầy
ắp tiền cơ đấy! Quả là choáng váng. Cái ngăn kéo to đùng ấy phải nhét
được hẳn mười cái áo len ấy chứ.

“Mẹ cháu cũng gửi tiền mừng tuổi của cháu vào ngân hàng đấy bà ạ.”

“Con
bé ngốc. Thứ bà để vào ngăn kéo đó là những lá thư người ta gửi. Bà bắt
đầu nhận chúng từ sau khi thầy bà mất. Suốt hai mươi năm trời, bà có
nhiều khách hàng lắm.”

“Cháu mở ra xem thử được không ạ?”

“Cũng được thôi, nhưng nếu xem thư, cháu sẽ phải mang chúng tới thế giới bên kia đấy.”

Tôi dựng tóc gáy, sợ hãi rời mắt khỏi cái t

“Bà mang thư hộ những ai thế ạ?”

Bà cụ bất ngớ vươn cổ về phía trước, đôi mắt đen đã hơi mờ đục nhưng rất linh hoạt nhìn thẳng vào tôi với vẻ trấn an.

“Nghe
kỹ bà nói này. Cái ngăn kéo đó, bà sẽ chưa chết chừng nào nó còn chưa
chật cứng và không thể nhét thêm bất cứ lá thư nào nữa. Nghĩa là khi nào
nó đầy chặt, bà sẽ chết. Vì vậy, bà không thể tùy tiện giữ thư của bất
cứ ai. Ví dụ như...” bà hạ giọng, “... nhân viên bưu điện vừa tới khi
nãy.”

“Cháu không trông thấy bác ấy.”

“Thực ra thì bác ấy không đến để đưa thư. Bác ấy đến gửi thư cho bà giữ hộ. Vì vợ bác ấy chết chìm trong bồn tắm.”

“Và?”

“Bà không thể nói thêm được. Tên của người nhờ gửi thư phải được giữ bí mật.”

Không
chỉ miệng mà cả mắt bà cũng khép chặt, thậm chí lưng cũng gập lại tròn
hơn mọi khi, trông bà cứ như một thứ đồ trang trí cổ lỗ trên chiếc ghế
tựa. Đột nhiên, tôi hỏi bà.

“Gửi thư, hết bao nhiêu tiền hả bà?”

Tôi vờ như không thấy cánh mũi bà phập phồng. Song bà vẫn tỏ ra lạnh tanh.

“Chưa biết được. Còn tùy trường hợp chứ. Nếu là những người đã chết lâu rồi thì đắt đấy.”

“Tại sao ạ?”

“Để tìm được người đó ở thế giới bên kia, chẳng phải là rất mất thời gian hay sao?”

Sao bà lại biết những việc như vậy dù chưa chết lần nào nhỉ?

“Nhưng
mà, nếu không là người mới chết gần đây thì bà sẽ lấy rẻ thôi. Bởi vì
ngày trước, bà của bà cũng chuyển thư miễn phí cho bà.”

“Thế bà chuyển thư miễn phí cho cháu đi. Cháu sẽ viết.”

“Bà không hiểu, tà phải chuyển thư miễn phí cho cháu nhỉ?”

“Bởi vì nếu bà không chuyển miễn phí, cháu sẽ nói hết, với tất cả mọi người.”

Bà cụ nhìn vào mặt tôi như muốn “hừm” lên một tiếng.

Thực
lòng, tôi thấy hoang mang trước điều chính mình vừa nói. Tôi quyết định
người nhận thư sẽ là bố, nhưng cho tới tận khi đó tôi vẫn chưa một lần
nghĩ rằng mình sẽ viết thư cho bố và cũng không biết nên viết gì. Thực
ra, tôi chỉ muốn đòi bà chuyển miễn phí đi cho tôi. Như thể đột nhiên
tính háo thắng của tôi bùng phát hơn là thực lòng muốn nhờ vả.

“Thế cháu cho mọi người biết nhé?”

“Tùy cháu thôi.”

“Cháu sẽ nói.”

“Những điều cháu nói, liệu sẽ có ai tin nhỉ?”


cụ khịt khịt mũi. Rồi sau đó thản nhiên nhấp một ngụm trà. Giữa hai mắt
bà cụ gần như không thấy sống mũi đâu, đã thế chỏm mũi lại hếch lên và
bạnh sang hai bên. Nhìn chằm chằm vào cái mũi của bà cụ, tự nhiên tôi
thấy tức điên lên được.

“Bà là đồ nói dối.” Tôi tuyên bố.

“Ơ hay. Bà đang nói dối cháu sao?”

“Đúng thế. Những kẻ nói dối xuống địa ngục sẽ bị cắt lưỡi.”

“Hmm...” Bà liếc xéo tôi một cái.

“Thôi được rồi, bà có nói dối hay không, chỉ cần xem bên trong ngăn kéo kia là biết ngay thôi, phải không nào?”

Tôi chợt lặng thinh không nói gì.

“Sao?”

“Bởi vì... chẳng phải bà bảo đấy là bí mật còn gì.”

“Thì đúng vậy.”

“Nếu là bí mật thì không được mở ra chứ?


cụ không nói gì, chỉ đứng dậy, vươn cánh tay khẽ đẩy làm tay cầm của
cái tủ lêu lách cách: “Xem nào, cái này nặng thật đấy.” Lưng bà còng,
đấy là còn chưa kể bà thấp nhỏ hơn hẳn so với người thường, vì thế để mở
được ngăn kéo trên cùng của cái tủ to đùng kia là một việc khá vất vả.

Lúc
đó, tôi nhận ra một điều. Chắc chắn rồi bí mật của bà cụ vẫn sẽ được
giữ kín. Bởi vì nếu nhìn vào bên trong ngăn kéo, tôi sẽ phải chuyển
những lá thư ấy đi. Không chừng đã có vài người bị lừa nhìn vào trong
ngăn kéo đó và phải chết thay cho bà cụ. Phải chăng vì thế mà bà cụ sống
lâu?

“Không.”

Hết chịu nổi, tôi gục đầu xuống, hai tay ôm lấy mặt.

Tôi
chúi mặt vào tấm đệm ngồi, xoạch - tiếng mở ngăn kéo tủ đập vào tai.
Tiếng lục lọi, khua đồ lộc cộc, tiếng thở hơi gấp của bà cụ, rồi một mùi
hương dễ chịu xông lên, hơi giống mùi lúc mẹ mặc áo kimono, tôi thấy
như bà cụ đang tiến lại gần, bên tai tôi nghe thấy tiếng giấy sột soạt,
sột soạt.

“Cháu xem không? Thư bà vừa mới nhận đấy, mới toanh nhé!”

Từ đôi mắt nhắm chặt, nước mắt tôi chảy ra. Bà cụ cười khùng khục.

“Nhìn này, mở mắt ra xem một chút đi chứ!”

Tôi
vùi mặt thật sâu xuống tấm đệm ngồi đến mức ho sặc sụa. Một lát sau đã
nghe tiếng bà bước ra xa, rồi có tiếng ngăn kéo tủ đóng lại.

“Ôi nhìn kìa, ló cái đầu rồng của cháu ra đi. Có gan gọi người khác là đồ nói dối cơ mà, ít ra cũng phải dũng cảm hơn chứ.”

Tôi ủ dột ngồi im lặng, mi mắt đỏ lên. Đúng lúc ấy, bà cụ bất ngờ nói.

“Bà chuyển miễn phí cho, thư của cháu ấy. Mang đến đây!”

“Không cần đâu.” Tôi lắc đầu, hằm hằm tức giận. “Cháu không viết những thứ như thế.”

“Bà hiểu mà

“Bà hiểu mà. Nên bà mới nói vậy.”

Bà cụ cười khoái trá. Nụ cười điển hình của kiểu cười mà miệng chỉ là một nếp nhăn.

5.

Tôi
bắt đầu đi học lại từ thứ Hai tuần kế tiếp. Lần này, không phải là nỗi
lo về việc quên đồ, trộm cắp, cháy nhà nữa, trong tôi xuất hiện một nỗi
lo mới: cái cảm giác bất an kia - những lo lắng không yên về việc quên
đồ, trộm cắp, cháy nhà... - liệu có quay trở lại? Điều này khiến tôi
chẳng mấy hào hứng với việc tới trường, thế nhưng hình như tôi bắt đầu
thấy nhớ, dù chỉ là một chút, những va chạm với thế giới bên ngoài.

“Hồi trước ấy, tớ còn tưởng Hoshino không thể nói chuyện cơ.”

Một
hôm, tôi ngỡ ngàng khi nghe bạn gái ngồi kế bên nói vậy. Chẳng lẽ ngày
trước mình hâm đến thế sao, tôi ngỡ ngàng, nhưng cũng phần nào thấy
thanh thản vì cô bạn ấy đã nói thẳng với tôi như vậy. Và như thế, trường
học dần thay đổi, từ một vùng hỗn độn đầy những lỗ cống dần trở thành
một thế giới trong đó ngôn từ thực sự được chia sẻ.

Hằng ngày, sau
khi tan học, tôi chạy như bay về trang viên Cây Dương, mang theo lá thư
đã viết từ đêm hôm trước tới chỗ bà cụ. Khi tôi đưa cho bà phong thư có
ghi “Từ: Chiaki - Tới Bố”, bà cụ bèn đứng lên, hừm một tiếng ra chiều
khó nhọc rồi nói là chấp nhận, đoạn bỏ thư vào ngăn kéo tủ. Cho rằng chỉ
nhắm mắt thôi thì chưa đủ, tôi còn dùng cả hai tay bịt thật chặt mí
mắt. Nếu không làm vậy, tôi sẽ chẳng thể nào ngăn bản thân khỏi nhìn vào
ngăn kéo. Vì hai con ngươi dưới lớp da mỏng trên mí mắt bị tay tôi ấn
quá mạnh, nên giữa bóng tối tôi thấy hiện ra những quần sáng hư ảo màu
đỏ và xanh. Cho tới khi đã mở mắt được một lúc, tôi vẫn còn thấy như cả
vũ trụ đang trôi nổi bồng bềnh và lượn vòng xung quanh.

Tôi tự hỏi
mình đã viết thư trong tâm trạng như thế nào? Ban đầu, tôi viết không
phải vì bị thôi thúc bởi một ước muốn rõ ràng là “mong được nói chuyện
với bố”. Có một điều chắc chắn, là tôi cảm thấy từ tận sâu trong tim, có
điều gì đó mách bảo mình nên viết thư, nên làm như thế. Với tôi, việc
bố đã mất và việc tôi viết những bức thư gửi bố chẳng có gì liên quan
đến nhau. Điều khiến tôi khoái chí hơn cả, đó là ngỡ ngàng thốt lên: “Ô,
cháu mà cũng viết được chữ cơ à?” hay “Cháu đang cố làm cho bà chết sớm
đây.”

Lá thư đầu tiên của tôi như thế này.

Bố có khỏe không ạ? Con khỏe. Tạm biệt bố.

Ba
lá thư đầu, tôi lặp đi lặp lại cùng một nội dung. Đến lá thứ tư, tôi đã
viết khác đi, không phải vì nghĩ rằng “viết thế này thì tệ quá” mà bởi
vì, tôi thực sự có điều để nói.

Bố có khỏe không ạ? Hôm nay con
lên bảy rồi. Mẹ mua cho con một cái bánh ngọt. Hai mẹ con cắt bánh và
mang xuống mời bà cụ chủ nhà. Bà gọi bánh ngọt là “kẹo Tây” bố ạ. Mang
cả sang cho bác Nishioka và cô Sasaki ở phòng bên cạnh nữa. Bánh rất
ngon. Mẹ tặng con quyển “Những cuộc phiêu lưu của cô gà mái Emma”. Tạm
biệt bố.

Viết tới đó thì mẹ bảo tôi đi ngủ, thế là tôi dán nguyên
lá thư ấy lại và từ hôm sau trở đi, tôi chuyển sang viết về những gì
đang xảy ra xung quanh mình theo đúng kiểu của một đứa trẻ bảy tuổi.
Chúng giống nhật ký hơn là những trang thư. Ngày qua ngày, tôi lại càng
viết hăng say. Có thể kể với ai đó về một ngày của mình mà không hề phải
bận tâm xem “liệu có làm người đó lo lắng không” hay “liệu có bị mắng
không” - cảm giác ấy tuyệt vời đến bất ngờ.

Vào một buổi chiều
tháng Mười một, cây dương trút lá trong chớp mắt, còn giàn mướp qua lâu
đã có tới năm quả chín đỏ. Ngày ngày, tôi vẫn đến chỗ bà cụ sau khi tan
học và cùng bà quét lá rụng. Cái chổi tre cao hơn hẳn thân người tôi,
thành thử trông tôi cứ như đang bị nó lắc lư loạn xạ. Nhưng tôi là đứa
khá siêng làm. Vì bà bảo: “Lá rụng nhiều thế này, phiền hàng xóm lắm!”
Thế là tôi không chỉ quét trong vườn mà còn ra ngoài đường, tới cái nhà
có con chó hay sủa hóng, tôi quét sạch cả con đường trong tiếng chó sủa
inh tai. Tôi biết, chỉ cần sang ngày mai thôi, tất cả sẽ lại đâu vào
đấy, nhưng tôi thực sự say sưa với sự lặp lại này. Tôi cầm chổi rất
chặt, khiến da ở chỗ ngón trỏ và ngón cái bị loét ra. Lần nào như vậy,
bà cụ đều bôi thật đẫm thuốc vào tay tôi và nói:

“Cháu đúng là oặt oẹo quá đi.

Những lúc ấy, bà cụ hết nhìn chỗ đau lại nhìn cái mặt nhăn nhó của tôi, vừa nhìn vừa cười hô hô ra chiều sung sướng lắm.

Rất
lâu về trước, khi người chồng quá cố của bà cụ - ông già râu bạc trên
bàn thờ - trồng cây dương non trong khu vườn, khắp vùng này ruộng rẫy
còn thưa thớt, đồng cỏ mọc rậm rì. Nghe nói ngoài ngôi nhà giống như một
túp lều tạm thì gần như chẳng có rào giậu gì che chắn xung quanh nhà
hai vợ chồng bà, trong vùng chỉ có thêm vài hộ nông gia nữa. Khung cảnh
ấy cũng từa tựa như vùng đất nơi ông bà đã sinh ra và lớn lên. Thời gian
đầu, bà cụ thất vọng lắm: “Khó khăn lắm mới dứt áo ra đi được, vậy mà
lại sống ở một nơi như thế này sao?”

“Nhưng thầy của bà rất thích
nơi này. Ông ấy hơi buồn khi xung quanh các ngôi nhà bắt đầu mọc lên
chen chúc. Mà có khi cứ như ngày xưa lại hay. Ở một nơi toàn đồng cỏ rậm
rạp thì chẳng cần phải quét lá rụng làm gì, nhỉ?” Bà cụ nói, cánh mũi
nở phập phồng.

Lá rụng được quét vun lại thành đống rồi đốt, cháy
rất nỏ. Nếu chỉ lá cây không thôi thì rất khó bắt lửa, bà cụ bèn lấy can
dầu trong nhà kho ra và rót vào một cái cốc uống cà phê sứt quai. Sau
đó, bà cụ nhúng đầu mấy tờ báo được cuộn tròn vào cốc dầu rồi dùng diêm
châm lửa. Bà cụ nâng ống giấy báo đang cháy lên như nâng một bó đuốc,
lưng bà cụ còng hơn hẳn mọi khi, khiến trông bà hơi đáng sợ. Chỗ dầu còn
lại trong cốc bà cụ rải đều lên khắp đống lá rồi dùng ống giấy báo châm
lửa, trong thoáng chốc, cả thân người bà cụ bất động.

Ban đầu,
ngọn lửa cháy chậm chạp. Như một con vật hèn nhát chỉ dám ló mắt khỏi
hang mà dò xét xung quanh. Nhưng chỉ thoáng sau, trạng thái lập lòe ấy
vụt tan biến, ngọn lửa đã trở nên ổn định liền cháy bùng lên, như thể nó
đang hô hấp mạnh mẽ. Trước sự bùng cháy bất chợt ấy, tôi không khỏi
bàng hoàng, còn bà cụ bắt đầu đi lòng vòng quanh đám lửa, dường như câu
thần chú làm bà bất động khi nãy đã được hóa giải.

Tôi ngồi xổm
xuống, nín thở nhìn cảnh lá khô và giấy vụn dần biến dạng giữa ngọn lửa
như trong cơn hấp hối. Chúng gợi tôi nhớ tới hài cốt của bố mà tôi đã
thấy ở khu hỏa táng, nhưng chẳng hiểu sao ngọn lửa của đống lá không
khiến tôi thấy bất an. Bởi vậy mà cứ mỗi lần đốt lá khô, từ trong tôi,
những ký ức về hài cốt của bố lại bị khơi dậy. Điều đó lặp đi lặp lại
hết lần này đến lần khác, cho đến khi hình ảnh tro xương của bố đã dần
tách rời hẳn khỏi các ký ức thông thường và trở nên thân thuộc với trái
tim tôi như một ý nghĩ thuần

Nếu là vào ngày nghỉ và cô Sasaki có ở nhà, thế nào cô cũng ngửi thấy mùi đốt lá.

“Cháu đi mua khoai nhé!”

Nói xong, cô liền leo ngay lên xe đạp và phóng đi.

*

* *

Chúng
tôi nướng khoai theo cách của bà cụ: đầu tiên, bọc khoai bằng một lớp
giấy báo ướt, sau đó gói tiếp một lượt giấy bạc rồi từ từ nướng lên,
khoai sẽ rất ngon. Buổi chiều đông nhá nhem, ngồi bên đống lửa đốt từ lá
khô, mặt mũi thì nóng bừng nhưng cơ thể lại lạnh đờ và tê cứng, giữa
lúc ấy mà được ăn khoai nướng nóng hổi thì chẳng có bữa tiệc nào trên
đời này sánh bằng.

Ngoài đường, cứ hễ có ai đó tình cờ đi ngang qua, cô Sasaki cũng đều gọi với theo dẫu có là người không quen biết.

“Mời tới đây ăn khoai ạ.”

Đám
lửa càng lúc càng cháy lớn và chẳng thể ngờ được, đôi khi người được
gọi cũng đáp lại lời mời bất ngờ của cô Sasaki. Từ ông cụ dẫn chó đi dạo
đến cô gái bán bảo hiểm hay cậu bé đang dắt chiếc xe đạp hỏng với khuôn
mặt lem luốc đất lẫn nước mắt. Mọi người không nói gì nhiều với nhau.
Thực ra, cũng có thể là vì miệng ai cũng đầy khoai nóng nên không nói
được. Nhưng ký ức đó - về những người không quen biết nhau, chưa một lần
gặp mặt lại ngồi quây quần quanh đống lửa trong vườn nhà bà cụ và cùng
ăn khoai nướng - để lại trong tôi một dư vị khó phai, một bức tranh rất
đỗi yên bình.

*

* *

Chuyện xảy ra vào một ngày
nọ. Hôm đó, tôi đang chờ bà cụ trong vườn. Liệu có phải bà đi gặp bác sĩ
để khám mắt không nhỉ? Tôi đi học về đã được một lúc lâu rồi. Sau đợt
gió Bắc đêm qua, cây dương gần như trơ trụi. Vừa quét vun lá rụng tôi
vừa nghĩ: “Nếu chẳng còn cái lá nào thì làm sao mà đốt lửa được nữa.”
Tôi cứ tưởng, giống như khi nhặt sỏi bên bờ sông, hàng ngày ta có quét
lá rụng bao nhiêu đi nữa cũng chẳng bao giờ hết, vậy mà việc ấy tới một
lúc nào đó cũng sẽ ngừng lại, lần đầu tiên tôi nhận ra điều đó. Nắm chặt
cây chổi tre, chẳng hiểu sao tôi thấy lo lắng quá

Tôi vun lá cây
lại thành một đống lớn. Dĩ nhiên tôi hiểu trẻ con không được nhóm lửa
một mình nên chỉ ngồi xổm ở đó, yên lặng đợi bà cụ về. Gió đã lặng nhưng
hôm nay là một ngày lạnh giá và xám xịt. Đôi chân đang gập lại từ từ
mất cảm giác, tôi thấy người lạnh dần và lả đi.

“Này, này...”


tiếng gì như tiếng gọi tôi từ phía xa, tôi mở mắt. Không biết tôi cứ
ngồi xổm như thế mà ngủ quên mất từ lúc nào. Trên đầu gối để tràn có vết
răng cửa hằn xuống, chân tôi tê dại, rân rân như kiến bò. Trời đã sẩm
tối.

“Cháu ngủ đấy à?”

Giật mình ngẩng đầu lên, trước mắt
tôi hiện ra một cái đầu thỏ khổng lồ. Con thỏ mặc quần bò, giơ tay vẫy
vẫy tôi khi ấy đang ngỡ ngàng trong tư thế ngồi xổm.

“Cô Sasaki ạ?”

“Ôi, cháu nhận ra ngay được à.”

Cái
đầu thỏ được nhấc lên, và rồi cô Sasaki xuất hiện. Tóc cô bông xù lên
trong giây lát khi cái đầu thỏ được nhấc ra, tôi đã nghĩ: “Cô Sasaki
thật đẹp!”

“Cái này là của công ty cô làm đấy. Người ta nói không cần nữa cho nên...”

Cô Sasaki dúi cái đầu thỏ khổng lồ về phía tôi.

“... cô định cho cháu.”

Hai chân tê dại, tôi loạng choạng đứng lên và đội thử cái đầu thỏ vào.

“Chẳng nhìn thấy gì cả cô ạ. Mùi khó chịu quá!”

Quanh tôi mọi thứ hoàn toàn tối đen.

“Chắc không được rồi. Vị trí hai mắt được làm để phù hợp với đầu của người lớn mà.”


Sasaki nhấc cái đầu thỏ ra giúp tôi rồi bảo: “Lần sau cô mang về cho
cháu cái khác dành cho trẻ con nhé.” Dù không có mong muốn hóa thân
thành một chú thỏ nhưng tôi vẫn nói cảm ơ

“Bà già đâu rồi?” Thỉnh thoảng, cô Sasaki vẫn gọi bà cụ như thế.

“Bà không có nhà ạ.”

“Đi đâu thế không biết?”

“Cháu đoán chắc bà đi gặp bác sĩ mắt.”

“Ừm, mắt bà kém à?”

“Chắc là đến để bác sĩ lấy lông quặm cho ạ.”


bà già rồi nên lông mi mọc quặp vào trong mắt, nếu không định kỳ nhổ
đi, chúng sẽ làm xước nhãn cầu. Tôi giải thích cho cô Sasaki theo những
gì tôi nghe được từ bà cụ.

“Đấy là vì lớp da ở mi mắt bị chùng
đấy, chắc chắn là thế.” Cô Sasaki đặt ngón tay vào thái dương rồi xếch
hai mắt lên trông như con cáo, cả hai chúng tôi cùng không nói gì thêm.

Bóng tối đen thẫm, đặc trưng của những ngày ngắn nhất trong năm, bắt đầu buông xuống như mực chảy tràn.

“Muộn thế này rồi...”

Cô Sasaki lẩm bẩm một mình. “Đã mua khoai rồi, thế mà lại...”

Tự
nhiên tôi cảm thấy không yên tâm. Từ trước tới giờ, bà cụ chưa lần nào
về quá muộn sau khi đi khám bác sĩ, cũng chưa lần nào đi vắng đến tận
giờ này. Nhỡ mà... muộn thế này rồi mà bà vẫn chưa về, không chừng...

“Cô Sasaki, cô có kể là lũ mèo, trước khi chết chúng sẽ bỏ đi đâu đó phải không ạ?”

“Ừ.”

“Nếu không đi tìm bà thì...”

“Cháu nói gì cơ?”

“Bà bảo bà sẽ chết, khi nào cái ngăn kéo ấy đầy.”

“Ngăn kéo? Chuyện gì thế?”

Sao
tôi lại vô tâm thế nhỉ? Ngày ngày, tôi vẫn mang thư đến đưa cho không
hề nghĩ rằng cái ngày ngăn kéo đầy ắp sẽ đến nhanh như vậy.

“Cháu làm sao đấy, nói rõ ra xem nào.”

Hình
như người ở trên tầng cũng nghe thấy tiếng cô Sasaki, cửa sổ chính giữa
ba căn hộ lạch cạch mở. Có tiếng cười vọng ra, có lẽ là từ chương trình
hài đang chiếu trên truyền hình, lúc này tôi đã thấy tỉnh táo hơn đôi
chút.

“Có chuyện gì thế?”

Bác Nishioka với cái áo khoác ngắn xộc xệch do mặc vội nhô người ra khỏi cửa sổ.

“Con bé này, nó đang lo là bà già không về.”

“Vì việc của bà già mà tôi cũng đang nóng ruột như lửa đốt đấy,” cô Sasaki nói càng khiến tôi sốt ruột.

“Chắc là bà chết rồi.”

Ánh
sáng từ căn phòng chỉ hắt ra được đến lưng nên tôi không nhìn thấy mặt
bác Nishioka, nhưng dường như khi nghe tôi nói vậy, bác tỏ ra khá bàng
hoàng. Có tiếng bước chân đi xuống cầu thang, lát sau bác Nishioka xuất
hiện, tay vén lớp tóc dài phía bên trái sang để che bên tóc thưa hơn,
bác đi ra vườn.

“Chiaki, sao cháu lại nghĩ là bà cụ chết rồi?”

Bác
hỏi tôi, vẫn với lối nói nhanh líu cả lại như mọi khi. Dẫu không muốn
kể về những lá thư, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy mặc cảm tội lỗi
vì đã nhờ bà cụ giữ hộ nhiều thư như vậy. Tôi chỉ nói được rằng: “Vì mãi
bà vẫn chưa về.” Chính trong khoảnh khắc ấy, ý nghĩ “Mình thành kẻ nói
dối rồi!” chợt xuất hiện và bất ngờ, nước mắt tôi rơi lã chã.

Hiệu
quả của nước mắt thật đáng kể, bác Nishioka bối rối dỗ tôi khi ấy đang
nước mắt ngắn nước mắt dài, rồi bác giậm chân loạn cả lên. Cô Sasaki thở
dài, chụp lên đầu tôi cái đầu con thỏ.

“Dù sao thì, dù sao thì ta
cũng phải đi tìm bà cụ chứ. Những… những… những việc như thế này, người
ta vẫn bảo là bọn trẻ con thường đoán đúng.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3