Gió trắng - Chương 08
Chương 08: Đoạn kết một câu chuyện lãng mạn
Đoàn
tàu đang đi vào ga xép. Khựng lại đột ngột và tiếng phanh rít kéo dài.
Có ai đó đứng ở hành lang cẩu thả kéo rèm ra nhòm trời. Trời đêm sáng
nhờ nhờ. Hình như ở Nga, chưa bao giờ có đêm nào thật sự là đêm. Đêm mùa
Đông sáng vì tuyết. Đêm mùa hè sáng vì ánh sao xa xăm, vì những thân
bạch dương lấp lóa trên đường, vì những cánh đồng hoa trắng... Và còn vì
những thứ ánh sáng chẳng hiểu ở đâu hắt ra, cứ mơ hồ hiu hắt sáng lên
trong thế giới này.
Một
số hành khách lục tục xuống ga. Đám khác lên thay thế. Họ cố gắng nói
khẽ, đi nhẹ, nhưng những bước chân vẫn cứ nặng nề, khiến hầu hết những
người đang ngủ đều tr mình. Đôi tiếng thở nặng nhọc vang lên lẫn tiếng
nói mớ, và cả tiếng chửi tục rời rạc!
Đây
là toa tàu chợ. Những dãy giường song song dài khắp lượt toa tàu. Bên
hành lang còn một dãy giường nữa. Mùi mồ hôi nồng nồng, mùi hơi men
thoảng ra từ đâu đó, mùi âm ẩm của đêm và của chăn đệm giặt là vội vã,
mùi thức ăn người ta mang theo đi đường. Mùi của đường xa.
Đã
chục lần đi trên tuyến đường này mà tôi vẫn không cưỡng lại được ý muốn
đứng ngoài hành lang, nhìn về phía trước, nơi bóng đêm và ánh sáng chốc
chốc lại luân chuyển vị trí cho nhau. Nhưng tôi không cho phép mình làm
điều xa xỉ ấy vì từ lâu, tôi đã không còn là đứa trẻ háo hức trong
chuyến đi dài. Những chuyến đi của tôi đều mang tính chất … công vụ.
Dưới lần áo khoác, tôi bận một chiếc áo có thật nhiều túi ở lưng và
trước ngực mà chú tôi may cho. Cô tôi gọi đùa đó là chiếc áo “băng đạn”.
Chú tôi khéo tay lắm. Chiếc áo vải thô màu xanh hoa trắng, sáu túi phía
sau, bốn túi phía trước, mỗi túi có kích cỡ bằng một tập tiền… nhìn
không hề xấu chút nào. Trông “mô-đen” nữa là khác!
Tôi
đang thực hiện công việc của mình để đỡ đần cô chú, nhưng đúng hơn là
để kiếm tiền nuôi thân. Tháng hai lần, tôi từ Len(1) lên Mat(2), gom
tiền hàng của bà con đi chợ mang lên đưa cho chủ hàng. Hai mươi hai
tuổi, học năm thứ 4 trường Sư Phạm, nhưng so với “Tây”, vóc dáng tôi vẫn
non nớt như đứa trẻ học phổ thông. Tóc để ngang vai, đeo bờm cũng màu
xanh điểm hoa trắng, quần bò bó ống - thứ đồ jeans cô tôi vẫn buôn ở chợ
- mỗi lần giặt là phôi đầy một chậu nước màu xanh đen, chân đi giày thể
thao rởm của Tàu. Chẳng mấy ai ngờ tôi lại “đi chơi Thủ Đô” với chiếc
áo đầy tiền như vậy.
1, 2. Len, Mat: Cách gọi tắt thành phố Leningrad và Matxcơva trong cộng đồng người Việt ở Nga.
Cho
đến bây giờ, khi mọi điều đã là quá khứ, khi tôi chỉ còn việc ngồi hồi
tưởng lại thời thiếu nữ lam lũ xứ người ấy của mình, tôi vẫn không thể
hiểu nổi, vì sao tôi nhận công việc này không một chút sợ hãi. Thậm chí,
chưa từng giữ trong người một vật gì để phòng thân. Không, thực ra là
có một vật, một vật kỳ quặc để có thể coi là vũ khí. Tôi chẳng kể cho ai
vì sợ mọi người cười. Đó là cái bút chì. Cái bút chì ngăn ngắn tôi vẫn
dùng để đánh dấu sách hoặc ngoáy vài chữ bên cạnh những đoạn văn mà tôi
tâm đắc. Mỗi lần lên đường, tôi lại hì hụi gọt cho nó thật sắc. Tôi kỳ
vọng điều gì ở chiếc bút chì nhọn hoắt ấy nhỉ? Rằng có thể dùng nó đâm
một kẻ xấu nếu hắn tấn công tôi? Không rõ. Chỉ biết là tôi cảm thấy gần
như yên tâm mỗi khi thò tay vào túi áo khoác và chạm vào mũi nhòn nhọt
của cây bút. Khi đọc sách trên tàu, tôi bỏ thói quen dùng bút gạch vào
sách vì sợ nó cùn đi.
Bên
cạnh tôi, một cô gái người di-gan đang ngáy khò khè trên chiếc giường
nhỏ hơn so với thân người. Người di-gan dễ nhận ra lắm, họ luôn muốn tỏ
ra cho cả thế giới biết chất du mục của mình thì phải. Chiếc khăn đội
đầu sặc sỡ, cái váy xòe rộng bản, chưa cần nói chuyện, gần như tôi chắc
chắn ai trong số họ cũng cói chiếc răng bịt vàng một góc, đôi mắt khi
thức thì đen nhánh còn khi ngủ thì lông mi rợp xuống má. Tôi vốn chẳng
ưa gì họ, những người ồn ào và hôi hám. Trẻ con thì bẩn thỉu và ranh
mãnh. Chúng biết cách kiếm cơm rất khéo và trơ tráo. Đôi lần, ngay trong
metro lúc đông người, tôi bị chúng giằng áo, túm tóc bằng những bàn tay
lem luốc, khiến cho không chịu nổi phải “xì” ra ít tiền.
Vì
có người xóm giềng đặc biệt như thế, chuyến đi lần này khiến tôi căng
thẳng nhiều hơn. Mà thực ra hiếm có lần nào tôi ngủ được quá hai tiếng.
Chiếc áo “băng đạn” cộm lên trong người. Áo khoác không dám cởi, lại
trùm một lần chăn chiên. Lưng tôi lúc nóng bừng, lúc ngứa ran… Nhưng cứ
nghĩ đến số tiền được nhận sau chuyến đi, tôi lại thấy… dễ chịu. Số tiền
học bổng còm không đủ cho tôi chi tiêu sinh hoạt, nói gì đến chuyện mua
sách vở hay hứng chí đi lang bang khám phá thành Len vào những buổi
chiều nắng không chịu tắt! Vì thế, kiếm được việc này, tôi mừng húm. Cô
chú kiếm việc cho tôi là cô chú họ thôi. Họ hàng thế nào tôi cũng chẳng
biết, nhưng có họ - ở nơi xa này, thế đã là người rất thân rồi. Cô chú
bán hàng ở chợ, hàng nhận qua xe từ Mat. về, trả tiền “xu-khôi”. Lẽ ra
có thể gửi tiền lên theo xe. Nhưng có lần xe bị cướp giữa đường, mất hết
tiền của cả mấy chục người ở chợ. Người ta bảo có kẻ “phím” cho bọn
cướp, tôi chẳng hiểu thực hư ra sao. Sau đợt đó, người đi chợ Trung Tâm,
những người bán hàng “ốp-tầm”, ai cũng lo lắng… Thế rồi tự nhiên nảy ra
một đứa tôi - không quá tham tiền để có thể “bốc hơi” cùng đống của mồ
hôi nước mắt này, mà cũng không quá thờ ơ với tiền nên liều nhận việc
liên lạc mạo hiểm mà ai nấy đều ngại… - mọi người mừng lắm. Nhưng cô chú
tôi cẩn thận, chỉ rỉ tai với dăm người cùng hội mà thôi.
Được
trả công cũng khá, tôi đã bắt đầu sống cuộc sống dễ chịu hơn. Tôi góp
tiền ăn nhiều hơn đôi chút với bọn cái Hòa, cái Hương, bảo bọn nó đi chợ
thì mua hành mùi, những thứ mà trước đó, chúng tôi không dám ngó tới.
Túm hành hoa đắt ngang cái bắp cải, cho dù là cái bắp cải trắng phớ
không có chút màu xanh. Tôi thường thái mỏng xào trứng, chứ luộc thì
cứng và không mấy ngọt. Còn thịt nữa. Tôi đã dám mua thịt tươi về đãi cả
block(3). Những tảng thịt đo đỏ, hồng hồng, nhìn đã thấy vui mắt. Bây
giờ có kể lại, bọn sinh viên trẻ mới sang chắc chẳng đứa nào tin. Nhưng
hồi ấy ở Nga là thế đấy, những năm 90. Bọn tôi thường kiên trì xếp hàng
để mua thứ thịt xén thành khuông như khuông gỗ, cứng như đá, nổi vân như
đá, màu hồng đã ngả nhiều sang trắng, vương hơi tuyết trong kho chứa có
dễ đã mấy tháng trời. Nhìn cái Hòa hì hục … gọt thịt mà thấy thương.
Dùng dao nhỏ gọt như gọt bút chì. Từng miếng thịt mỏng được bong ra, như
những phoi bào. Bằng không thì phải nhờ anh Vinh nghiên cứu sinh, sống ở
tầng dưới. Anh có cái rìu bé chuyên bổ thịt. Anh bổ cho thành hai ba
tảng nhỏ. Rồi lấy một tảng cho vào nilông, ngâm trong nước nóng. Độ vài
tiếng cũng được một miếng thịt mềm ngoài, bên trong vẫn còn nóng.
3. Một block trong ký túc xá sinh viên gồm hai phòng, có công trình phụ khép kín, trừ bếp.
Nghĩ
lan man, tôi thấy mình đã ngồi dậy tự lúc nào. Ngoài trời hình như có
một cơn giông vừa ngang qua. Hơi mát từ cửa sổ ùa vào. Có mùi cỏ rất
ngát. Tôi yêu mùi hương nước Nga sau cơn giông. Có thể gọi là ngọt ngào,
tươi mới. Cũng có thể gọi là nồng nồng, ngai ngái. Có cả mùi phân bò
đang hoai dậy lên nữa cơ. Hoặc đôi khi tôi nghe được cả mùi tanh, dường
như là mùi cá đớp nước ở các đầm cỏ lác, hay từ các xô cá của người đi
câu buổi sớm, với làn gió vô hình thoảng qua.
- Cô bé không ngủ được à? Nhập bọn với chúng anh đi!
Một
hội đàn ông, già có, trẻ có, bỗng xuất hiện, tụ tập cả dưới chân giường
tôi. Ở đó có hai cái ghế mềm. Đám đàn ông Nga kéo từ toa ăn về, chắc đã
uống khá, ngật ngưỡng đùa cợt với nhau. Những con người to lớn, những
đôi tay như bị phù, mắt đỏ, tai đỏ, những đám râu không cạo quanh cằm
dường như cũng ánh màu. Họ không dữ dằn. Tôi chẳng sợ họ, nhưng cũng
chẳng ưa họ. Họ ồn ào và hôi hám. Giống như người di-gan.
Một gã ngồi phịch xuống giường tôi, kéo chăn, dí cho tôi nửa chai bia uống dở.
Giờ
thì tôi bắt đầu run. Tôi chỉ sợ bọn họ phát hiện ra vẻ kỳ quặc của tôi:
đi nằm mà mặc cả áo khoác! Mà bấy giờ là mùa Hè, cho dù là một mùa hè
mưa bão và rét mướt thì không khí trong một toa tàu chợ vẫn rất ngột
ngạt.
Tôi chống đỡ yếu ớt:
- Tôi bị mệt…
- Mệt à? Uống ngụm bia khắc khỏi.
Gã
lè nhè nói, rồi kể lể một tràng những chuyện gì đó. Tôi chẳng nghe được
vì tai đã ù lên. Thêm một gã nữa ngồi lên giường tôi. Gã này còn trẻ và
chưa say, giương mắt nhìn tôi chòng chọc. Tôi túm chặt tay vào cọc
giường, không muốn mà tay đã run bần bật, quên bẵng cả chiếc bút chì
nhọn hoắt trong túi áo.
- Để cô ấy yên!
Một tiếng quát, không to, nhưng vừa đủ đanh. Một ánh đèn pin chói gắt lia qua những gương mặt đỏ bủng beo.
- Các anh đứng dậy khỏi giường. Tôi gọi phụ trách tàu ngay bây giờ đấy!
Người vừa quát hạ giọng nói nhỏ, nhưng dứt khoát. Một người châu Á! Đúng hơn là một thanh niên Việt Nam!
Có
lẽ trong 22 năm sống trên đời, chưa một giây phút nào tôi cảm thấy vui
sướng như vậy. Cổ nghẹn lại với cái cảm giác của một người đang bơi thì
bị chuột rút, vớ được chiếc phao trên bờ quăng xuống. Đồng thời, một nỗi
mệt mỏi bỗng dưng xâm chiếm toàn bộ con người, cứ như thể nãy giờ tôi
vừa đánh nhau với cả một đội quân!
Khi
đám đàn ông vừa lèm bèm vừa bỏ đi, tôi không còn đủ sức đứng dậy. Tay
vẫn ôm chặt cọc giường, tôi nhìn người thanh niên trân trân. Một người
con trai dong dỏng cao, bận chiếc áo gió mỏng, tay cầm chiếc balô nhỏ.
Anh ghé xuống phía tôi, nói khẽ: “Em đừng sợ, họ cũng không định làm hại
em đâu. Họ say, quậy chút thôi. Ngủ đi nhé, mai gặp lại. Anh nằm cách
đây năm giường.”
Tàu
lắc một cái thật mạnh. Gan ruột tôi nhao đi. Ánh sáng lại loang loáng
luân chuyển trên các khoang cửa sổ tàu. Tôi thấy bóng dáng người con
trai trong một tích tắc ngời lên. Rồi gần như ngay lập tức, tôi chìm vào
giấc ngủ, không còn kịp nghĩ ngợi về chàng trai vừa hiện ra trong đời
tôi, trong vầng hào quang y như cổ tích ấy nữa. Tôi mơ thấy những hàng
cột mốc lao nhanh vun vút về sau, giống như tôi đang đi xe khách trên
con đường nắng gắt ở Việt Nam thời nhỏ.
* * *
Về
đến Matxcơva, biết tôi định đến Đôm 5 mới, Thắng, “người hùng” vừa cứu
tôi ban đêm, vẫy một chiếc taxi. Anh nói giản dị: “Đi với anh” mà không
hỏi han gì thêm. Anh cũng không mất công mời mọc hay thuyết phục. Chẳng
hiểu sao tôi ngoan ngoãn đi theo anh, leo lên xe mà chẳng thấy chút phân
vân, cho dù thời ấy, tôi nghe biết bao nhiêu chuyện lên taxi là bị đưa
vào rừng, trấn cướp… Khi ấy tôi gần như quên cái áo băng đạn của mình,
chỉ còn một cảm giác mơ mơ hồ hồ là tôi đang ngồi bên cạnh một người con
trai đĩnh đạc và quyết đoán. Tôi chỉ hơi co người khi anh vô tình chạm
vào lưng tôi. Lưng lại nóng bừng bừng. Và hình như cả má và tai nữa. Tôi
nghĩ bụng, anh sẽ nói gì nếu biết mục đích lên Mat của tôi? Một con bé
sinh viên thoạt nhìn có vẻ ngây thơ, mà lại đi chuyển tiền, đâu phải một
lần, đã rất nhiều lần, đã lọc lõi! Tôi len lén thở dài.
Matxcơva
dạo ấy chưa nhiều xe cộ như bây giờ. Đường vắng người. Nắng mới rải dọc
những con đường nhựa bóng. Mat ấm hơn thành Len của tôi rất nhiều. Và
tôi cảm nhận được cả hơi ấm từ người con trai mới quen khiến bàn tay tôi
đang lạnh buốt vì hơi giá buổi sớm bỗng ấm lại. Điều này khiến tôi hơi
xấu hổ.
- Tạt qua nhà anh chút đã nhé. Rồi mình cùng sang Đôm 5. Anh cũng có việc qua đó. - Thắng đột nhiên đề nghị.
-
Nhà anh? Ở đâu ạ? - tôi hỏi ngớ ngẩn. Vì anh có nói thì tôi cũng làm
sao biết được. Đường ở Mat, tôi chỉ rành mỗi con đường Aminhev, nơi có
Đôm 5 mới và Đôm 11, là hai cái “ốp” lớn của người Việt mở ra làm chợ.
- Ngay cạnh Đôm 5. Anh về cất đồ rồi đưa em sang luôn, nhé?
Tôi máy móc gật đầu.
Suốt
dọc đường, tôi liếc nhìn anh mấy lần. Lần nào cũng bị anh cảm thấy, và
anh quay lại cười, nụ cười rất dễ mến. Gương mặt vuông vuông, có vết
xanh xanh mờ mờ của một hàm râu quai nón.
Năm
cái ống khói to cồ cộ quen thuộc của khu vực Đôm 5 mới hiện ra. Xe
ngoặt vào khu nhà đối diện. Thì ra, nhà anh thuê ở ngay bên kia đường.
Một dãy nhà dài dằng dặc, có đến chục cái cầu thang. Chưa bao giờ tôi
nhìn thấy ngôi nhà nào dài như thế. Người ở cầu thang đầu chắc không thể
biết người sống ở cầu thang cuối.
-
Bọn anh ở đây có 4 người. Thuê nhà cho tiện sang Đôm 5 làm ăn. Còn thì
vẫn có phòng ở ký túc xá, trên đồi Lenin ấy mà, em có biết không?
Tôi
làm sao biết được! Sau này tôi có được đến đó dăm lần, những khi anh đi
học. Anh là nghiên cứu sinh khoa Vật Lý trường Tổng hợp Lomonosov. Tôi
yêu căn phòng bé tí tẹo của anh trên đồi Lenin ấy lắm. Phòng chật chội,
nhưng cửa sổ lại nhìn ra một khoảng trời xanh ngắt. Giống như hiện thực
và ước mơ. Hiện thực nhỏ hẹp, ước mơ lại vô cùng.
Thật
lạ. Đi bên anh, tôi thấy như đi bên một người thân. Anh đã kịp kể cho
tôi nghe, nhà anh đón biết bao người Việt từ quen thân đến quen sơ về tá
túc khi mới chân ướt chân ráo sang Nga. Có lần, một bác đã có tuổi từ
Việt Nam sang tìm đường làm ăn, ngại phiền chủ nhà nên “tự thân vận
động” - ra đường vẫy taxi, chìa mẩu giấy ghi địa chỉ Đôm 5 mới. Gã taxi
chả nói chả rằng, đòi một khoản tiền khá lớn, rồi đưa bác ta vòng vèo
qua mấy con phố để rồi đến cái đích là… dãy nhà bên kia đường! Tôi phì
cười, thấy câu chuyện gặp anh giữa đường càng lúc càng lãng mạn.
Khi
lên đến nhà mới là lúc kết thúc câu chuyện lãng mạn của tôi. Anh giục
tôi bỏ áo khoác vào nghỉ đôi chút. Tôi túm chặt lấy vạt áo khoác, đứng
như một con ngố ở giữa hành lang tối om của căn nhà.
-
Em sao vậy? - Anh hỏi, và bật công tắc đèn. Bỏ chiếc áo gió xoàng xĩnh
ra khỏi người, anh thận trọng gỡ chiếc áo bên trong. Một thứ thật quen
thuộc đối với tôi: đó là …chiếc áo băng đạn! Chỉ khác là màu xám và
không quá căng như chiếc áo tôi đang mặc đây. Tôi tròn mắt thấy anh rút
từng tập tiền đô (à, tiền của tôi là rúp, túi căng hơn của anh là phải
rồi!), gói vào một mảnh giấy báo, nén xuống dưới một chiếc túi nilông
sẫm màu.
-
Bọn anh buôn xanh. - Không chút ngại ngần với người lạ, anh nói. Rồi
thêm: - Lát em cầm cái “paket”(4) này cho anh nhé. “Trẻ em” cầm tiền
không ngại - Anh nheo mắt cười. -. Từ đây sang bên đó, có một đoạn đường
bộ thôi mà đôi khi công an cũng chặn ở chỗ lối mòn đấy.
4. Túi bóng.
Bấy
giờ, tôi cũng chẳng ngại gì nữa mà không bỏ áo khoác, để anh nhìn thấy
chiếc áo xanh hoa trắng của mình. Anh ớ ra một giây rồi cười ha hả. Tôi
cũng chưa từng nghe giọng cười nào vang và lôi cuốn đến thế! Cười chảy
cả nước mắt. Rồi bảo:
- Khổ thế đấy. Cái thân kẻ sĩ thời buổi này… Nhưng em cũng liều thật, cô bé ạ!
* * *
Thế
là những ngày còn lại của mùa hè rét mướt năm ấy đã bừng trong tôi. Tôi
đã yêu.. Hôm đầu xuống Len tìm tôi, anh đã tặng tôi … cái đèn pin. Đúng
cái đèn pin anh dùng để bảo vệ tôi trên chuyến tàu đêm nọ. Anh bảo:
“Đôi khi chỉ cần ánh sáng lóe lên là đã có thể ngăn chặn được tội ác.
Chứ những thứ sắc nhọn như của em, chỉ để gãi lưng người ta thôi!”. Anh
giễu cái bút chì của tôi như vậy. Tôi cãi:
- Em có thể đâm, nó nhọn lắm!
- Xin em! Em chẳng cần đến nó cũng có thể làm một người bị trọng thương rồi. Đúng vào tim ấy chứ!
Tôi
sẽ không kể lại những ngày yêu đương ấy làm gì. Vì tình yêu nào mà chả
giống nhau. Những góc đường chân vừa bước qua đã thành kỷ niệm. Nụ hôn
đầu tiên, trên một chiếc cầu bé vắt qua một con kênh. Những ngọn đèn cổ
màu đen, hoa văn kỳ dị, chỉ làm cảnh chứ chẳng được thắp sáng. Trời màu
tím. Nhưng ánh sáng vẫn từ đâu đó hắt ra. Như thể hắt ra từ trong mỗi
người chúng tôi vậy.
Đến
giờ tôi vẫn tự hỏi, những đôi tình nhân sau khi trao nhau nụ hôn đầu,
ngây ngất trong vị ngọt ngào của nó, tại sao lại không thể tìm được vị
ngọt ngào ấy nữa, sau vài tháng, vài năm, hoặc rất nhiều năm sau, cho dù
họ vẫn bên nhau, thành vợ thành chồng, vẫn nói lời yêu thương?
Thắng,
chồng tôi bây giờ, không còn hôn tôi như Thắng ngày ấy. Mà dường như,
những nụ hôn thưa đi ngay sau một tháng đầu tiên quen nhau. Tôi chẳng
còn nhớ, người ta có thể hôn nhau vì một cảm xúc bất chợt đến trên
đường. Vì một trận mưa lá vàng. Vì một buổi chiều quá tĩnh lặng.
Một
lần, tôi rủ anh đi dạo và chủ động ôm lấy anh. Khi cảm thấy những nồng
nàn xưa cũ bắt đầu dâng lên trong lòng, tôi hôn anh. Anh giữ nụ hôn ấy
trong một giây, rồi thì thầm: “Để tối…”
Để làm gì? Tại sao?
Bây
giờ thì tôi không còn mơ như đêm nào nữa, mà thấy rõ cuộc đời mình đang
trôi như những hàng cột mốc, trên con đường nắng gắt.
Khi
bắt đầu viết những dòng này, tôi cứ ngỡ sẽ có được một câu chuyện lãng
mạn. Nhưng không hiểu sao đã không thành. Mọi câu chuyện bắt đầu có lãng
mạn đến đâu cũng đều kết thúc nhàn nhạt như vậy, hay vì cuộc sống vốn
rất đỗi bình thường, chỉ thấy được những nét lấp lánh khi ánh sáng và
bóng tối luân chuyển nhau chiếu qua những cửa sổ toa tàu?