Gió trắng - Chương 03
Chương 03: Lusia
Lusia là một con chó nòi
Kavkaz, hai năm tuổi, toàn thân trắng muốt, to lớn như một con gấu vùng
Bắc Cực. Mặt nó hiền và ngây thơ kỳ lạ, chẳng khớp với dáng vóc kỳ vĩ
của nó. Tôi nhớ mãi hình dáng đẹp lồng lộng của Lusia khi lao từ xa,
trên đồng cỏ vàng xanh điểm đầy hoa cúc kim trắng và oải hương tím xanh,
dưới ánh nắng chiều hắt rực ửng hồng một góc trời… chạy đến với tôi.
Chân trước chồm lên vai tôi, hất tôi ngã xuống cỏ. Hai chúng tôi đùa
giỡn một hồi. Mắt Lusia lấp lánh, hình như vui, hình như hạnh phúc lắm.
Nó rít lên [B]nho nhỏ, dúi cái mõm ướt rượt vào mặt tôi. Cô nàng Lusia
của tôi. Âu yếm và ấm áp làm sao!
Lusia là món quà cha dượng hờ
tặng tôi hồi sinh nhật 15 tuổi. Gọi là cha dượng hờ… vì cha là chồng mới
không chính thức của mẹ tôi. Cha đẻ của tôi ở Việt Nam, thấy mẹ bảo
rằng cha sa vào nghiện ngập, mẹ gửi đơn ly dị về cho cha ký rồi. Tôi
không biết mẹ có nói dối để “hợp thức hóa” việc mẹ ở với cha dượng hờ
không. Hồi còn bé, tôi cũng chẳng nghĩ làm gì. Dù cho cha nghiện hay
không nghiện thì cũng chưa bao giờ cha quan tâm đến tôi. Khi hai mẹ con
rời khỏi Việt Nam sang đây, tôi mới 5 tuổi. Đến giờ, tôi chỉ còn nhớ
dáng cha ngồi im lìm bên bàn nước có miếng vải giải bàn bị cháy mép do
tàn điếu cày của cha sém vào. Gương mặt thì nhòa đi, tôi không hình dung
rõ nổi nữa. Mẹ bảo tôi cứ nhìn gương thì nhận ra cha, vì con gái giống
cha như đúc. Mắt xếch, lông mi dày, lông mày rậm, gương mặt vuông vừa tử
tế, vừa khắc khổ! “Con gái giống cha giàu ba họ” - mẹ tôi nói xong câu
đấy thì mỉa mai cười. Tôi ghét kiểu cười ấy của mẹ, nhưng không dám nói
gì. Từ khi tôi tròn 15 tuổi, tôi thấy tim nhói đau mỗi khi mẹ cười như
thế.
Tôi học trường Nga. Nói tiếng Nga. Chơi với bọn bạn người
Nga. Chúng nó cũng yêu quý tôi, nhưng tôi vẫn thấy lạc lõng vì tôi biết
rõ mình là người của thế giới khác. Ở lớp tôi, những đứa lớn lên không
có cha thì nhiều lắm, quá nửa lớp. Tôi còn khá hơn chúng nó, vì tôi có
cha dượng hờ! Thi thoảng cha cũng thay mẹ đến họp phụ huynh cho tôi.
Nhưng cha có hiểu cô giáo nói gì đâu! Tiếng Nga của cha “ngắn” lắm. Tôi
luôn có cảm giác đau quặn bụng mỗi khi cha hứng chí tán chuyện với cô
bán bánh mỳ đầu bằng thứ tiếng Nga có dấu của mình (nghĩa là có huyền,
sắc, hỏi y như tiếng Việt ấy!) Có lần tôi phải xin cô giáo: “Có gì cô cứ
nói với em. Cả cha và mẹ em đều không hiểu tiếng Nga nhiều đâu”! Cô
giáo chủ nhiệm tôi cũng có một đứa con không cha. Hôm đầu tiên tới thăm
nom nhà cô, đúng kiểu Việt Nam, mặc kệ cho tôi phản đối, mẹ tôi đã bập
bẹ hỏi thăm chồng cô… Từ sau đó, cả mẹ và cả tôi đều rút ra một kinh
nghiệm, không bao giờ, không bao giờ hỏi thăm chồng của một người đàn bà
Nga. Mà kỳ lạ, tôi để ý thấy, những cô giáo trường tôi nuôi con một
mình thường là giáo viên dạy Văn. Có lẽ họ dạy Văn nên họ nhân hậu, cả
tin và cũng biết chấp nhận hơn chăng, khi một người đàn ông đến với họ
rồi lại ra đi, bước chân nhẹ bỗng không vướng bận gì!
Người Việt
nói chung thì tôi không rõ. Nhưng như mẹ tôi này, làm ăn buôn bán ở Nga
đã chục năm, mẹ không nghèo, đủ tiền nuôi tôi, mà năm nào cũng viết cái
thư dài dằng dặc đòi tiền cha đẻ tôi bên nhà… Đòi cha thực hiện “nghĩa
vụ làm cha” đối với tôi. Tôi thì nghĩ, may mà có cha thì mới có tôi. Nói
về nghĩa vụ, chắc tôi mới là người nợ cha, cho dù tôi chẳng còn nhớ
được nổi một ngày từng sống bên cha! Và tôi thương cha, thế mới kỳ lạ!
Nhất là từ hôm phải mượn thư viện cuốn Chó hoang Đin-gô của Phraerman để
đọc thêm ở nhà. Tôi còn nhớ, ngồi bên cửa sổ, cầm cuốn sách đọc đến
đoạn Tania gặp lại cha, người cha mà Tania không còn nhớ mặt vì cha mẹ
cô chia tay nhau từ lâu, tôi thấy ngực nghẹn thắt lại và mắt thì mờ đi…
Cửa sổ nhà tôi nhìn ra một công viên lớn toàn cây là cây. Hôm ấy, cây
đồng loạt ngả vàng. Tôi chỉ muốn khóc nức lên… Nhớ cha, người cha tôi
cũng đã quên nét mặt. Thương cha. Vì tôi biết cha mẹ tôi không yêu nhau.
Nếu từng yêu thì mẹ tôi đã chẳng sòng phẳng với cha như vậy. Tình yêu…
tôi biết chứ. Tôi cũng yêu một lần rồi, cách đây hai năm. Thằng Kolia
lớp 8, cao nhất lớp, mắt buồn như mắt mấy con bò ở nông trại mà lớp tôi
có lần về thu hoạch khoai tây giúp ấy. Hồi đó tôi thích nó vì mắt nó
buồn. Tôi hay nhường hết món kotlet(1) trong khẩu phần bữa trưa cho nó.
Tôi nhớ mãi vẻ biết ơn và yêu mến trong ánh mắt thắm biếc lên khi tôi
đẩy đĩa kotlet sang phía nó. Mặc kệ xung quanh ồn ào tiếng đĩa bát va
lanh canh, tiếng nồi xoong trong bếp vọng ra xủng xoảng, tiếng bọn trẻ
con buôn chuyện ầm ầm, tôi thấy lúc ấy thế giới thật yên lặng và trìu
mến. Tình yêu - đó là sự yên tĩnh của thế giới giữa muôn vàn âm thanh xô
bồ của cuộc sống! Thế nhưng, khi tôi lên lớp trên… mà đôi mắt của Kolia
vẫn mãi buồn như thế, thì tôi bắt đầu chán. Thế giới trong tôi trở lại
ồn ào: tiếng ném cặp sách bình bịch của bọn lớp bé, tiếng cười the thé
của mấy chị lớp lớn kể chuyện yêu đương, thậm chí, cả tiếng chổi rễ cây
loẹt quẹt ngoài sân xa tít tôi cũng nghe rõ mồn một. Thế là tôi hiểu,
mình đã hết yêu! Mắt Kolia vì thế lại càng buồn hơn. Và tôi nghĩ, cha
tôi chắc cũng có đôi mắt buồn như thế vì mẹ không yêu cha!ha dượng hờ
cũng tốt với mẹ con tôi lắm. Nhưng tôi chịu, không biết cha dượng và mẹ
tôi có yêu nhau không. Mà tôi cũng chẳng tìm hiểu, vì mẹ tôi không có vẻ
gì là thiếu thốn tình cảm cả. Mắt mẹ chỉ thoáng có vẻ thất thần khi...
“xanh giật”(2) và lấp lánh vẻ đắc thắc khi ngồi đếm tiền hàng. Còn cha
dượng không phải ruột rà máu mủ của tôi. Tôi kính nể ông như nể một
người lớn. Còn mắt ông có buồn thì tôi cũng không cảm thấy xót xa chút
nào!
1. Món thịt rán băm viên nhồi bột hoặc khoai tây.
2.
Tiếng lóng - bà con người Việt ở Nga dùng để chỉ hiện tượng giá đô-la
Mỹ tăng hoặc giảm mạnh đột ngột, ảnh hưởng đến giá hàng hóa.
* * *
Ngày
tôi tròn 15, cha dượng mang Lusia về nhà. Khỏi phải nói mẹ tôi đã hốt
hoảng như thế nào. Căn phòng 12m2, có chiếc ri-đô ngăn đôi, bên trong là
giường cha mẹ, bên ngoài là phần tôi. Giờ lại lù lù một con chó rõ to
xuất hiện. Gian phòng càng trở nên bé tợn. Ba người chúng tôi đi lại đều
khép nép. Cha dượng tặc lưỡi: “Cả ngày ngoài chợ, về nhà mấy đâu!” Mẹ
cằn nhằn hết cả một ngày nhưng rồi không hiểu sao cũng đồng ý cho Lusia ở
cùng chúng tôi. Tôi thì khoái cô nàng ngay vì nhìn nó ấm áp quá. Bộ
lông trắng muốt sau khi tắm, lắc khô nước đi rồi, vẫn ánh lên màu bạc
long lanh, nhìn thật thích mắt. Người nó to lắm, nặng có dễ đến bảy chục
cân! Cha dương tôi đùa: “Cái Yến có thích thì nhảy lên cưỡi, phi như
phi ngựa được đấy!” Mà Lusia phi như ngựa thật nếu thả nó ra một đồng cỏ
rộng. Đó là về sau, khi chúng tôi được cha dượng chở xuống trang trại
trồng rau của cha. Ở đó có những bãi cỏ mênh mông được viền bằng cánh
rừng bạch dương hay một vài cụm nhà gỗ sơn xanh, sơn vàng, trên nóc tỏa
khói mờ dìu dịu. Tôi và Lusia tha hồ chạy nhảy, tưởng như không bao giờ
phải trở về với căn phòng chật hẹp ở trung tâm Moscow nữa.
Một
lần, chúng tôi cùng ngẩn ngơ trước một cánh đồng hoa hướng dương bất ngờ
xuất hiện trong tầm mắt. Khi ấy là độ tháng 8. Nắng không còn gay gắt
nữa và bắt đầu chớm có gió lạnh làm gai người. Những mặt trời nhỏ rực rỡ
bừng lên trên đồng khiến cả hai chúng tôi đều mê đi vì vui sướng. Lusia
phi một vòng quanh cánh đồng hoa sủa váng lên. Bọn chim chóc trong bụi
hốt hoảng bay vèo ra đằng xa. Những con chim xanh đuôi dài đỏm dáng luôn
là “đối tượng” của Lusia. Nó đuổi chim nhưng mặt tươi hơn hớn (hay là
do tôi tưởng tượng ra nhỉ?) nên trông nó không giống chó săn, mà giống
một con gấu ngờ nghệch đáng yêu như kiểu gấu Pooh ấy. Chỉ khác là “con
gấu” này trắng muốt, đẹp lộng lẫy… Thế giới của Lusia phải là những cánh
đồng cỏ bạt ngàn hoặc là miền vùng núi Kavkaz chứ không thể là nơi tù
túng như nhà tôi được. Mỗi lần trở về nhà, tôi lại thầm thở dài thương
nó. Lusia nằm ở cửa, cố thu mình nhỏ lại, đầu dúi dụi xuống sàn, mắt
nhìn lơ láo, mông lung.. Dường như nó đang tưởng lại tiếng gió đồng,
tiếng chim ríu ran và tiếng cỏ gai xào xạc…
Chẳng bao lâu, cha
dượng đã không còn bắt nó ở lại căn phòng chật hẹp này nữa. Thì ra, cha
mua Lusia về để luyện cho nó trông bãi rau của cha, chứ đâu phải cho
tôi! Nhưng niềm vui thấy Lusia được tung hoành nơi có không gian phóng
khoáng đã làm mờ đi nỗi ấm ức vì “bị lừa gạt” của tôi. Tôi bằng lòng để
nó đi cùng cha dượng, đôi khi bặt tăm hơi cả tuần mới trở về. Bộ lông
ngả màu vì đất cát, nhưng mặt mũi hả hê. Thậm chí, mùi từ người nó tỏa
ra cũng không nồng nồng, hôi hôi như trước mà tưởng như có lẫn mùi cỏ
mùi bùn, nó dễ chịu hơn thì phải. Tôi hì hụi tắm cho nó trong bồn. Bồn
tắm chật quá khiến công việc này rất vất vả. Cuối cùng, sau một hồi kiên
nhẫn chịu đựng bọt xà phòng thì nó cũng trở lại một cô chó xinh đẹp to
lớn của tôi, con Gấu bông khổng lồ nhất thế giới! Tôi dẫn Lusia đi dạo
dưới đường, bọn trẻ bu lại hỏi:
- Gấu à chị?
- Ừ, gấu. Gấu Bắc cực đấy!
Lũ nhóc nửa tin nửa ngờ. Có đứa thấy tôi cho Lusia ăn miếng xúc xích, kêu lên:
- Bọn mày ơi, không phải Gấu đâu. Gấu chỉ mút chân mút tay, không ăn xúc xích!
Chuyện này làm tôi buồn cười, vui suốt cả một buổi chiều.
Cha
dượng thì kể, từ khi có Lusia đi cùng, cứ “thằng cha” công an nào tuýt
xe cha lại là y như rằng phải vội vã “thả” đi ngay. Lusia ngồi chồm hỗm ở
băng ghế sau, mũi khịt khịt, nhổm ngay dậy nôn nóng. Tôi thì tôi biết
cô nàng muốn ra, chứ còn gã công an chắc hẳn hãi lắm. Vóc dáng của Lusia
khiến nó trở nên dữ tợn trong mắt người lạ. Kỳ thực, nó rất hiền. Nó
hiền nhất lúc nằm dưới chân tôi, mắt tròn bé như hạt nhãn ngước lên nhìn
hiền lành, thân mến.
* * *
Năm ấy công việc làm ăn thuận
lợi. Mẹ tôi giao hàng ở chợ Vòm, hết “công” này đến “công” khác. Tuy có
vất vả đôi chút nhưng vui. Mẹ cũng ít ngồi ngán ngẩm chép miệng, kể lể
chuyện cha đẻ tôi như năm ngoái. Tôi chỉ thầm tự hỏi, không hiểu sao đã
có tiền rồi mà mẹ không thuê được căn hộ tử tế, ít ra cũng có hai phòng
riêng rẽ! Chiếc ri-đô giữa phòng luôn đập ánh màu lòe loẹt của nó vào
mắt tôi, rung rinh trêu ngươi tôi, khiến tôi cảm thấy bực bội muốn điên
lên được. Nhất là, những khi cha dượng hứng chí bật nhạc vàng, những bài
có Ý Lan hát thì tôi chỉ muốn chết đi cho rảnh! Tôi lao ra ngoài trời.
Lusia theo sát tôi. Trời mùa Hè ở nước Nga, gần 11 giờ đêm rồi mà vẫn
sáng. Nhưng dù gì thì cũng là ban đêm, và không khí thoảng mùi tử đinh
hương vẫn vương vất thêm một thứ mùi khác nữa. Đó là mùi của sự bất
trắc. Song không ai dám trêu chọc tôi khi Lusia lúc nào cũng trung thành
bên cạnh, kể cả mấy thằng Tây đầu trọc hếu gần ốp chúng tôi ở, mặc đồ
da, chân đi giày mõm dài có đính đinh sáng loáng. Bọn ấy hay có dây xích
sắt thủ trong người, đã từng vào chỗ chúng tôi, đánh chảy máu một vài
thanh niên người Việt. Nhưng tôi cóc sợ, vì tôi đã có Lusia. Lusia, cô
bạn hiền hậu và dữ tợn của tôi, giúp tôi tránh được bọn xấu, và giúp tôi
tách xa cả người thân của mình nữa! Để tôi có được một khoảng trời
riêng, khoảng trời không có bất kỳ cái riđô nào cả, mênh mông và thơ
thới. chỉ có tôi và Lusia. Có thể có cả Kolia nữa, nếu cậu ấy muốn. Chỉ
mong sao cậu ấy thôi cái kiểu nhìn buồn bã ấy đi. À, mà ở đó có cả cha
tôi nữa. Nếu cha nghiện, tôi sẽ giúp cha cai nghiện Mặc dù tôi cũng chưa
rõ là bằng cách nào, nhưng có tình yêu là làm được tất, tôi tin thế.
Chỉ cần cha ngồi cạnh để cho tôi áp đầu vào vai cha một thoáng, giống
như Tania trong Chó hoang Đin-gô ấy.
Trong mùa Hè, có đợt tôi được
cha dượng cho về thăm trại rau. Tôi thích lắm. Những dãy nhà kính, nhà
bạt ni-lông trắng nằm song song, tươm tất, ánh lóa lên dưới nắng. Cha
dượng chỉ tay, cười ha hả: “Đây, trong này là Việt Nam đấy. Gi gỉ gì gi
cái gì cũng có nhé!” Từ 5 tuổi tôi đã ở Nga, nhưng tôi vẫn được nuôi dạy
theo kiểu Việt Nam. Tôi vẫn lớn lên bằng rau muống, rau cải… vì thế,
những dãy nhà rau xanh này đối với tôi thật là thân thương. Ngoài những
gian trồng rau muống, cải cúc, cải xanh, cải ngọt, mồng tơi, còn có giàn
mướp đắng lúc lỉu những quả xanh sần sùi, một gian nhỏ trồng rau thơm:
mùi tàu, húng chó, tía tô, rau răm… Nhưng chỉ được một tháng là cha
dượng cho dỡ hết cả khiến tôi tiếc đứt ruột. Rau lên xanh thì xanh mướt,
tím thí tím ngát, bản lá to rộng, nhìn thật thích mắt. Nhưng cha bảo,
rau thơm mà lá to mượt là vứt. Phải cằn cằn một tí mới đúng. Cha than
rau răm thì cay như ớt mà tía tô thì chẳng có tí mùi vị gì. Thì ra, ở
đây cha vẫn không thể có “Việt Nam” một cách hoàn toàn được! Bầu bí thì
cha dượng không cho trồng trong nhà ni-lông mà thả cho chúng bò khắp
đồng. Tôi và Lusia ra chỗ người ta đang thu hoạch rau bí, nhặt những
bông hoa bầu, hoa bí màu vàng ươm mang về cho mẹ. Mẹ tôi thích món hoa
bí xào tỏi. Mâm cơm có món này, mẹ có vẻ trầm hẳn, dường như lặng đi
trong một hồi tưởng cũ xưa nào đó. Rồi xuýt xoa: “Thơm quá….” Tôi thích
mẹ tôi những lúc ấy, như thể mẹ là người khác, không phải người đàn bà
đảm đang quán xuyến việc hàng họ ở chợ, nói năng chao chát như suốt chục
năm trời mẹ đã từng…
Những người đàn bà nông dân Nga, đầu đội
khăn cho đỡ nắng, đang cắm cúi dỡ dây bí, bó vào từng bó. Những gương
mặt hồn hậu hồ hởi chào đón tôi. Tôi đã thân với họ từ lâu, thấy gần gũi
với những con người ham làm hay nói này thế. Lần nào về, họ cũng dúi
cho tôi bó hoa hồng trồng trong nông trang. Hoa hồng chúm chúm tròn xoe,
đủ các màu và đặc biệt là rất thơm, có tên là… Mercedes (hừm, tôi chẳng
thấy có gì liên quan giữa hoa hồng và ôtô cả!).
- Mishka!(3)
3. Tiếng Nga, nghĩa là “Gấu con”.
Họ
gọi Lusia rồi phá lên cười khi thấy Lusia đứng ngẩn ngơ vì bị tia nước
từ dãy vòi nước nằm ngang trên xe công nông phun bắn vào mắt. Rồi nó lao
theo sau xe, sủa nhắng lên vui vẻ. Đôi lúc, nó chạy dấn lên song song
với chiếc xe, khéo léo há miệng đón những tia mát lành. Trên đồng, những
chiếc xe như thế đi đi lại lại ngày hai bận. Những người nông dân không
phải vất vả tưới tắm cho đồng ruộng như ở Việt Nam. Cha dượng bảo tôi
vậy. Cha xuất thân từ nông dân nên thạo việc trồng trọt lắm. Tôi cũng
thích nhìn cha chỉ đạo những người đàn bà Nga trồng tỉa. Ngẩng cao mái
đầu đã điểm bạc, cha chỉ cho họ giống nào cần gieo dày, giống nào phải
trồng thưa, vẻ tự tin, phấn chấn, giọng sang sảng, tiếng Nga dường như
mất hẳn dấu huyền, dấu nặng mà cha vẫn hay dùng để tán cô bánh mỳ! Cha
mất hẳn cả vẻ lo lắng, khúm núm thường trực khi ở trong thành phố, nhất
là những lúc chạm mặt với công an. Không bó mình trong chiếc áo vét nhàu
nhĩ như khi đi ra chợ, quần xắn móng lợn thoải mái, lưng áo phông đẫm
mồ hôi, ông đi đi lại lại giữa các luống rau, vẻ tươi tỉnh. Không gian
phóng khoáng khiến ai cũng đẹp hơn, ít nhất là trong mắt tôi. Một điều
buồn cười là tôi cứ hay tẩn mẩn để ý xem trong những người đàn bà ở đây,
có ai là không có chồng, là mẹ-cô-đơn như trong thành phố. Thì thật là
bất ngờ, cả tổ nông trang trồng rau nhà kính lẫn những bà làm ngoài
đồng, ai ai cũng có một ông chồng đợi họ ở nhà. Họ nói đến chồng vừa âu
yếm, vừa ra vẻ không hài lòng vì “các lão ấy chậm chạp lắm, kiếm không
ra tiền nên vợ mới vất vả”. Có phải ở những nơi này, thiên nhiên phóng
khoáng cũng lại dễ giữ chân những người đàn ông hơn không?
Làng
quê yên bình, những con người hồn hậu, những cánh đồng khoai tây hoa
trắng dịu dàng, những buổi trưa nắng tràn trề khắp nẻo, tiếng người nô
đùa trên con sông gần đó vọng về… tất cả chẳng gợi điều gì đáng lo ngại
hết. Tôi không hiểu cha cần Lusia để canh giữ cái gì! Rau cỏ của người
Việt thì dân Nga không biết ăn. Họ chỉ hay vặt cà chua dưa chuột của
nông trang đem về nhà thôi. Mà ê hề ra đó, tôi chẳng thấy ai cấm đoán ai
điều gì cả! Khi mọi thứ quá nhiều thì việc lấy của công làm của riêng
tự nhiên không còn là ăn cắp nữa!
Thảng hoặc lắm, tôi thấy những
người từ Ucraina và Belarus đến đây làm thuê ngồi lơ vơ hóng gió ở ghế
đá gần căn nhà gỗ của Trại rau, mỗi người cầm chai bia trên tay, đôi khi
có thêm dăm con cá khô vobla(4) mùi tanh nồng lên. Những người này sống
trong nhà khách của Nông trường. Trông họ cũng chẳng có gì là đáng để
cho cha tôi đề phòng cả. Đàn ông, đàn bà đều ít nói hơn dân địa phương.
Dân tha hương mà, ai cũng như ai. Về xứ mình chắc họ lại ăn to nói lớn,
lại ồn ào như lễ hội. Và hình như họ chăm làm hơn dân địa phương nữa.
Những ngày nghỉ, cha tôi đi thuê thêm người dọn cỏ, đều phải vào Nhà
khách mới kiếm được người làm.
4. Loại cá nổi tiếng vùng Astrakhan, sấy khô làm mồi nhắm bia.
* * *
Cho đến một hôm, trên đường đưa rau về thành phố, tôi mới hiểu vì sao cha cần đến Lusia.
Xe
cha con tôi đi đến khúc quanh rẽ vào ốp Togi(5) thì có một chiếc số
4(6) đít dài và một chiếc Uaz(7) xanh lá cây thẫm ép lại. Cha dượng lẩm
bẩm: “Bắt đầu rồi đây”. Và dừng xe. Cha vừa mở cửa vừa huýt sáo gọi
Lusia. Cô nàng đang lim dim ngủ, nhổm ngay dậy, như đã quen quá với mệnh
lệnh có dấu hiệu đặc biệt này của chủ. Mọi khi, tôi không thấy cha huýt
sáo bao giờ, cả nhà thường chỉ gọi tên Lusia thôi. Lusia thò đầu ra cửa
sổ, sủa liên hồi kỳ trận. Chân dậm dậm nôn nóng, tưởng như lông của nó
cũng dựng đứng lên vậy. Người đi đường bắt đầu chú ý đến chúng tôi,
ngoái cả lại nhìn. Hai chiếc xe bí ẩn vừa ép chúng tôi vào lề đường vẫn
im phắc, chưa có động tĩnh gì. Chừng dăm phút trôi qua trong căng thẳng.
Chỉ có hàng rèm nâu chăng chung quanh các ô cửa xe Uaz hình như lay
động.
5. Một trung tâm thương mại của người Việt, nằm ở phía Nam của Moscow.
6. Loại xe Zhiguli hay dùng để chở hang.
7. Loại xe 12 chỗ ngồi, “đi mọi địa hình” của Nga, rất thông dụng trong thời chiến.
Cửa
xe số 4 mở ra. Một thanh niên Việt Nam nhỏ thó, đầu húi cua gần như
trọc lốc, bước ra. Anh ta mặc áo da màu đen, giống loại áo mà mẹ tôi hay
“đánh” từ Thổ về. Cố tỏ ra khuềnh khoàng, hắn chậm rãi bước đến gần cha
tôi, lúc ấy đã xuống xe, cười khẩy: “Lại diễn vở cũ hả ông anh?” “Chú
muốn gì?” - cha dượng hỏi, giọng bình tĩnh. Gã thanh niên cũng bình thản
kéo dài giọng: “Muốn cái điều mà lần trước em đã nói. Mỗi người một thị
trường anh ạ. Nếu anh còn ngoan cố, bọn em không để yên đâu. Em trước
là hội nhà Bình thổ đây”.
Người tôi lạnh toát đi. “Nhà Bình thổ” -
cái tên này tôi vẫn thường nghe người lớn nhắc đến trong những câu
chuyện kể như phim kinh dị về nhóm người Việt Nam chuyên đòi nợ thuê,
trấn cướp cộng đồng. Tôi vẫn nghĩ mọi người thêu dệt thêm cho thêm phần
huyền hoặc thôi, chứ làm gì đến nỗi thế. Nào cứa cổ, nào là mặt, xẻo
tai. Tôi không bao giờ tin vào những tin đồn nhảm ấy. Thế mà không hiểu
sao, lúc này, nghe gã nhắc đến cái tên nổi tiếng giang hồ nọ, tôi lại
thấy bủn rủn chân tay. Bất giác, tôi ngồi sát vào Lusia hơn, nghe cái
nóng ấm sôi nổi từ người con vật đang truyền qua cho mình, thấy yên tâm
phần nào. Trong lúc ấy, Lusia vẫn không ngừng sủa. Khác với những lần
đuổi chim trên đồng, bấy giờ, Lusia căng thẳng và phẫn nộ, mắt nó như có
lửa, đỏ vằn lên. Nó không còn hiền khô như một con gấu bông nữa. Mõm nó
dài và nhọn ra, như loài lai-ca. Đôi khi nó ngừng sủa để gầm gừ những
tiếng dọa dẫm trong cổ họng.
Không biết cha tôi nói gì với gã
thanh niên vì tiếng Lusia đã át cả tiếng người, tôi không nghe rõ. Chỉ
thấy vài ba gã thanh niên cao lớn từ chiếc Uaz nhảy ra, đứng quanh cha
dượng tôi. Một tên túm vào cổ áo cha, hẩy dúi ông vào góc xe. Tức thì,
tôi chưa kịp định thần, đã thấy cái bóng trắng khổng lồ của Lusia lao
xuống, không một tiếng động. Nó thôi không sủa nữa, lẳng lặng đớp ngập
răng vào khuỷu tay tên ấy. Tiếng gầm gừ của nó khiến tôi hình dung nó
đang nghiến hai hàm răng nhọn hoắt vào nhau, và tay gã kia hẳn đã nát
nhừ.
Sau đó tôi chẳng còn nhớ gì rõ ràng nữa. Tôi thoáng thấy một
tên chạy ra trước mũi xe to, rút chiếc gậy sắt gài ở đầu xe. Tiếng người
rú lên, tiếng chó tru ăng ẳng, đau đớn.
* * *
Nỗi đau đớn
này còn theo tôi rất lâu. Mỗi năm nó một dịu đi, nhưng vẫn như cái dằm
nằm sâu đâu đó trong tim tôi vậy. Mùa Hè, khi gió nam tràn về trên cỏ,
bãi cỏ gần trường Đại học của tôi cũng ngập tràn những bông hoa cúc kim
bé bỏng, thì cái dằm ấy lại ngọ ngậy, khiến tôi đi, đứng, ngồi đều thấy
đau.
Lusia lần đó không chết. Nó chỉ bị thương nặng. Là con chó
trẻ độ tuổi sung sức, nó hồi lại rất nhanh, chỉ bị tật ở chân, đi cà
nhắc. Nhưng hình ảnh mớ lông trắng nhuốm đầy máu nằm thượt trên đường ăn
sâu vào trí nhớ luôn làm tôi rùng mình. Từ đó, tôi đâm ra thấy yêu mến
cái xã hội Nga ở trường học của tôi hơn, cố gắng hòa mình vào đó, như
tìm cho mình một góc thân quen ở nhà người lạ! Tôi sợ những người đồng
hương của tôi.
Mùa rau năm đó, cha dượng tôi vẫn trúng lớn. Hội
“Bình thổ” không dám động đến cha, nhưng chính cha lại quyết định thôi
trồng rau. “Mệt người, rầy rà…” - cha bảo vậy. Cha bán nhượng lại hết
những bịch hạt giống còn lại và cả cái cơ ngơi hàng chục mái nhà kính
cho bọn người ác ấy.
Tôi không hiểu nổi cha. Về đến thành phố, cha
lại trở thành con người khúm núm khó hiểu. Điều làm tôi bất ngờ và đau
đớn nhất là cha… bán Lusia. Cha làm điều đó khi vắng tôi. Và ông tránh
mặt tôi, bỏ đi thành phố xa một tuần. Mẹ cố gắng giảng giải cho tôi hơn
thiệt, rằng không trồng rau, không đi đường trường nữa thì không cần chó
to. Mà để nó mãi ở căn phòng bé tẹo này, cũng tội cho nó lắm. Hình như
cha bán nó cho một chủ trại ở vùng quê nào đó, ở đó, họ thích giống
Kavkaz khổng lồ như Lusia. Mẹ bảo cha đợi tôi nguôi ngoai rồi sẽ cho tôi
về đó thăm lại nó. Nhà chủ ấy họ yêu Lusia lắm và tôi có thể yên tâm,
không phải băn khoăn gì về nó cả.
Nhưng thời gian cứ trôi đi.
Những mùa Hè sau đó của tôi không còn bóng dáng của đồng cỏ bạt ngàn và
bầu trời phóng khoáng nữa. Tôi bận học. Cha mẹ bận buôn bán. Không một
lần nào cha dượng nhắc nhở về Lusia với tôi. Và tôi cũng không hỏi. Tôi
không tin câu chuyện về chủ trại kia, nhưng không muốn nghe một câu
chuyện khác, thật hơn và buồn hơn.
Năm đó, dưới đường, bên khu nhà
đối diện, không hiểu sao lũ thanh niên cứ chập tối lại hay túm tụm xập
xình đàn hát… Nếu tôi không nghe thấy bài Lusi được đệm tha thiết bằng
tiếng ghi-ta gỗ thì chắc hẳn tôi sẽ chìm đắm mãi vào những giấc mơ đau
buồn.
“Con chó bị mất rồi
Con chó sống trong sân nhà chúng tôi
Lũ trẻ âu yếm gọi
Lusi o o Lusi…
….
Chúng tôi không bỏ
Chúng tôi cần Lusi
Một tháng qua đi
Trẻ con vẫn tìm Lusi
Bỗng có điều gì
Xôn xao dưới đường
Mọi người nhìn qua cửa sổ
Lusi đang ở đó
Cùng tám chú chó con
…
Lusi.. Ô ô ô ô Lusi.”(8)
“Lusia, Ô ô ô ô Lusia…”
8. Lời bài hát Lusi của Gazmanov.
Tôi lẩm bẩm hát theo, mỉm cười nhìn thấy dáng to lớn lồng lộng của Lusia qua hàng nước mắt.