Đấu Trường Sinh Tử - Chương 17
Chấn động từ mặt đất nện
thổi tung cả người tôi. Cái ba lô không đỡ được là bao. May mắn thay, chiếc bao
đựng tên móc vào khuỷu tay đã giữ cho người tôi không bị bay quá xa, còn tay
kia tôi vẫn nắm chặt được cây cung. Mặt đất vẫn còn rung lên sau một loạt tiếng
nổ. Tôi không thể nghe thấy chúng. Tôi không thể nghe thấy gì vào lúc này. Nhưng
những quả táo hẳn đã làm nổ hết số mìn, bởi những mảnh vỡ tiếp tục kích hoạt những
trái còn lại. Tôi lấy cả hai tay chắn trước mặt khi những mảnh vụn, một số đang
bốc cháy, rơi lả tả xuống đầu. Không khí ngột ngạt bởi khói bụi, khiến tôi
không cách nào thở được.
Sau khoảng một phút, mặt
đất đã ngừng rung chuyển. Tôi từ từ quay người lại, cho phép mình có một thoáng
thỏa mãn trước đống đổ nát đang âm ỉ cháy mà trước đó ít lâu còn là một ngọn
tháp trữ đồ. Bọn Nhà nghề khó có thể kiếm lại được thứ gì từ đó.
Tốt hơn là mình nên chuồn
ngay, tôi nghĩ. Chúng sẽ tăng hết tốc lực để về đây trong thời gian ngắn nhất.
Nhưng vừa đứng dậy, tôi nhận ra việc bỏ trốn không hề đơn giản. Đầu óc tôi
choáng váng. Không phải chỉ hơi lảo đảo, mà tôi còn thấy cây cối đang ngả xuống
xung quanh mình và mặt đất đang mấp mô dưới chân. Tôi cố thêm vài bước nhưng rồi
phải chống cả hai tay và đầu gối xuống đất. Tôi chờ vài phút để tỉnh táo lại
như cũ nhưng không thể.
Nỗi hoang mang bắt đầu
vây lấy tôi. Tôi không thể ở đây. Nhất định phải chạy đi. Nhưng tôi không thể
đi được và cũng không nghe thấy gì. Tôi sờ vào tai trái, bên tai đã hướng về
phía vụ nổ, và có máu đang chảy ra. Liệu tôi có bị điếc sau vụ nổ? Ý nghĩ đó
làm tôi phát hoảng. Khi đi săn đôi tai cũng cần thiết với tôi như đôi mắt, có
khi còn quan trọng hơn. Nhưng tôi không thể để lộ nỗi sợ hãi. Điều rõ ràng, đến
một trăm phần trăm, là tôi đang xuất hiện trên mọi màn hình ở Panem.
Không để lại vết máu,
tôi tự nhủ, và kéo mũ trùm qua đầu, thắt dây buộc dưới cằm bằng những ngón tay
đang run rẩy. Như thế này sẽ giúp thấm máu. Không đi được, nhưng liệu tôi có thể
bò? Tôi ngả người tới trước. Đúng thế, nếu đi quá chậm, tôi có thể bò. Những bụi
cây ở đây không phải nơi che chắn an toàn. Hy vọng duy nhất của tôi là trở lại
bụi cây của Rue và giấu mình vào đám lá. Tôi không thể để bị tóm trong tư thế
chống tay và đầu gối ở ngoài này. Tôi không những sẽ bị giết, mà chắc chắn đó
còn là một cái chết đau đớn và kéo dài dưới tay Cato. Khi nghĩ Prim phải chứng
kiến điều đó, tôi kiên quyết trườn về nơi ẩn náu.
Một cú nổ nữa ép tôi
ngã sấp xuống đất. Một quả mìn lạc đàn, bị kích hoạt bởi một chiếc sọt đổ xuống.
Điều này còn xảy ra hai lần nữa. Nó làm tôi nhớ lại mấy hạt ngô mãi mới chịu nổ
bung ra khi Prim và tôi ném chúng vào ngọn lửa ở nhà.
Nói rằng tôi trở lại bụi
cây vừa kịp quả là hơi quá. Tôi vừa thu mình vào bụi rậm bên dưới những gốc cây
thì Cato đã lăm lăm tiến về bãi đất, đồng đội của gã theo ngay phía sau. Hắn giận
dữ cùng cực, đến mức nếu không phải đã biết hắn đang nhắm vào tôi và biết mình
đã gây ra những gì cho hắn thì tôi đã thấy buồn cười - hóa ra có người giận đến
vò đầu bứt tai và đấm thình thịch xuống đất thật. Thêm vào đó, việc đang ở rất
gần bọn chúng, việc không thể bỏ chạy hay tự vệ khiến tôi không khỏi hoảng sợ.
May là khi núp ở đây người ta không thể quay tôi cận cảnh, bởi tôi đang cắn
móng tay như thể sắp chết đến nơi. Tôi gặm đến mòn móng tay, cố giữ hai hàm
răng không va vào nhau lộp cộp.
Thằng Quận 3 phải ném mấy
hòn đá vào đống đổ nát để xác nhận là toàn bộ mìn đã được kích nổ, bởi sau đó bọn
Nhà nghề bắt đầu tiến lại đống mảnh vụn.
Kết thúc giai đoạn một
của cơn tam bành, Cato tiếp tục xả giận lên đống tàn tích đang bốc khói bằng
cách đá tung nắp những chiếc thùng. Những đứa khác đang mò mẫm xung quanh đống
lộn xộn, tìm xem còn thứ gì có thể lấy lại được, nhưng vô vọng. Thằng Quận 3 đã
hoàn thành công việc tốt hơn mức cần thiết. Hẳn là Cato cũng có ý nghĩ đó bởi hắn
bắt đầu quay sang nạt nộ nó. Nó chỉ mới kịp quay người định chạy đi thì đã bị
Cato tóm lấy bằng một cú kẹp cổ từ phía sau. Tôi có thể trông thấy cơ bắp tay
Cato cuồn cuộn nổi lên khi hắn đột ngột vặn đầu đối phương sang một bên.
Rất nhanh. Cái chết của
vật tế Quận 3.
Hai đứa Nhà nghề khác
có vẻ đang cố làm Cato nguôi giận. Có lẽ hắn định trở lại khu rừng, nhưng hai đứa
kia cứ chỉ tay lên trời khiến tôi thắc mắc một lúc trước khi kịp hiểu ra, Dĩ
nhiên rồi. Chúng nghĩ dù kẻ nào gây ra vụ nổ này thì cũng đã chết. Chúng không
biết gì về những mũi tên và bọc táo. Chúng nghĩ cái bẫy mời dụ này bị trục trặc,
nhưng kẻ đã làm nổ tung đống đồ cũng đã bỏ mạng. Nếu như có tiếng pháo, nhiều
khả năng nó đã bị những tiếng nổ liên tiếp át đi. Những mảnh thi hài sót lại của
kẻ trộm đã bị phi thuyền gom đi. Chúng lui về phía bên kia chiếc hồ để đợi Ban
Tổ chức lấy thi thể của thằng Quận 3. Và chúng đợi. Tôi nghĩ là tiếng pháo đã
vang lên. Một chiếc phi thuyền xuất hiện và mang cái xác đi. Mặt trời chìm xuống
đường chân trời. Bóng tối bao phủ. Nhìn lên bầu trời, tôi thấy con dấu của
Capitol và biết rằng tiếng quốc ca hẳn đang cất lên. Khoảnh khắc của bóng đêm.
Hình thằng Quận 3 trên bầu trời. Hình thằng Quận 10, hẳn đã chết sáng nay. Rồi
con dấu biến mất. Bây giờ thì bọn chúng đã biết. Kẻ đánh bom vẫn còn sống.
Trong ánh sáng từ con dấu trên bầu trời, tôi có thể thấy Cato và con nhỏ Quận 2
đang đeo kính đêm. Thằng Quận 1 nhóm lửa vào một cành cây làm đuốc, làm những
khuôn mặt tàn nhẫn sáng rực lên. Bọn Nhà nghề rảo bước vào rừng bắt đầu cuộc
săn lùng.
Đầu tôi đã bớt váng và
tuy tai trái vẫn còn điếc, tai phải của tôi đã có thể nghe thấy những tiếng ong
ong, một dấu hiệu tốt. Mặc dù vậy, không có lý gì tôi lại bỏ nơi trú ẩn của
mình. Tại đây tôi khá an toàn, trong khi bên ngoài bọn chúng đang săn lùng. Có
thể chúng nghĩ kẻ đặt bom đã đi cách chúng hai hoặc ba giờ. Tuy vậy, tôi phải
chờ một lúc nữa trước khi dám ra ngoài.
Việc đầu tiên phải làm
là đeo kính vào, thứ này khiến tôi thoải mái hơn một chút, ít nhất thì một
trong những giác quan đi săn của tôi đã hoạt động trở lại. Tôi uống một chút nước
và lau máu trên tai. Lo rằng mùi thịt quay sẽ thu hút đám thú ăn thịt không
mong muốn - mùi máu tươi của tôi đã là đủ lắm rồi - tôi lấy rau rừng, rễ củ và
những quả dâu vừa hái được hôm nay ra làm một bữa kha khá.
Cô đồng minh nhỏ bé của
tôi đâu rồi nhỉ? Liệu nó đã trở về điểm hẹn chưa? Liệu nó có lo lắng cho tôi?
Ít nhất thì bầu trời cũng cho thấy cả hai đều còn sống.
Tôi nhẩm đếm bằng tay
những vật tế còn sống sót. Thằng Quận 1, hai đứa Quận 2, con Mặt cáo, hai đứa
Quận 11 và 12. Chỉ còn lại tám người. Không khí cá cược hẳn đang sốt lên ở
Capitol. Lúc này hẳn họ sẽ làm những chương trình đặc biệt về mỗi người chúng
tôi. Có thể là phỏng vấn bạn bè và gia đình bọn tôi. Đã lâu rồi mới có một đấu
thủ từ Quận 12 lọt vào tốp tám người. Vậy mà lúc này có đến cả hai đứa chúng
tôi. Dù Cato có nói thế nào, Peeta vẫn còn sống. Cato không phải là kẻ quyết định
mọi chuyện. Chẳng phải hắn vừa mất sạch kho đồ đấy ư?
Hãy để Đấu trường Sinh
tử lần thứ Bảy mươi tư bắt đầu, Cato ạ, tôi nghĩ. Hãy để cuộc chiến thực sự bắt
đầu.
Một làn gió lạnh thổi đến.
Tôi mò lấy chiếc túi ngủ trước khi nhớ ra là đã để lại cho Rue. Tôi đã định kiếm
lấy cái khác, nhưng sau những gì xảy ra với bãi mìn và những chuyện khác, tôi
quên khuấy mất. Người tôi bắt đầu run lên. Dù sao thì việc ngủ qua đêm trên cây
cũng không hợp lý lắm nên tôi khoét một cái hố dưới bụi cây và che mình bằng lá
cây và những chùm lá thông, vẫn lạnh đến run người. Tôi trải tấm bạt nhựa lên
trên cơ thể và dùng chiếc ba lô chắn gió. Có khá hơn một chút. Tôi bắt đầu cảm
thông với con bé Quận 8, đứa đã đốt lửa trong cái đêm đầu tiên. Nhưng giờ đây
chính tôi mới cần phải nghiến răng và chịu đựng cho tới sáng. Thêm lá cây, thêm
lá thông. Tôi đút hai cánh tay vào bên trong áo khoác và quắp hai đầu gối lên
ngực. Bằng cách nào đó, tôi rơi vào giấc ngủ.
Khi tôi mở mắt, mọi thứ
xung quanh trông như vừa rạn nứt chút đỉnh, và phải một phút sau tôi mới nhận
ra là mặt trời đã lên cao và chiếc kính làm mọi thứ rạn nứt trước mắt tôi. Ngồi
dậy và tháo kính ra, tôi nghe thấy tiếng cười ở đâu đó ở gần hồ, làm tôi sởn
gai ốc. Tiếng cười méo mó, nhưng việc nghe thấy chúng chứng tỏ thính giác của
tôi hẳn đang được phục hồi. Chính xác, tai phải của tôi đã nghe được trở lại, mặc
dù vẫn còn ong ong. Còn tai trái, tốt rồi, ít nhất là đã ngừng chảy máu.
Tôi ngó qua bụi rậm, sợ
rằng bọn Nhà nghề đã trở lại, nếu thế thì tôi sẽ kẹt ở đây không biết đến bao
giờ. Không, đó là con Mặt cáo, nó đang đứng trên đống vụn của ngọn tháp và cười.
Con bé lanh hơn bọn Nhà nghề nên cuối cùng đã tìm được vài thứ hữu ích trong đống
tro tàn. Một chiếc bình kim loại, một lưỡi dao. Đang không hiểu con bé thích
thú vì lẽ gì thì tôi chợt nhận ra việc kho đồ của bọn Nhà nghề bị phá hủy thực
sự là một cơ hội đối với nó. Cũng như đối với chúng tôi. Tôi chợt nghĩ đến việc
đi ra và rủ nó làm đồng minh thứ hai của mình để chống lại bọn còn lại.
Nhưng tôi xua ngay ý
nghĩ này. Có thứ gì đó trong nụ cười ranh mãnh đó khiến tôi dám chắc rằng việc
kết bạn với Mặt cáo rút cục sẽ chỉ là nuôi ong tay áo. Nói như vậy, thì đây
chính là thời điểm tuyệt vời để bắn nó. Nhưng nó nghe thấy tiếng gì đó, không
phải tôi gây ra, vì đầu nó quay sang một bên, về nơi có tiếng động, và nó chạy
như bay vào rừng. Tôi chờ. Không có ai, không có thứ gì xuất hiện. Tuy vậy, nếu
Mặt cáo nghĩ rằng điều đó nguy hiểm, có lẽ tôi cũng nên thoát khỏi đây. Hơn nữa,
tôi đang háo hức muốn kể cho Rue về ngọn tháp.
Bởi không biết bọn Nhà
nghề đã đi đâu nên với tôi, con đường trở về men theo dòng suối có vẻ vẫn là lựa
chọn tốt. Tôi đi vội, một tay cầm cung, tay kia cầm miếng thịt gô-linh đã nguội,
bởi tôi đang lả cả người, không phải đói lá cây và dâu mà đói chất béo và chất
đạm trong miếng thịt. Hành trình diễn ra yên ổn. Tới bờ suối, tôi đong đầy bình
nước và rửa mặt, đặc biệt chăm sóc kỹ bên tai bị thương. Rồi tôi đi ngược lên đồi,
vẫn lấy con suối dẫn đường. Bất chợt, tôi thấy những vết ủng hằn trên mặt bùn
bên bờ suối. Bọn Nhà nghề đã ở đây, nhưng lâu rồi. Dấu ủng sâu vì mặt bùn khá xốp,
nhưng giờ thì chúng bắt đầu khô đi dưới ánh mặt trời. Tôi đã không cẩn thận lắm
với đoạn đường đã đi. Chỉ bước nhẹ chân và lấy lá thông che dấu chân là chưa đủ.
Tôi tháo tất ủng và đi chân trần trên lòng suối.
Nguồn nước lạnh làm cơ
thể và tinh thần tôi sảng khoái. Tôi bắt được hai con cá, chúng khá dễ tóm dưới
dòng chảy chậm như thế này, rồi đi tiếp và ăn sống một con dù vẫn còn gô-linh.
Con còn lại tôi để dành cho Rue.
Từng chút từng chút một,
tiếng ong ong trong tai phải tôi bớt dần rồi tắt hẳn. Chốc chốc tôi lại sờ vào
tai trái, tìm cách xua đi bất cứ thứ gì làm giảm khả năng nghe. Thực ra nếu có
tiến triển gì thì tôi cũng chẳng nhận ra được. Người ta đâu thể điều chỉnh độ
điếc của tai. Điều này khiến tôi mất thăng bằng và cảm thấy bên trái mất khả
năng tự vệ. Không khác gì bị mù. Đầu tôi cứ quay sang bên bị thương còn tai phải
cố gắng bù đắp cho việc âm thanh bị ngăn cản khi lọt sang bên kia, trong khi
hôm qua thì tín hiệu vẫn lọt từ tai này qua tai kia bình thường. Càng lúc hy vọng
sẽ lành vết thương của tôi càng thấp.
Khi đến được nơi tôi và
Rue gặp nhau lần đầu, tôi cảm thấy mọi thứ vẫn không có gì thay đổi. Không có dấu
hiệu nào của Rue, cả dưới đất lẫn trên cây. Thật lạ. Đến giờ này, đã tầm trưa,
nó phải về đây rồi chứ. Không nghi ngờ gì nữa, đêm qua nó đã ngủ trên một cái
cây nào đó. Nó còn làm được gì nữa khi không có ánh sáng và bọn Nhà nghề với
kính đêm lục soát cả khu rừng. Và đống lửa thứ ba mà nó phải đốt - dù tối qua
tôi không để ý - là ngọn xa nhất tính từ đây. Chắc vì nó đang thận trọng khi
quay về. Giá như nó đi nhanh lên thì tốt, tôi không muốn chờ ở đây lâu. Tôi muốn
chiều nay chúng tôi sẽ đi lòng vòng phía trên kia, vừa đi vừa săn. Nhưng thực sự
thì tôi không biết làm gì khác ngoài chờ đợi.
Tôi chùi máu khỏi áo
khoác và tóc, rửa sạch những vết thương cứ ngày một nhiều thêm. Những vết phỏng
đã khá lên trông thấy, nhưng tôi vẫn thoa một ít thuốc, vấn đề đáng lo nhất là tránh
nhiễm trùng. Tôi tiếp tục đi và ăn nốt con cá thứ hai. Đồ ăn không để được lâu
dưới trời nóng như thế này, mà xiên thêm mấy con nữa cho Rue cũng chẳng khó
khăn gì. Miễn là nó có đến.
Ở trên mặt đất với
thính giác bị lệch khiến tôi cảm thấy thật dễ bị tấn công, vì vậy tôi leo lên
cây chờ. Nếu bọn Nhà nghề có đến, đây sẽ là nơi thích hợp để bắn chúng. Mặt trời
di chuyển chậm rãi. Tôi làm gì đó giết thời gian. Nhai lá và đắp chúng lên những
vết đốt, vốn đã dịu nhưng vẫn còn xót. Lấy ngón tay chải mái tóc ẩm ướt và tết
lại. Thắt lại dây ủng. Kiểm tra cây cung và chín mũi tên còn lại. Nhiều lần thử
tai trái xem còn dấu hiệu sống nào không bằng cách đánh lá xào xạc bên tai,
nhưng không thu được kết quả khả quan.
Dù đã chén gô-linh và
cá, dạ dày của tôi vẫn sôi lên, tôi biết là mình đang phải hứng chịu cái cảm
giác đói thủng ruột như đã từng trải qua ở Quận 12. Đó là lúc bất kể bạn chén
thứ gì vào dạ dày, bạn vẫn không thể nào hết đói. Ngồi trên cây mà không có việc
gì làm khiến cái đói càng tồi tệ hơn nên tôi quyết định ăn thứ gì đó. Rốt cục,
tôi đã sụt ký khá nhiều trong trường đấu; tôi cần thêm nhiều calo hơn nữa. Và
việc có cung tên trong tay khiến tôi tự tin hơn về những ngày phía trước.
Tôi chậm rãi bóc vỏ
nhúm quả hạch còn lại. Thêm chiếc bánh xốp cuối cùng. Cả chiếc cổ gà rừng. Chẳng
đến nỗi nào, vì xử lý sạch sẽ chỗ này cũng mất kha khá thời gian. Cuối cùng là
chiếc cánh, và con gô-linh về miền cực lạc. Nhưng vì cơn đói khủng khiếp này
không ở mức bình thường, nên ngay sau đó tôi lại bắt đầu mơ tưởng đến đồ ăn. Nhất
là những đĩa đồ ăn đầy ắp ở Capitol. Thịt gà trong xốt nước cam đánh kem. Bánh
ngọt và pút đinh. Bánh mì và bơ. Mì với nước xốt màu lục. Thịt cừu với mận khô
hầm. Tôi nhấm nháp mấy lá bạc hà và tự nhủ cố quên cái đói. Bạc hà cũng tốt
thôi vì chúng tôi hay uống trà bạc hà sau bữa khuya, và nó giúp đánh lừa dạ dày
rằng thời gian cho bữa ăn đã hết. Đại loại thế.
Đung đưa trên cây, dưới
ánh nắng ấm áp, miệng ngậm bạc hà, tay cầm cung tên... đây là khoảnh khắc thư
giãn nhất mà tôi có được từ khi bước vào trường đấu. Chỉ cần Rue đến, chúng tôi
sẽ đi. Bóng râm ngày càng lớn dần, giống hệt như sự bồn chồn của tôi vậy. Đến xế
chiều, tôi quyết định đi tìm con bé. Ít nhất là tôi có thể đến nơi con bé đã đốt
ngọn lửa thứ ba và tìm xem có dấu vết nào về nơi nó đã đi hay không.
Trước khi đi, tôi rải mấy
chiếc lá bạc hà xung quanh đống lửa đã tàn. Bởi vì chúng tôi đã nhặt lá ở một
nơi khác, Rue sẽ hiểu rằng tôi đã về đây, trong khi chúng chẳng có ý nghĩa gì với
bọn Nhà nghề.
Chưa đầy một tiếng tôi
đã đặt chân đến điểm hẹn đốt ngọn lửa thứ ba và biết có điều gì đó chẳng lành.
Góc rừng khá gọn ghẽ, một đống lá khô được vun vén thành thạo nhưng chưa hề được
đốt. Vậy là đâu đó giữa cột khói thứ hai mà tôi thấy trước khi làm nổ đống đồ
và nơi này, con bé đã gặp rắc rối.
Tôi cố tự động viên rằng
con bé vẫn còn sống. Liệu có đúng không? Có thể nào tiếng pháo báo hiệu cái chết
của nó vang lên vào lúc sáng sớm khi ngay cả chiếc tai còn tốt của tôi vẫn yếu
đến mức không thể nhận ra? Tối nay người ta sẽ chiếu hình nó trên bầu trời ư?
Không, tôi không muốn tin điều đó. Có hàng trăm lý do khác để giải thích. Có thể
nó chỉ lạc đường. Chạm phải một toán thú ăn thịt hay một đấu thủ khác, Thresh
chẳng hạn, và phải trốn. Dù có điều gì xảy ra, tôi vẫn đinh ninh là con bé bị kẹt
ở đâu đó, giữa đám cháy thứ hai và đống lá chưa được châm lửa dưới chân tôi. Điều
gì đó buộc nó phải ở trên cây.
Tôi phải đi tìm hiểu.
Thật thoải mái khi làm
thứ gì đó sau khi ngồi không cả buổi chiều. Tôi rón rén bước qua những bóng
râm, lấy chúng làm tấm màn che. Nhưng xem ra chẳng có gì đáng nghi cả. Không có
dấu hiệu đánh nhau, không có cành thông gẫy trên mặt đất. Tôi dừng lại một chốc
để lắng nghe tiếng gì đó. Tôi phải ngước đầu nhìn xung quanh cho chắc, nhưng vẫn
nghe thấy tiếng đó. Đoạn nhạc bốn nốt của Rue phát ra từ một con húng nhại. Điều
đó nghĩa là con bé vẫn ổn.
Tôi cười khoái chí và
đi về hướng có tiếng chim. Một dãy nốt khác vang lên, khá gần ở phía trước. Rue
đã hát cho chúng, và chỉ mới đây thôi. Hoặc là chúng đã hót một bài nào khác. Cặp
mắt tôi ngước lên cây xem có dấu hiệu nào của nó hay không. Tôi nuốt nước bọt
và hát trả lại khe khẽ, hy vọng là ở đây không nguy hiểm. Một con chim húng nhại
lặp lại giai điệu đó cho tôi. Và tôi nghe thấy tiếng hét.
Đó là tiếng hét của trẻ
con, của một con bé; không ai ở trường đấu này có cái giọng đó trừ Rue. Và lúc
này tôi đang chạy, biết rằng có thể có bẫy, biết rằng ba đứa Nhà nghề có thể sẵn
sàng tấn công tôi, nhưng tôi không thể kìm lại. Có tiếng khóc lanh lảnh, lần
này là gọi tên tôi. “Katniss! Katniss!”
“Rue!” Tôi la trở lại,
để nó biết là tôi ở gần. Như vậy, chúng biết là tôi đang tới gần, con nhỏ từng
tấn công chúng bằng bầy bắt-là-cắt và nhận mười một điểm luyện tập mà chúng vẫn
chưa biết là vì đâu, đủ để làm chúng cảnh giác. “Rue! Chị tới đây!”
Khi tôi thoát ra khỏi
lùm cây, con bé đang nằm trên mặt đất, bị mắc trong một chiếc lưới một cách vô
vọng. Con bé chỉ kịp với tay qua mắt lưới và gọi tên tôi trước khi ngọn lao đâm
vào người nó.