Tuổi thơ trong chiến tranh - Chương 10
ĐÓT THUỐC LÁ VÀ NHỮNG DẤU GIÀY..
Cuối cùng rồi tôi cũng biết được điều bí mật của tấm ảnh trắng
đen cỡ nhỏ và mảnh giấy gấp gọn, cuộn tròn như ngón tay út mà cô Ba Lùng lén
đưa cho mẹ t
ôi hôm nọ. Đó là lá thư anh Hai tôi viết ở vùng giải phóng
An Lâu gửi về cho gia đình. Thư viết khá dài. Cả hai mặt tờ giấy ca-rô xé từ cuốn
sổ ghi chép dày đặc những chữ bé tí xíu như đầu que tăm. Mẹ tôi chịu, coi không
ra! Và nhờ vậy, tôi mới được đọc lá thư ấy... Trời trưa tròn bóng. Thằng Cu Đen
dẫn thằng Cu Em vô chùa Tế Nam tìm bắt dế than nuôi trong hũ chao để chơi trò
chọi dế với thằng Khương, thằng Đào con bà Thận. Anh Bốn tôi đi học. Còn bà
hàng xóm “cu đê đê” cũng không sang nhà mẹ tôi chơi, ăn trầu, nói chuyện tào
lao bao đồng như thường lệ. Cái nắng chói chang khiến mọi người phải giam mình
trong những mái nhà tranh thấp tè, không muốn bước ra ngoài, nên xóm Chùa yên ắng
vắng vẻ...
Trong thư, anh Hai tôi kể rằng, tthoát ly đi kháng chiến anh
vẫn luôn mạnh khỏe. Bệnh hen suyễn không tái phát mỗi khi thời tiết thay đổi
như lúc ở nhà. Có lẽ do ăn thịt mèo đen nên khỏi bệnh. Hiện anh đang là chiến
sĩ giải phóng quân, công tác tại một đơn vị hậu cần. Anh cũng cho biết, sau khi
Hiệp định Paris - 1973 được ký kết, tình hình chiến sự không còn “căng thẳng”
như trước nữa. Vùng tự do của ta đã hết cảnh bom rơi đạn nổ triền miên. Dân bám
trụ ở Quế Tiên, Thăng Phước... không những được sống an bình, mà thỉnh thoảng
còn được xem phim của miền Bắc xã hội chủ nghĩa do bên Tuyên huấn chiếu phục vụ
cán bộ và nhân dân. Quân ngụy cũng thôi hung hăng hiếu sát. Bọn chúng cầm súng
đứng gác trên đồi cao giữa ban ngày, thấy đơn vị hậu cần của anh cõng gạo đi
phía dưới, vẫy tay cười hỏi “Có mệt không?”. Anh bảo hòa bình đang đến gần, chẳng
bao lâu nữa nước nhà sẽ thống nhất... Anh dặn mẹ tôi cố gắng cho anh em tôi đi
học để kiếm dăm ba chữ làm người. Cuối thư anh đề: “Con của mẹ: Vương Hằng”.
Anh chơi chữ. Vương Hằng nói lái thành Văn Hường. Văn là tên khai sinh. Hường
là tên thường dùng. Tôi nghiệm ra ngay. Mẹ tôi nghe tôi đọc xong vội cầm lá thư
bỏ vào bếp lửa, rồi dặn: “Con chớ có dại dột nói với ai mà chết cả nhà, rõ
chưa?”. Tôi biết, anh Ba tôi đã đọc lá thư ấy cho mẹ nghe rồi. Nhưng trước khi
nhờ “bà hỏa” phi tang, mẹ tôi muốn tôi đọc cho nghe lần nữa. Còn tấm ảnh đen trắng
chụp bán thân cỡ nhỏ, mẹ tôi đem cất kỹ. Khi nào nhớ anh Hai tôi, lựa lúc nhà
không có người vô ra, mẹ lại đem ra nhìn ngắm...
Và tấm ảnh trắng đen ấy đã gây bao phiền hà rắc rối cho gia
đình tôi! Nguyên do bởi một hôm mẹ tôi đang ngồi xem ảnh anh Hai tôi thì bất ngờ
bà hàng xóm “cu dê đê” sè sẹ đến từ phía sau trông thấy. Bà ta hỏi: “Hình thằng
Hường chụp ở vùng Cộng sản gửi cho ai đem về khi mô rứa bà?”. Mẹ tôi hoảng hồn,
nhưng rồi cũng nhanh chóng tự trấn an, cười bảo: “Bà nói tầm bậy! Đây là hình hắn
chụp khi tham gia phong trào Phật tử hồi còn đi học ở dưới Tam Kỳ. Tôi dọn dẹp
sách vở thư từ của hắn để ở góc nhà kia và tình cờ nhặt được...”. Bà hàng xóm
“cu dê đê”, thắc mắc: “Tôi thấy học sinh chụp hình lúc tham gia phong trào Phật
tử đều đội mũ búp sen. Đằng này... hình thằng Hường chụp đầu trần, tóc tai lại
cắt kiểu ca-rê trông giống hệt mấy ông Cộng sản! Hơn nữa, túi áo ngực hắn mặc
có nẹp giữa và có nắp đậy, ngó y chang áo quần quân giải phóng...”. Mẹ tôi đánh
trống lảng sang chuyện khác và đem cất tấm ảnh. Khi bà hàng xóm “cu dê đê” ra về,
mẹ tôi vội gửi bức hình anh Hai tôi cho “bà hỏa” giữ giùm để đề phòng hậu họa!
Quả nhiên, sau đó bà hàng xóm “cu dê đê” thường xuyên qua nhà tôi chơi và lặng
lẽ quan sát khắp nơi. Bà ta xuất hiện không theo một quy luật nào cả. Có bữa
vào trưa tròn bóng. Có bữa vào khoảng xế chiều. Có hôm khi trời chập choạng tối.
Có đêm cả nhà tôi chuẩn bị đi ngủ thì bà ta lù lù dẫn xác đến... Rồi đám tề ngụy
thôn xã giả vờ dẫn “lão hộ pháp” đi bắn chim ở nỗng Chùa, “tiện thể” ghé vô nhà
tôi uống nước và đi dạo quanh nhà quanh vườn ngắm nhìn phong cảnh làng quê...
Mẹ tôi biết bà hàng xóm “cu dê đê” đã bí mật khai báo với
chính quyền tề ngụy về tấm ảnh của anh Hai tôi. Và bọn chúng đã chỉ đạo cho bà
ta tăng cường giám sát nhà tôi. Đồng thời lấy cớ bắn chim, bọn chúng cũng kiểm
tra lại những thông tin mà bà ta cung cấp có chính xác không? Bởi hồi gia đình
tôi còn ở trong ấp chiến lược, cạnh nhà bà Cả Chững, bà ta cũng đã có lần dựng
chuyện, chỉ điểm láo, báo hại bọn chúng uổng công phí sức rình mò ngõ cống ấp
ông Đệ đế rồi bị Đội công tác Phước Kỳ biết được, chủ động mai phục nện cho một
trận nên thân! Mẹ tôi vẫn mềm mỏng đối phó với bà hàng xóm “cu dê đê”. Không
thân thiết quá mức. Cũng chẳng thờ ơ ghẻ lạnh. Mẹ tôi cứ làm như không có chuyện
gì xảy ra! Còn cô Ba Lùng bỗng dưng “thân thiết” với bà hàng xóm “cu dê đê” để
rủ rê chèo kéo bà ta cùng qua nhà mẹ tôi chơi. Hai mẹ con cô ở nhờ một gia đình
người quen bên nhà gã Liên toán trưởng nhân dân tự vệ khu dồn Phước Lộc. Lâu
lâu hai mẹ con cô lại dắt díu nhau về khu dồn Phước Tiên và xin tá túc trong
nhà vợ con lính ngụy. Bọn chúng không hề nghi ngờ cô Ba Lùng là đầu mối liên lạc
giữa anh Ba tôi với Đội công tác Phước Kỳ.
Tuy nhiên, bọn chúng cũng nhanh chóng điuyển anh Ba tôi đang
đi lính nghĩa quân đóng ở bót Hố Tre để canh giữ khu dồn Phước Lộc xuống đồn
Phước Hòa ở cách xa nhà hơn mười cây số. Nguyên do anh Ba tôi bỗng dưng “hăng
hái” đi lính nghĩa quân vào cuối năm 1973 mãi sau này tôi mới được biết. Ấy là
vì phía “đằng mình” yêu cầu. Các bác, các chú thấy anh Ba tôi to cao khỏe mạnh,
sống trong vùng bị địch tạm chiếm, nhất định không trước thì sau cũng bị bọn
chúng bắt đi quân dịch. Nếu anh bị bọn chúng đẩy vào lính Cộng hòa, Biệt động
quân... thì coi như mất đứt một cơ sở của ta mà các bác, các chú đã dày công gầy
dựng. Cho nên phía “đằng mình” yêu cầu anh tham gia sắc lính “gà cồ ăn quẩn cối
xay” ở ngay tại quê nhà để dễ bề liên lạc. Bọn tề ngụy thấy vậy, cho đó là...
chuyện lạ! Bởi đa phần thanh niên lúc bấy giờ (kể cả thanh niên là con cái của
những gia đình có “truyền thống chống Cộng” tới cùng) đều tìm mọi cách trốn
tránh, không muốn cầm súng ra mặt trận. Là “chuyện lạ” nhưng bọn chúng cũng...
cho qua! Đơn giản là bọn chúng đang rất cần có quân số để bổ sung cho các đơn vị
ở các chốt tiền tiêu.
Có điều bọn chúng luôn bí mật theo dõi mọi quan hệ giữa anh
Ba tôi với nhân dân ở gần khu vực đóng quân và bạn bè là lính tráng với nhau ở
các đồn bót khác. Bọn chúng đề cao cảnh giác, giám sát chặt chẽ vì sợ anh Ba
tôi làm nội ứng cho cách mạng...
Vào khoảng cuối hạ đầu thu 1974. Tình hình chiến sự ở Tiên
Phước vẫn yên ắng. Chẳng có đánh đấm gì, nhưng Đội công tác Phước Kỳ lại hay đột
nhập vào vùng địch tạm chiếm. Chính quyền tề ngụy biết rõ điều đó. Nghi ngờ anh
Hai tôi lén lút về thăm nhà, “lão hộ pháp” cùng với đám thuộc hạ bí mật mai phục
vòng trong vòng ngoài để hạ sát. Thoạt đầu gia đình tôi hoàn toàn không hề hay
biết âm mưu thâm độc của bọn chúng. Mẹ tôi chỉ lấy làm lạ là vào những đêm
khuya vắng, thoảng bay trong gió mùi thuốc lá thơm lẩn quất quanh nhà. Anh Ba
tôi ra vườn dạo xem và phát hiện những đót thuốc lá vương vãi khắp nơi cùng với
vô số dấu giày hằn in trên mặt đất. Thời gian này, mỗi khi tối đến, bà hàng xóm
“cu dê đê” cũng không sang nhà chơi, nói chuyện tào lao đồng với mẹ tôi như thường
lệ. Mẹ tôi cho rằng đám lính nghĩa quân ở đồn Gò Mè rình quanh nhà tôi để bắt
trộm gà đem về nấu cháo ăn khuya. Nhưng anh Ba tôi lại nghĩ khác. Lính nghĩa quân
mang giày vải bố, không giống với dấu giày hằn in trên đất ở phía sau vườn nhà
tôi. Bọn chúng toàn là những kẻ tham sống sợ chết. Khi màn đêm buông xuống, bọn
chúng luôn cố thủ trong các hầm hào nơi đồn bót. Và nơm nớp lo sợ bị đối phương
bất ngờ tấn công, đêm nào bọn chúng cũng bắn vu vơ dăm bảy loạt đạn AR15 hoặc
giộng vài ba trái đèn chiếu sáng lên trời để tự trấn an tinh thần lẫn nhau. Hầu
hết bọn chúng cứ trông mong tới sáng, ai trực chiến thì ở lại trực, còn ai chưa
đến phiên thì vội vã về nhà. Hơn nữa, bọn chúng chỉ dám hút loại thuốc Bastos rẻ
tiền, vì ai cũng có vợ con đùm đề, lương hưởng lại không cao.
Dựa vào những chứng cứ cũng như cách lập luận của mình, anh
Ba tôi khẳng định đám lính nghĩa quân ở đồn Gò Mè không làm việc đó, chỉ có bọn
cảnh sát dã chiến mà thôi! Anh Ba tôi lặng lẽ điều tra...
Và đúng như thế thật. “Lão hộ pháp”, gã Xã phó an ninh và gần
chục tên cảnh sát dã chiến đêm nào cũng bí mật mai phục quanh nhà tôi. Cứ chập
choạng tối, bọn chúng từ trung tâm quận lỵ Tiên Phước đến trường Đình, rẽ vào
xóm nhà bà Thược, vượt qua cánh đồng trước nhà ông Thủ Sáu, lên hố bà Hạnh rồi
quành xuống nỗng Chùa để đột nhập vô vườn nhà tôi nằm phục. Mờ sáng hôm sau bọn
chúng lại theo lối cũ mò về quận lỵ. Bố trí lực lượng rình rập ở hướng chính yếu,
còn những hướng phụ bọn chúng gài mìn clay mo. Có lần chăn thả con trâu Bầy ăn
lau lách dọc theo đường luồng từ giếng Cây Sơn lên nổng bà Vi, tình cờ tôi phát
hiện quấn dây điện và mấy trái mìn claymo bọn chúng cất giấu trong lùm dứa dại
để hôm sau lấy ra gài. Loại mìn này, tôi không lạ. Bởi tôi đã nhiều lần trông
thấy mấy tên lính nghĩa quân dùng dao cạy ra lấy mảnh lớn đập bể để lượm những
viên bi sắt nhỏ, sáng bóng, cho vào đạn súng calíp thay thế những viên chì, bắn
chim. Biết cách tháo gỡ nên khi vớ được mấy trái mìn claymo, tôi cũng dùng mấu
rựa cạy lấy mảnh lớn có chứa những viên bi sắt nhỏ đem cất giấu chỗ khác để làm
đạn ná cao su. Với “kho vũ khí” đó, tôi có thể sai khiến bọn thằng Khương, thằng
Đào, thằng Lý, thằng Điền, thằng Mày... làm theo ý mình! Bởi thứ “của độc” ấy đứa
nào cũng muốn có thật nhiều để đi săn lũ chào mào, sáo sậu...
Đầu mùa mưa, chính quyền tề ngụy phát động “phong trào thiếu
nhi lượm vỏ hộp sữa bò, mua dây su làm lon gài nhằm phòng chống Cộng sản xâm nhập
vào khu định cư”. Dường như năm nào cũng vậy, hễ đến mùa mưa, bọn chúng lại co
cụm cố thủ trong các đồn bót và kêu gọi mọi người “đồng tâm hiệp lực” để cùng với
chính quyền giữ gìn trật tự trị an.
Chẳng rõ mùa mưa 1974 có gì bất ổn mà bọn chúng huy động cả
trẻ em tham gia vào công việc “quốc gia đại sự” chỉ dành cho người lớn?! Tôi
không mấy quan tâm đến cái “phong trào...” tào lao đó. Có điều, tôi rất ghét
“lão hộ pháp”, gã xã phó an ninh và mấy tên cảnh sát dã chiến luôn rình rập
quanh vườn nhà tôi mỗi khi đêm đến. Và tôi quyết định chơi khăm bọn chúng một vố
cho... “biết khôn”! Tôi mở “kho vũ khí” bấy lâu giấu kín đem phân phát cho đám
bạn cùng trang lứa ở xóm Chùa mỗi đứa một ít và tuyên bố: “Đứa nào làm được nhiều
lon đế gài sẽ trọng thưởng xứng đáng bằng hiện vật là... đạn bi sắt mìn
claymo!”. Không ngờ bọn chúng “nhiệt liệt hưởng ứng”, chưa tới ba ngày sau đã
làm được cả trăm cái. Một buổi chiều mưa lâm thâm, tôi rủ cả bọn đem lon gài khắp
nỗng Chùa, nỗng bà Vi và những lối mòn dẫn xuống hố bà Hạnh. Chập choạng tối
hôm đó, “lão hộ pháp” lại dẫn đám thuộc hạ đến vườn nhà tôi mai phục. Và bọn
chúng vướng phải lon. “Ron... ron... ron...”. “Reng... reng... reng...”. Nghe
tiếng lon đổ dồn, đám lính nghĩa quân ở đồn Gò Mè bắn xuống xối xả. Bọn chúng
chạy loạn xạ và vướng lon gài khắp nơi. Đám lính nghĩa quân ở các đồn Hố Tre,
Dương Hợi, Gò Cao... nghe thấy thế cũng thi nhau nhả đạn chi viện cho “đồng đội”!
Tiêng súng nổ liên hôi kỳ trận gần nửa giờ mới ng. Ngồi bên
thằng Cu Đen và thằng Cu Em trong căn hầm nổi khá chắc chắn ở phía sau nhà, tôi
vô cùng lo lắng về việc đầu têu cái trò chơi khăm “lão hộ pháp” và đám thuộc hạ.
Hậu quả xảy ra tôi không hề lường trước được. Cũng may, mẹ và anh Bốn tôi hoàn
toàn không biết gì cả! Và đám bạn cùng trang lứa ở xóm Chùa cũng không thấu rõ
“âm mưu” của tôi! Mọi chuyện cứ ngỡ dừng lại ở đấy, nào ngờ sáng hôm sau “lão hộ
pháp” lên ngã ba bà Xù triệu tập đám liên gia, ấp trưởng, liên toán trưởng nhân
dân tự vệ lại chửi bới om sòm vì tội phát động “phong trào gài lon phòng chống
Cộng sản” làm bọn chúng suýt chút nữa thì... bỏ mạng! “Thoát nạn” qua “sự kiện”
ấy, tôi rất mừng. Nhưng mừng hơn là việc mai phục ở chung quanh nhà tôi bị bại
lộ nên bọn chúng thôi không rình rập nữa. Mặt đất không còn hằn in những dấu
giày. Và những đêm khuya vắng gia đình tôi không còn nghe mùi thuốc lá thơm thoảng
bay trong gió...