Tuổi thơ trong chiến tranh - Chương 08
KỲ SANH - MẢNH ĐẤT QUÊ CẰN CỖI...
Mở đường máu tháo chạy xuố
ng Tam Kỳ - trung tâm tỉnh lỵ Quảng Tín được gần hai tuần,
quân ngụy mới hoàn hồn, vội củng cố lực lượng và tổ chức phản công nhằm giải tỏa
Tiên Phước cho bằng được. Trước khi xua các sắc lính Biệt động quân, Cộng hòa,
Địa phương quân... lấn chiếm từng bước lên xã Phước Tiên, bọn địch dùng máy bay
phản lực ném bom và pháo tầm xa nã đạn “dọn đường”.
Thường xuyên chứng kiến bao cảnh đạn bom tàn phá xóm làng
trong thời lửa đạn chiến tranh, nhưng chưa khi nào tôi trải qua những ngày
tháng kinh hoàng như mùa thu 1972. Khu vực ngã ba bà Xù chẳng còn ai, ngoài gia
đình tôi với mấy thầy mấy cô tu hành ở chùa Tế Nam. Quân ngụy phản công, đánh
chiếm lại xã Phước Tiên một cách điên cuồng, bạo liệt. Leo tít lên chạc ba cây
bút cổ thụ ở góc nổng Chùa, tôi với thằng Cu Đen dõi mắt nhìn về hướng núi Sấu.
Máy bay “bà già” chậm rãi quần qua đảo lại trên bầu trời xanh ngắt, trông giống
chiếc diều khổng lồ no gió lượn lờ. Rồi bất ngờ nó phóng rốc két “roẻng...
ùng... oàng...” và nhanh chóng lảng đi nơi khác. Lập tức một đàn máy bay phản lực
ào đến. Chúng bay theo vòng xoắn ốc, ném bom. Mỗi lần chúng chúi xuống, tôi với
thằng Cu Đen nhìn thấy rõ mồn một những trái bom đen trũi, to như bắp đùi người
lớn, rơi ra. Và khi những trái bom đen trũi mất hút phía bên kia gò đồi thì
cũng là lúc những tiếng nổ long trời lở đất vang lên. Và những cột khói bụi
hình chiếc nấm cối bốc cao, cao mãi...
Thằng Cu Đen són đái trong quần khi đàn máy bay phản lực gầm
rú mở rộng vòng lượn xoẹt ngang trên đầu. “Về thôi, anh Năm! Em sợ lắm...”. Hắn
vừa nói, vừa khều chân tôi để cả hai cùng tụt khỏi chạc ba cây bút cổ thụ, men
theo bờ duối dại phía vườn sau chạy về nhà. Bầy quạ sắt bay trên trời cao và thả
bom xa lắc xa lơ, tôi không ngán! Chỉ đại bác nã đạn khi màn đêm buông xuống mới
làm tôi sợ thót tim! Không gian im ắng. Bất chợt từ xa - rất xa, tiếng đại bác
đề-pa “ùm... ùm...” vừa đồng vọng tới đã nghe những quả đạn thon dài xé trời
lao đi sát sạt trên đầu. Tiếng đạn đại bác réo thật là khủng khiếp! Nghe như tiếng
đập hàng ngàn chiếc thùng thiếc trong cùng một lúc, tạo nên những âm thanh rổn
rẻng điếc tai. Lại nghe như tiếng hàng vạn con dao xắt chuối liếc mài trên hòn
Đá Dựng dội vào màng nhĩ, khiến ta cảm thấy ớn lạnh sống lưng, bởi đá và kim
khí va nhau rờn rợn. Rồi những tiếng nổ “oàng... oàng...” liên tiếp rền vang.
Tiếng đất đá bị hất tung lên cao rơi xuống rào rào. Tiếng cây cối bị phạt ngang
thân gãy đổ ầm ào. Tiếng miểng đạn bay u u... Khu vực chung quanh ngã ba bà Xù
bị băm vằm nát tương. Bọn địch nã đạn lúc xa, lúc gần, chẳng theo một quy luật
nào cả! Đang bắn như mưa ở ngõ Đồng Nga, chúng đột ngột chuyển qua xóm Chùa. Đạn
nổ tứ tung. Mẹ tôi ngồi trong hầm trú ẩn sợ quá, cứ lầm rầm khấn vái: “Nam mô
Quán Thế m Bồ Tát đại từ đại bi... Nam mô A Di Đà Phật...”. Thằng Cu Em, thằng
Cu Đen và tôi cũng sợ mất mật, không dám bấm nhau cười rúc rích như mọi khi.
Chúng nện pháo xuống xóm Chùa như giã gạo chày ba cả tiếng đồng hồ mới chịu
xoay sang hướng Đồng Eo và ngã ba ông Khuyến...
Chiến sự xảy ra cận kề dốc ông Lô. Tôi biết được điều đó là
do tiếng súng tiểu liên của hai bên giao tranh quyết liệt. Anh Ba tôi bàn với mẹ:
“Tình thế này, chắc vài ba ngày nữa quân ngụy sẽ tràn tới đây. Lúc ấy, nhà mình
phải đi Tam Kỳ đế tránh bị tình nghi...”. Mẹ tôi đồng ý. Và gia đình tôi khẩn
trương chuẩn bị cho cuộc ly quê bất đắc dĩ. Tranh thủ những lúc ngớt tiếng
súng, anh Ba và anh Bốn tôi vác mâm thau, nồi đồng, chén kiểu, bát đĩa, bình
trà, lọ hoa... làm bằng gốm sứ có từ đời nảo đời nào đem thả xuống giếng cô
Mày, giếng Thầy Năm, giếng Cây Sơn. Cũng cần nói thêm, số của nả này do ông bà
nội tôi chôn giấu từ hồi “chín năm” nhằm tránh máy bay oanh tạc, khi thoát khỏi
cảnh “ăn nhờ ở đậu” cạnh nhà bà Cả Chững, về lại nơi chốn cũ vườn xưa, ba tôi mới
đào lên để dùng. Đúng như anh Ba tôi dự đoán, khoảng mấy hôm sau, lính “Cộng
hòa” đội mũ sắt sùm sụp, mang ba lô, súng ống đầy người, kéo vô xóm Chùa đông
như kiến cỏ. Chúng bắn chó, ví gà, bắt vịt... giết thịt nấu ăn nhồm nhoàm một
cách ngang nhiên vì gia chủ đã vội vã ra đi từ khi chiến sự vừa xảy ra! “Các
chú ở nhà tôi thì ở, nhưng đừng có đốt, tội nghiệp!”. Mẹ tôi nói với đám lính
“Cộng hòa” tóc tai bù xù, mặt mày hốc hác do thiếu ngủ, trước lúc ly quê. Anh
Ba tôi dắt chiếc xe đạp chất đầy đồ đạc lỉnh kỉnh. Anh Bốn tôi nắm theo dắt con
trâu Bầy. Tôi và thằng Cu Đen cầm roi lẽo đẽo theo sau lùa. Còn mẹ tôi vừa bồng
thằng Cu Em, vừa mang tay nải áo quần. Mặc dù “xã Phước Tiên đã được giải tỏa”,
không còn tiếng súng nổ đùng đoàng, nhưng các khu dồn vắng tanh vắng ngắt, tịnh
không bóng người!
Cả nhà tôi dắt díu nhau theo đường cái quan lần xuống Tam Kỳ.
Đi bộ rạc cẳng, gần trưa gi đình tôi mới qua Suối Đá rồi đến
Kỳ Long. Tại đây tôi thấy mọi người tụ tập rất đông. Họ ở Tiên Phước chạy xuống.
Hằng ngày họ rủ nhau ra đường ngồi ngóng xem tình hình đã ổn định chưa để sớm
được trở về làm ăn sinh sống. Vừa trông thấy mặt mẹ tôi, gã Xã trưởng Phước Kỳ,
hất hàm, gằn giọng: “Sao nhà bà không ở luôn với Cộng sản, còn mò xuống dưới
này làm chi?”. Tuy rất bực nhưng mẹ tôi vẫn mềm mỏng trả lời: “Các con tôi còn
nhỏ, chạy theo ngõ núi Sấu, đi sao cho thấu? Chạy đi để sống, nhưng như thế,
không khéo lại chết bờ chết bụi dọc đường...”. “Thằng Hường nhà bà đâu?”. Gã lại
hất hàm, hỏi. Mẹ tôi giả vờ quệt nước mắt, bảo: “Hắn bị Cộng sản bắt rồi, ông
ơi!”. “Hừ ! Bị Cộng sản bắt? Nhưng, Cộng sản bắt vô tình hay hữu ý thì chỉ có
trời mới biết mà thôi!”. Gã nói móc khiến mẹ tôi nổi đóa: “Ông ăn nói chi lạ?
Dân bầu ông làm Xã trưởng để lo cho dân. Cộng sản vừa mới đánh vô, ông đã vội
chạy thoát thân, bỏ mặc dân tình nơi hòn tên mũi đạn... Vậy mà bây giờ ông lại
mỉa mai... Thằng Hường nhà tôi bị Cộng sản bắt vô tình hay hữu ý thì ông đi mà
hỏi Cộng sản, khắc rõ!”.
Thấy mẹ tôi nói có lý, mọi người hùa vào bênh vực. Gã Xã trưởng
hậm hực bỏ đi. Gã Xã phó hành chính vội vàng “dĩ hòa vi quý”: “Chị đừng cãi cọ
làm chi! Tính ông ấy thích hoạnh họe nơi đông người cho oai vậy thôi!”. Rồi gã
Xã phó kéo mẹ tôi ra một góc, nói nhỏ: “Tôi đã làm danh sách cho gia đình chị được
lãnh bánh mì, gạo trắng, cá khô... Có cả phần của thằng Hường nữa! Và tôi cũng
đã kê khai nhà cửa chị bị hư hại nặng để được Chính phủ cấp tôn hạt mè lợp lại.
Sau này ký nhận, chị nhớ chia phần cho tôi với...”. Mẹ tôi gật đầu. Gã Xã phó
hành chính cười hề hề mãn nguyện: “Chuyện thằng Hường để tôi lo! Chị yên
tâm...”.
Cứ tưởng cả nhà tôi phải nằm bờ ngủ bụi, nào ngờ lại gặp được
người quen. Đó là gia đình ông Bốn Thập. Ông làm nghề thợ rèn. Trước đây, gia
đình ông ở cạnh ngã ba bà Xù. Năm 1965, Mỹ ngụy dồn dân lập ấp chiến lược thôn
Hữu Lâm, gi đình ông chạy xuống Kỳ Long sinh sống. Trong những ngày tá túc ở
nhà ông Bốn Thập, mẹ tôi cắt đặt công việc cho từng người. Thằng Cu Đen có nhiệm
vụ trông giữ thằng Cu Em. Tôi được phân công chăn dắt con trâu Bầy. Mẹ tôi lo
cơm nước. Anh Ba tôi suốt ngày hết nằm lại ngồi bó gối trong căn hầm tối om,
không dám ra ngoài vì sợ bị bắt lính. Anh Bốn tôi được giao trọng trách tìm về
Kỳ Sanh để báo cho cô Năm và chú Chín tôi ra đưa cả nhà về quê nội.
Nhân đây, tôi xin được nói thêm vì sao tôi lại có thêm một
quê nội nữa ở Kỳ Sanh! Ba tôi vốn họ Nguyễn, quê ở làng Đông An, thôn Trung
Thành, xã Kỳ Sanh, quận Lý Tín. Theo lời ba tôi kể, ông bà nội tôi có chín người
con cả thảy. Ba tôi là con thứ tám trong gia đình. Trong chín người con có bốn
người kỳ hình dị tướng. Người con thứ hai da trắng như bạch tạng. Người con thứ
ba da đỏ như son. Người con thứ tư da lại đen như nhọ nồi. Và người con thứ tám
là ba tôi, ốm o gầy còm, nhưng rất sáng dạ và có trí nhớ tuyệt vời. Cả ba người
da trắng, da đỏ và da đen đều mất khi vừa qua tuổi hai mươi một cách kỳ lạ: Lặng
lẽ về với đất sau một giấc ngủ trưa! Ông bà nội tôi sợ người con thứ tám cũng từ
giã cõi đời nên cho xuống tóc nương nhờ cửa Phật ở chùa Phú Sơn. Tại đây, người
con thứ tám - tức là ba tôi, tình cờ gặp gỡ người khách phương xa đến vãng cảnh
chùa. Sau khi ngắm nhìn tướng mạo “chú tiểu” kỹ càng, người khách phương xa nhờ
vị sư trụ trì liên hệ với mẹ cha để cậu bé được hoàn tục và làm con nuôi của
gia đình ông.
Tuy không còn mang họ Nguyễn và sống ở làng Lâm Bình, nhưng
hằng năm ba tôi vẫn về thăm nơi cắt rốn chôn nhau của mình. Ông bà nội đẻ của
tôi đều đã qua đời từ lâu. Bác Sen - người anh trai đầu của ba tôi, đi tập kết
ra Bắc sau Hiệp định Genève - 1954. Nhưng cô Năm và chú Chín - người chị thứ
năm và người em út của ba tôi, hiện vẫn làm ăn sinh sống ở quê. Anh Bốn tôi đi
ngày hôm trước thì ngày hôm sau trở về. Đương nhiên, có chú Chín tôi và chú Lan
- hàng xóm. Chú Chín bảo: “Khi nghe tin chiến sự xảy ra ở Tiên Phước, em và chị
Năm đoán chắc thế nào chị cũng dẫn các cháu xuống Tam Kỳ lánh nạn. Em và chị
Năm ra đây mấy lần, dò hỏi khắp nơi, nhưng chẳng có ai biết!”. Và chú Chín bảo
với mẹ tôi: “Bây giờ em tính thế này! Chị cùng với thằng Cu Em, thằng Cu Đen ra
ngã ba Nam Ngãi đón xe đò vô Đông An. Có thằng Lan đi theo dẫn đường, chị khỏi
phải lo sợ lạc...! Thằng Cúc Đẹt cùng với em và ông Lan dắt con trâu Bầy đi bộ.
Còn thằng Chi thì em đã nhờ nhờ Út Thanh - con ông Cần, lấy xe Honda chở đi. Hắn
to con lớn xác, ló mặt ra, bọn quân cảnh đứng gác đầy đường sẽ bắt lính
ngay...”.
Hơn một ngày trời cùng với chú Chín và chú Lan dắt con trâu
Bầy, khi băng qua đồng, khi lội qua sông, lúc men theo đường quốc lộ, lúc đi lối
tắt... đến tối mịt tôi mới về tới nơi. Anh Ba tôi cũng về trước đó không lâu.
Anh bảo, anh mặc đồ học sinh - quần xanh áo trắng, cầm mấy cuốn sách trong tay
để anh Út Thanh chở đi. Dọc đường, bọn quân cảnh chờm ra, thấy viên sĩ quan
“lính chiến Cộng hòa” đeo lon Thiếu úy, súng ngắn bên hông, dáng vẻ phong trần,
chạy xe bạt mạng, chúng đâm ngán ngẩm, cho qua! Và nhờ thế mọi chuyện êm xuôi,
trót lọt...
Xây đồn lập bót khắp nơi, nhưng chính quyền tề ngụy và đám
lính nghĩa quân ở xã Kỳ Sanh không dám bố ráp, hoạnh họe dân lành vì sợ... “mấy
ông trên núi”! Địch chỉ kiểm soát ba thôn thuộc khu vực trung tâm xã, còn lại
là “vùng xôi đậu”, ban ngày quốc gia quản lý, ban đêm cách mạng điều hành! Ai
ngại gian khổ và muốn có nhiều tiền, cứ việc đi lính quốc gia, “mấy ông trên
núi” không ngăn cấm. Họ có thể cầm súng cho địch hoặc tham gia chính quyền tề
ngụy, nhưng không được tỏ ra hăng hái tích cực trong việc lùng sục bắt bớ các
cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm. Còn ai trọng nghĩa khinh tài, chấp
nhận mất mát hy sinh, muốn thoát ly gia đình đi kháng chiến, chính quyền tề ngụy
cũng làm ngơ, coi như không biết! Hai Huệ - con trai đầu của chú Chín tôi, đến
tuổi thi hành quân dịch, thích đi bộ đội hơn đi lính quốc gia. Chú Chín tôi làm
bữa cơm liên hoan đưa tiễn đàng hoàng, hẹn “mấy ông trên núi” xuống tận nhà dẫn
đi, rồi tung tin bị “Cộng sản” bắt khi đột nhập vô làng!Cái “luật bất thành
văn” ấy, có từ bao giờ tôi không rõ. Nhưng tôi biết, kẻ nào không thực hiện điều
đó thì phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của mình! Tôi còn nhớ, tại cầu Hào
vào đầu năm 1973, du kích Kỳ Sanh đã thi hành bản án tử hình đối với tên ác ôn
do quận Lý Tín tăng cường về địa phương. Chập choạng tối hôm đó, tôi đang dắt
con trâu Bầy ngang qua đồng Bộng thì nghe hai tiêng súng nổ ở cầu Hào. Và lát
sau đám lính nghĩa quân kháo nhau tên ác ôn bị “mấy ông trên núi” “khử” rồi ! Đối
với người dân Kỳ Sanh, dù làm ăn sinh sống trong vùng địch hoàn toàn kiểm soát
hay “vùng xôi đậu”, dù có chồng con đi lính hoặc tham gia chính quyền tề ngụy,
họ vẫn một lòng hướng về cách mạng...
Khoảng hai tháng sau, kể từ ngày cả nhà tôi về quê nội ở với
gia đình chú Chín, địch đã giải tỏa xong khu vực trung tâm quận lỵ Tiên Phước.
Anh Ba tôi lại được anh Út Thanh dùng xe Honda chở về tận nhà. Mẹ và anh Bốn
tôi đi xe đò ra Tam Kỳ rồi cuốc bộ về quê. Ba anh em tôi vẫn ở Đông An. Lúc bấy
giờ gia đình chú Chín tôi cũng chẳng khá giả gì! Cả nhà đều trông cậy vào ông.
Làm nghề thợ hồ thời bom rơi đạn nổ, chú Chín tôi không có công ăn việc làm thường
xuyên, nuôi sống gia đình gồm sáu miệng ăn đã khó, giờ lại đèo bòng thêm gia
đình tôi nên vất vả trăm bề. Ông rơi lệ khi thấy “ tôi nhìn thằng cu Huy [44]
cùng bạn bè trong xóm tung tăng cắp sách đến trường với ánh mắt thèm thuồng.
Ông rất muốn cho anh em tôi đi học song đành chịu vì lực bất tòng tâm. Thằng Cu
Em suốt ngày tha thẩn chơi với cái Lê và cu Sơn - con chú Chín tôi, hoặc quanh
quẩn bên cô Năm. Còn tôi với thằng Cu Đen thay phiên nhau chăn thả con trâu Bầy.
Lúc bấy giờ, thằng Cu Đen đã to lớn hơn tôi. Chẳng biết hắn tập bơi khi nào mà
lặn hụp giỏi như một con rái cá. Hắn khoái thả trâu cùng thằng Sự, thằng Dũng,
thằng Út Kỳ, thằng Út Quý... để dễ bề lập thành nhóm đánh nhau với bọn trẻ
Khương Thọ. Hễ thấy bọn trẻ làng bên, hắn lập tức khiêu khích bằng cách hát
nghêu ngao:
Đông An ăn cá bỏ đầu
Khương Thọ lượm mót xỏ xâu đem về... !
Bọn trẻ làng bên cũng không vừa, đáp trả:
Khương Thọ ăn cá bỏ đầu
Đông An lượm mót xỏ xâu đem về... !
Lời qua tiếng lại, rồi hai bên tức máu vượt sông Trầu, choảng
nhau! Bọn trẻ Đông An luôn giành “chiến thắng” vì có thằng Cu Đen liều lĩnh cầm
đầu. Tuy nhiên, cũng có lần thằng Cu Đen bị đối phương “tặng một quả trứng gà
trên trán”, phải nhào lộn lại bên này sông Trầu và nhanh chân tẩu thoát! Hôm đó
là một buổi chiều chủ nhật. Bọn trẻ Khương Thọ được nghỉ học, ở nhà. Chúng bố
trí lực lượng mai phục sẵn tại đập bà Nang, rồi cho vài ba đứa vừa ra đồng chăn
trâu vừa hát nghêu ngao: “Khương Thọ ăn cá bỏ đầu...”. Thằng Cu Đen vội dẫn bọn
trẻ Đông An sang “hỏi tội”, vô tình lọt vào “ổ phục kích” của bọn trẻ làng bên
và bị chúng vây chặt lại, ném trái mù u tơi bời, mỗi đứa phải chạy thất tán một
nơi ! Và sau “trận thua nhớ đời” ấy, thằng Cu Đen “mất uy”, không còn ham hố
đánh nhau với bọn trẻ ở làng bên Khương Thọ...
Do thích chơi với bọn con trai để đầu têu đủ trò nghịch ngợm
nên hôm nào thấy bọn con gái lùa trâu ra đồng, thằng Cu Đen tìm cách “nhường phần”
cho tôi! Hắn không giả vờ đau bụng thì cũng làm bộ khụt khịt vì... nhức đầu sổ
mũi!
Tôi biết tỏng tòng tong hắn chẳng ốm đau gì sất, nhưng cãi
không lại, đành phải ra đồng chăn trâu cùng bọn con gái! Cái Hoa con của “ông
Hoa nhướng”, cái Nga, cái Nhựt con của “chú Anh cao”, cái Cơ con của “chú Lan
vui tính”... đều ngoan hiền dễ thương, không đanh đá chua ngoa. Nhưng đi chăn
trâu chung với bọn con gái tôi thấy chán ngấy! Chúng cứ ngồi tụm năm tụm ba, vừa
vạch tóc bắt chấy cho nhau, vừa rì rầm trò chuyện và cười rúc rích... Đã vậy,
nhiều lúc tôi còn bị chúng sai vằng cách “nhờ cậy” lùa giùm trâu đang đến gần
đám khoai sắn ở gò mồ côi giữa đồng Bộng! Đi chăn trâu với bọn con gái, đứng xớ
rớ mãi cũng buồn, tôi leo lên những cây duối dại hái những quả chín vàng ươm,
to như hạt ngô răng ngựa, để nhấm nháp. Nhưng duối dại ra quả theo mùa, đâu phải
quanh năm! Đúng vào lúc vô công rồi nghề khi lẽo đẽo theo bọn con gái chăn
trâu, tôi phát hiện ra nhà chú Chín tôi có cả một kho sách cất kỹ trong mấy chục
thùng đạn đại liên. Và thế là mỗi khi ra đồng, tôi “thủ” nơi cạp quần một cuôn
sách để đọc. Chú Chín tôi có rất nhiều loại sách. Truyện Tàu có. Truyện kiếm hiệp
có! Truyện dài Quỳnh Dao có! Truyện thiếu nhi cũng có!
Ngốn hết mớ truyện thiếu nhi như O chuột, Giăng thề, Dế mèn
phiêu lưu ký..., tôi chuyển qua đọc truyện Tàu, rồi truyện dài của Quỳnh Dao,
truyện kiếm hiệp của Kim Dung... Sở thích của chú Chín tôi là uống rượu, nhưng
không hiếu sao ông lại mua sách nhiều đến thế? Tôi đọc ngấu nghiến và nhồi nhét
vô đầu óc mình cả một mớ sách...
Cận Tết Quý Sửu - 1973. Anh Bốn tôi tay xách nách mang lỉnh
kỉnh quà quê vào biếu cô Năm và gia đình chú Chín tôi. Đồng thời, anh cho biết
ngày mai dẫn thằng Cu Đen và thằng Cu Em về trước. Còn tôi sẽ cùng với chú Chín
dắt con trâu Bầy về sau. Tôi cảm thấy vừa vui lại vừa buồn. Vui vì sắp được gặp
lại mẹ và anh Ba tôi. Còn buồn vì sẽ phải chia xa những đứa con trai con gái đã
cùng tôi chăn trâu trên những cánh đồng làng ở Đông An. Và bỗng dưng tôi thấy
nhớ con sông Trầu vô hạn. Nhớ những buối sáng nước ròng, cả bọn lội bì bõm, vạch
rong tìm bắt những con tôm rảo, những con cá tong, những con cua còng đem nhen
lửa nướng ăn. Nhớ những buổi trưa nước lên, cả bọn lại trèo lên cây lộc vừng có
cành nhánh chìa ra mặt sông, nhảy ùm xuống nước bơi lội, rượt đuổi nhau, la hét
om sòm cả Doi Huệ... Nhớ lan man những tháng ngày sông ở Kỳ Sanh - mảnh đất quê
cằn cỗi, rồi tôi lại nhớ về Tiên Phước - nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Tết
Quý Sửu này, gia đình tôi sum vầy bên nhau sau gần nửa năm ly tán. Đêm hôm ấy,
tôi cứ nằm thao thức mãi và thầm mong cho trời mau