Kẻ May Mắn - Chương 08 - Part 01

Chương 8

Thibault

Thibault không muốn trở lại Iraq,
nhưng một lần nữa, trung đoàn số 5 thuộc sư đoàn số 1 bị gọi trở lại vào tháng
Hai năm 2005. Lần này, trung đoàn của anh sẽ đến Ramadi, thủ phủ của tỉnh Al
Anbar và phía Tây Nam của vùng được mệnh danh là “Tam giác chết”. Thibault đã ở
đó bảy tháng.

Bom xe và IDE - thiết bị nổ tự chế -
xuất hiện nhan nhản. Chúng đơn giản nhưng rất đáng sợ: thường là đạn súng cối
với ngòi nổ được kích hoạt bằng điện thoại di động. Lần đầu tiên Thibault bị
dính bom là khi anh đang đi trên một chiếc Humvee, anh biết đáng ra chuyện còn
có thể tệ hơn nhiều.

“Mừng là tớ đã nghe được tiếng bom,”
sau vụ nổ Victor nói. Thibault và Victor hầu như lúc nào cũng đi tuần cùng
nhau. “Thế nghĩa là tớ vẫn còn sống.”

“Cả tớ cũng vậy,” Thibault trả lời.

“Nhưng tớ không muốn bị trúng thêm
một quả nào nữa đâu.”

“Cả tớ cũng vậy.”

Nhưng tránh bom không dễ chút nào.
Ngày hôm sau, trong lúc đi tuần, họ lại bị dính một quả bom khác. Một tuần sau
đó, chiếc Humvee của họ bị một chiếc xe chở bom tấn công - nhưng trường hợp của
Thibault và Victor cũng chỉ là chuyện cơm bữa ở đây chứ chẳng có gì là bất
thường cả. Hầu như lần nào đi tuần, mấy chiếc Humvee cũng bị tấn công. Đa số
lính trong trung đội này đã sống sót qua hai đến ba vụ tấn công bằng bom trước
khi về được đến Pendleton. Vài người khác đã trải qua bốn hay năm vụ. Viên
trung sĩ của họ đã qua sáu vụ. Nơi đây là thế. Gần như không ai không biết
chuyện về Tony Stevens, một lính thủy đánh bộ thuộc trung đoàn số 24, đã sống
sót qua chín vụ đánh bom. Một tờ báo lớn đã có một bài viết về anh ta với nhan
đề “Người lính thủy đánh bộ may mắn nhất”. Đó là một kỷ lục mà chẳng ai muốn
phá.

Nhưng Thibault đã phá kỷ lục đó.
Tính tới lúc rời khỏi Ramadi, anh đã thoát được mười một vụ nổ. Tuy nhiên trong
số đó có một vụ cứ ám ảnh anh mãi.

Đó là vụ nổ lần thứ tám. Lần ấy có
Victor đi cùng anh vẫn may mắn như mọi khi, nhưng lần này kết cục lại tệ hơn.
Với đội hình gồm bốn chiếc Humvee, họ tuần tra trên một trong những con phố
chính của thành phố. Một khẩu súng chống tăng bắn thẳng vào chiếc Humvee dẫn
đầu, may mắn là nó bị hỏng nhẹ, nhưng đủ để khiến cho cả đoàn phải tạm thời
dừng lại. Những chiếc xe két gỉ sét và ọp ẹp đã dàn sẵn ở hai bên đường. Chúng
bắt đầu nổ súng. Thibault vội nhảy ra khỏi chiếc Humvee thứ hai để chạy tới chỗ
có tầm nhìn tốt hơn. Victor cũng bám theo anh. Chạy tới được một chỗ nấp, họ
bắt đầu chuẩn bị vũ khí của mình. Hai mươi giây sau, một chiếc xe bom lao thẳng
tới, nổ tung, phá hủy chiếc Humvee mà họ chỉ vừa mới thoát ra lúc trước. Ba
lính thủy đánh bộ hy sinh; Victor bị bất tỉnh. Thibault kéo bạn trở lại đội
hình, rồi sau đó họ gom xác lại và trở về vùng an toàn.

Vào quãng thời gian đó, Thibault bắt
đầu nghe được những tiếng xì xầm xung quanh mình. Anh để ý thấy những đồng đội
khác trong trung đội bắt đầu cư xử khác đi với anh, bởi lẽ họ tin rằng
Thibault, bằng một cách nào đó, dường như được miễn khỏi các quy luật của chiến
tranh. Những người khác có thể chết, nhưng anh thì không. Tệ hơn, những người
bạn của anh bắt đầu ngờ vực rằng trong khi Thibault thật sự may mắn thì những
người đi cùng anh lại cực kỳ không may. Mọi người không phải lúc nào cũng tỏ
thái độ công khai, nhưng không thể phủ nhận một điều là các thành viên trong
trung đội của anh đã đối xử với anh khác đi. Anh còn ở lại Ramadi thêm hai
tháng nữa, kể từ sau ngày ba người lính kia bị chết. Việc anh sống sót qua vài
vụ tấn công bằng bom nữa chỉ làm tăng thêm những lời bàn tán xì xầm. Những
người lính khác bắt đầu tránh mặt anh. Dường như chỉ có Victor là vẫn cư xử với
anh bình thường. Cho đến gần cuối chuyến công tác ở Ramadi, trong một lần làm
nhiệm vụ bảo vệ một trạm xăng, anh nhìn thấy Victor bị run tay khi châm điếu
thuốc lá. Trên đầu họ, bầu trời lấp lánh những vì sao>“Cậu ổn chứ?” anh hỏi.

“Tớ chuẩn bị về nhà,” Victor nói.
“Tớ xong nhiệm vụ của mình rồi.”

“Cậu không định quay lại vào năm sau
sao?”

Victor rít một hơi thuốc dài.
"Mẹ tớ muốn tớ trở về nhà, còn em tớ đã giới thiệu cho tớ một công việc.
Thợ lắp mái nhà. Cậu nghĩ tớ có thể lắp mái nhà được không?”

“Được chứ. Cậu sẽ là thợ xây mái
giỏi ấy chứ.”

“Bạn gái tớ, Maria, cũng đang đợi
tớ. Tớ biết cô ấy từ hồi mười bốn tuổi.”

“Tớ biết, cậu có kể cho tớ về cô ấy
rồi.”

“Tớ sẽ cưới cô ấy.”

“Cậu cũng nói rồi luôn.”

“Và tớ rất muốn cậu tham dự lễ cưới
của tớ.”

Trong ánh sáng nhập nhoạng của đầu
điếu thuốc, anh thấy nụ cười chập chờn của Victor. “Tớ sẽ không bỏ lỡ đám cưới
của cậu đâu.”

Victor lại rít một hơi dài, và họ
đứng trong yên lặng suy nghĩ về một tương lai mà họ thấy sao xa vời đến thế.

“Cậu thì thế nào?” Victor vừa nói
vừa thở ra một làn khói thuốc. “Cậu có định quay lại không?”

Thibault lắc đầu. “Không. Tớ thế là
đủ rồi.”

<“Cậu sẽ làm gì sau khi giải
ngũ?”

“Tớ không biết. Có thể tớ sẽ nghĩ
ngơi một thời gian, đi câu cá ở Minnesota, một nơi mát mẻ trong lành, nơi mà tớ
có thể ngồi trên thuyền thư giãn.”

Victor thở dài. “Nghe thật tuyệt.”

“Cậu muốn đi với tớ không?”

“Có.”

“Vậy thì tớ sẽ gọi cho cậu khi nào
lên kế hoạch cho chuyến đi,” Thibault cam đoan.

Thibault có thể nghe thấy tiếng cười
lẫn trong giọng nói của Victor. “Tớ sẽ đến.” Cậu hắng giọng, “Cậu muốn biết một
điều không?”

“Chỉ khi cậu muốn nói cho tớ biết.”

“Cậu có nhớ cái trận đó không, lần
mà Jackson và những người khác hy sinh khi chiếc Humvee nổ tung ấy?”

Thibault nhặt một hòn sỏi ném vào
khoảng không tối đen trước mặt. “Có!”

“Cậu đã cứu tớ.”

“Không phải đâu. Tớ chỉ kéo cậu lại
thôi.”

Victor tiếp tục.

“Thibault, tớ làm theo cậu. Khi cậu
nhảy khỏi chiếc Humvee ấy. Tớ đã định ở lại, nhưng khi thấy cậu nhảy ra, tớ
biết mình không được lựa chọn.”

“Cậu đang nói v...”

“Về bức ảnh,” Victor ngắt lời. “Tớ
biết cậu luôn mang nó bên mình. Tớ đã làm theo vận may của cậu, và nó đã cứu
tớ.”

Lúc đầu, Thibault chẳng hiểu gì,
nhưng đến khi nghĩ ra điều Victor muốn nói, anh lắc đầu không tin. “Nó chỉ là
một bức ảnh thôi Victor.”

“Đó là vận may,” Victor cãi lại, ghé
sát mặt Thibault. “Và cậu là một kẻ may mắn. Khi nào giải ngũ, tớ nghĩ cậu nên
đi tìm người phụ nữ trong ảnh đó. Chuyện giữa cậu và cô ấy vẫn chưa kết thúc
đâu.”

“Không...”

“Nó đã cứu sống tớ.”

“Nó không cứu được những người khác.
Quá nhiều những người khác.”

Mọi người đều biết rằng trung đoàn
số 5 thuộc sư đoàn số 1 đã phải chịu nhiều tổn thất ở Iraq, nhiều hơn các trung
đoàn khác cùng sư đoàn.

“Nhưng nó bảo vệ cậu. Và khi nhảy
khỏi chiếc Humvee, tớ tin nó cũng sẽ cứu sống tớ, cứng như là cậu luôn tin nó
sẽ cứu cậu vậy.”

“Không, tớ không tin,” Thibault
khăng khăng.

“Vậy thì, chiến hữu, tại sao cậu
luôn mang theo nó chứ hả?”

* * *

Thứ Sáu, ngày làm việc thứ ba của
Thibault ở trại chó và mặc dù đã bỏ lại phía sau hầu hết những gì liên quan tới
quá khứ nhưng anh vẫn luôn mang theo bức ảnh trong túi. Cũng như anh luôn nghĩ
về những gì Victor đã nói ngày hôm đó.

Lúc này, Thibault đang dắt một con
mastiff đi trên một đường mòn râm mát, khuất khỏi tầm nhìn từ văn phòng, nhưng
vẫn thuộc lãnh địa của gia đình bà Nana. Con chó này rất lớn, ít nhất phải bằng
cỡ một con Great Dane, và cứ mười giây nó lại liếm tay Thibault một lần. Hết
sức thân thiện.

Anh đã thành thạo những công việc
đơn giản hàng ngày: cho lũ chó ăn uống và tập thể dục, vệ sinh chuồng, lên lịch
hẹn khách hàng. Không có gì khó. Anh cũng khá chắc chắn rằng bà Nana đang cân
nhắc đến việc cho phép anh phụ huấn luyện bầy chó. Hôm trước đó, bà đã bảo anh
xem cách bà huấn luyện một con chó, khiến anh nhớ lại dạo tập cho Zeus: dùng
những câu lệnh rõ ràng, ngắn, đơn giản, ra hiệu bằng cử chỉ, chỉ dẫn dứt khoát,
và đừng tiếc lời khen ngợi. Sau khi buổi huấn luyện kết thúc, bà bảo Thibault
đi bên cạnh trong lúc bà dẫn con chó về chuồng.

“Cậu có thể làm được như thế không?”
bà hỏi.

“Được ạ.”

Bà ngoái nhìn Zeus khi ấy đang theo
đằng sau hai người. “Đó cũng là cách cậu huấn luyện Zeus phải không?”

“Cũng gần tương tự ạ.”

Hôm được bà phỏng vấn, Thibault đưa
ra hai yêu cầu. Thứ nhất, anh đề nghị được đưa Zeus tới chỗ làm. Anh giải thích
rằng Zeus đã quá quen với việc phần lớn thời gian luôn ở cùng anh, nên nó sẽ có
phản ứng không tốt nếu bị tách khỏi anh suốt cả ngày. Ơn Chúa, bà Nana cũng
hiểu điều đó.

“Tôi đã làm việc với chó béc giê
nhiều năm, nên tôi hiểu ý cậu,” bà nói. “Tôi chấp nhận, miễn sao nó không gây
phiền phức.”

Tất nhiên Zeus sẽ không gây phiền
phức rồi. Thibault sớm hiểu rằng không nên cho Zeus vào trại chó trong khi anh
cho lũ chó ăn hay làm vệ sinh, bởi sự xuất hiện của Zeus có thể khiến vài con
trong số chúng căng thẳng. Ngoài chuyện này ra thì Zeus hoàn toàn thích ứng với
nơi đây. Nó đi theo Thibault mỗi khi anh tập thể dục cho lũ chó hoặc dọn dẹp
bãi huấn luyện, và nó sẽ nằm ở hiên gần lối vào trong khi Thibault sửa soạn
giấy tờ. Khi khách hàng đến, Zeus luôn gầm gừ cảnh giác, chính là nó đã được dạy
để làm thế. Chừng ấy cũng đủ để khiến hầu hết khách hàng phải dừng sững ngay
tại chỗ. Nhưng chỉ cần một lệnh ngắn gọn của Thibault, “Không sao đâu,” là đủ
để giữ Zeus ngồi im.

Yêu cầu thứ hai của Thibault là xin
được bắt đầu công việc vào thứ Tư, vì anh cần thời gian thu xếp nơi ở. Và bà
Nana cũng đồng ý như vậy. Hôm Chủ nhật, trên đườug từ trại chó về, anh đã mua
một tờ báo và tìm đọc các quảng cáo cho thuê nhà. Cũng không khó để thu gọn
danh sách chọn lựa; tất cả chỉ có bốn ngôi nhà, và ngay lập tức, Thibault đã có
thể loại bỏ hai ngôi nhà lớn hơn, vì anh không cần quá nhiều phòng như vậy.

Thật trớ trêu, hai lựa chọn còn lại
nằm ở hai rìa đối ngược nhau của thị trấn. Ngôi nhà đầu tiên là ở trong một khu
dân cư cũ nằm kề ngay khu thương mại, nhìn ra sông South. Tiện nghi đầy đủ.
Hàng xóm dễ chịu. Nhưng không hợp với anh. Nhà cửa ở đó cứ san sát nhau. Ngôi
nhà thứ hai có vẻ ổn. Nó nằm cuối một con đường đất cách chỗ anh làm khoảng hơn
ba cây số, trong một ngôi làng thôn dã bao quanh rừng quốc gia. Rất tiện, anh
có thể đi xuyên qua rừng để đến trại chó. Đường đi không ngắn hơn là bao nhưng
bù lại, Zeus có thể lang thang thăm thú. Đó là ngôi nhà một tầng, mộc mạc kiểu
miền Nam, ít nhất phải đến một trăm năm tuổi nhưng được tu sửa tương đối tốt.
Sau khi lau lớp bụi trên cửa sổ, Thibault nhìn vào bên trong. Phải đầu tư cho
nó một chút, nhưng không đến mức làm anh thoái chí. Phòng bếp được bài trí theo
phong cách rất xưa, góc bếp có một cái lò sưởi nhóm bằng củi, và nó là thứ duy
nhất dùng để sưởi ấm cho toàn bộ ngôi nhà. Sàn lát bằng những tấm gỗ thông khổ
rộng trầy xước và ố bẩn, còn mấy chiếc tủ thì xem ra đã có ở đây từ thời ngôi
nhà được xây lên, nhưng có vẻ như những thứ này chỉ làm nổi bật hơn nét đặc sắc
của ngôi nhà chứ không hề làm giảm giá trị của nó. Hơn nữa, trong nhà đầy đủ
những đồ đạc cơ bản: bàn, ghế, đèn, và thậm chí cả một cái giường ngủ.

Thibault gọi theo số máy trong mục
quảng cáo, và vài tiếng sau, anh nghe thấy tiếng xe của chủ nhà. Họ trao đổi
ngắn gọn những thông tin cần thiết, té ra ông ta cũng từng phục vụ trong quân
đội hai mươi năm, bảy năm cuối đóng tại căn cứ Bragg. Ngôi nhà này là của bố
ông ta, nhưng cụ đã mất cách đây hai tháng. Cũng tốt, Thibault nghĩ; nhà cửa
cũng như xe hơi vậy, nếu không được sử dụng thường xuyên, chúng sẽ bị xuống cấp
theo tốc độ tăng dần. Có nghĩa là ngôi nhà này có thể vẫn còn tốt. Tiền đặt cọc
và giá thuê hơi cao đối với anh, nhưng anh cần nhanh chóng thu xếp chỗ ở. Cuối
cùng, anh trả tiền đặt cọc và tiền thuê hai tháng. Cứ nhìn cái vẻ mặt của chủ
nhà thì xem ra ông ta đã không mong sẽ nhận được nhiều tiền mặt đến thế.

Thứ Hai, Thibault ngủ đêm đầu tiên ở
ngôi nhà đó, lấy túi ngủ trải tạm lên trên tấm nệm; sáng thứ Ba, anh đi bộ vào
thị trấn đặt mua một cái nệm mới, và chủ cửa hàng đồng ý giao hàng tới nhà luôn
tối hôm đó, đồng thời anh cũng mua thêm một ít đồ đạc khác. Anh trở về nhà với
chiếc ba lô chất đầy khăn trải giường, khăn tắm và đồ vệ sinh. Nhưng vẫn phải
mất thêm hai chuyến ra thị trấn để mua tủ lạnh, bát đĩa, cốc chén, vật dụng nhà
bếp, cùng với hẳn hai mươi lăm ký thức ăn cho Zeus. Cuối ngày hôm đó, lần đầu
tiên kể từ khi rời Colorado anh ước rằng mình có ô tô. Nhưng anh đã ổn định
được chỗ ở, và thế là đủ. Giờ đây anh đã sẵn sàng để đi làm.

Kể rừ khi bắt đầu công việc ở trại
chó vào thứ Tư, Thibault dành phần lớn thời gian bên cạnh bà Nana, tìm hiểu mọi
thứ liên quan tới chỗ làm mới này. Anh ít khi gặp Beth, hay là Elizabeth, cái
tên mà anh vẫn gán cho cô; sáng sáng, anh thấy cô quần áo chỉnh tề lái xe đi
làm và chỉ trở về vào buổi chiều tối. Bà Nana có nói gì đó về nhũng buổi họp
giáo viên, bởi vì năm học mới sẽ bắt đầu vào tuần tới. Ngoài mấy lần hiếm hoi
trao đổi những câu chào xã giao, lần duy nhất họ thực sự nói chuyện là khi cô
kéo anh ra một bên trong ngày đi làm đầu tiên, và nhờ anh để mắt trông chừng
bà. Anh hiểu ý cô. Rõ ràng là bà đã từng bị đột quỵ. Bài huấn luyện buổi sáng
luôn khiến bà thở dốc hơn bình thường, còn quên đường trở về nhà chính, dáng đi
của bà liêu xiêu trông thấy. Chuyện này làm anh cảm thấy lo lắng.

Thibault rất mến bà Nana. Bà có lối
diễn đạt hết sức đặc biệt. Nó làm anh thấy thích thú, và anh tự hỏi trong đó có
bao nhiêu phần trăm là do bà giả vờ. Dù lập dị thật hay không thì bà cũng rất
thông minh - không có gì phải nghi ngờ chuyện đó cả. Anh thường có cảm giác bà
đang đánh giá anh, kể cả trong những cuộc nói chuyện bình thường. Bà có quan
điểm riêng về mọi chuyện và không ngại chia sẻ chúng. Bà cũng không ngại kể về
mình cho anh nghe. Mới vài ngày trôi qua mà anh đã biết được khá nhiều về bà.
Bà kể về chồng mình và trại chó, về công việc huấn luyện mà bà đã làm trước
đây, về một số nơi mà bà đã đến. Bà cũng hỏi về anh, và anh thành thật trả lời
những câu hỏi của bà về gia đình và thời niên thiếu của mình. Tuy nhiên có một
điều lạ là bà không bao giờ hỏi về giai đoạn anh tham gia quân đội, cũng không
quan tâm xem anh có từng chiến đấu ở Iraq hay không, điều đó khiến anh cảm thấy
không bình thường. Nlhưng đằng nào thì anh cũng không sẵn lòng kể về thời gian
ấy với bà, vì đó là những chuyện mà trong thâm tâm anh không bao giờ muốn nói
đến

Việc bà Nana chủ ý tránh đề cập tới
chủ đề đó - chính là khoảng trống bốn năm trong cuộc đời anh - chứng tỏ bà hiểu
đây là chuyện mà anh không muốn bộc bạch. Thậm chí cũng có thể bà suy đoán rằng
quãng thời gian anh ở Iraq có gì đó liên quan tới lý do anh ở đây.

Một phụ nữ thông minh.

Thời gian làm việc của anh là từ tám
giờ sáng đến năm giờ chiều. Nhưng anh luôn có mặt ở trại chó lúc bảy giờ sáng
và thường làm việc đến bảy giờ tối. Anh không muốn về nhà sớm vì biết ở đây vẫn
còn nhiều công việc cần làm. Một công đôi việc, vì nhờ thế mà Beth có cơ hội
nhìn thấy anh mỗi khi cô đi làm về. Gần nhau nhiều sẽ hóa quen thân, từ quen
thân ắt dẫn đến thoải mái. Mỗi khi nhìn thấy cô, anh lại nhớ rằng mình đến đây
là vì cô.

Nói cho cùng thì những lý do khiến
anh đang có mặt ở đây cũng có gì đó khá mơ hồ, kể cả đối với anh. Đúng, anh đã
tới đây, nhưng tại sao? Anh muốn gì ở Beth? Liệu rồi anh có nói với cô cái sự
thật đó hay không? Tất cả những việc này rồi sẽ dẫn đến đâu? Trong suốt chuyến
đi từ Colorado, mỗi khi suy ngẫm về những câu hỏi này, anh chỉ nghĩ đơn giản là
mình sẽ có câu trả lời nếu như và khi nào anh gặp được người phụ nữ trong bức
ảnh. Nhưng bây giờ, khi đã tìm được cô, anh vẫn không tiến được gần hơn chút
nào tới câu trả lời so với lúc rời Colorado.

Trong lúc đó, anh đã biết được vài
điều về Beth. Chẳng hạn như cô có một cậu con trai. Hơi bất ngờ một chút - anh
chưa bao giờ tính tới khả năng này. Cậu bé tên là Ben. Từ những thông tin ít ỏi
có được, anh có thể nói Ben là một đứa trẻ ngoan. Bà Nana có kể rằng cậu bé
chơi cờ vua và đọc sách rất nhiều, anh chỉ biết có vậy. Ngay từ hôm bắt đầu làm
việc, Thibault đã bắt gặp Ben đang quan sát anh từ sau rèm cửa hoặc lén nhìn về
phía anh trong khi anh đang làm việc với bà Nana. Nhưng Ben vẫn giữ khoảng cách.
Thibault băn khoăn không biết đấy là ý của Ben hay của mẹ cậu bé.

Chắc là của mẹ cậu bé.

Thibault biết rằng mình không tạo
được ấn tượng ban đầu tốt với cô. Cái cách anh đờ người ra khi lần đầu nhìn
thấy cô cũng chẳng giúp ích gì. Thibault đã biết trước rằng cô rất quyến rũ,
nhưng bức ảnh màu đó không ghi lại sự ấm áp lan tỏa từ nụ cười của cô, hay cái
lối cô săm soi anh hết sức nghiêm túc, như để xem anh giấu giếm những khiếm
khuyết gì vậy.

Mải suy nghĩ, Thibault đi đến khu
vực huấn luyện đằng sau trại chó lúc nào không hay. Con mastiff thở hổn hà hổn
hển, Thibault bèn dẫn nó về chuồng. Anh bảo Zeus ngồi yên trong lúc mình đưa
con mastiff vào cũi. Anh rót đầy bát nước của nó và vài bát đã vơi khác, rồi về
văn phòng lôi ra bữa trưa đơn giản đã gói ghém sẵn từ trước và đi ra phía con
suối.

Thibault thích ăn trưa ở đây. Con
suối nước lợ và cây sồi râm mát với đám cành lá sà thật thấp phủ đầy dây leo
khiến người ta có cảm giác nơi đây còn hoang sơ như thời tiền sử. Cả Thibault
và Zeus đều thích chỗ này. Chếch qua một bên, phía sau những cành cây, anh thấy
một ngôi nhà cây và một cầu thang thả xuống đất, các bậc thang được làm từ
những mảnh ván đầu thừa đuôi thẹo, như thể người làm ra nó cũng không chắc mình
đang làm gì. Như thường lệ, Zeus nhảy xuống suối, ngâm mình dưới nước tới ngang
hông cho mát, rồi cu cậu sục đầu xuống nước sủa vang. Một con chó bị khùng.

“Nó đang làm gì vậy?” một giọng nói
vang lên.

Thibault quay đầu lại thấy Ben đang
đứng trên rìa khoảng đất trống. “Chú không biết,” Thibault nhún vai. “Chú đoán
là nó đang sủa mấy con cá.”

“Nó có hay làm thế không ạ?”

“Lần nào ra đây nó cũng làm thế.”

“Thật kỳ lạ,” cậu bé nhận xét.

“Chú biết.”

Zeus cũng nhận thấy sự hiện diện của
Ben, và sau khi chắc chắn rằng sẽ không có mối đe dọa nào từ phía cậu bé, nó
lại ngụp đầu xuống nước rồi sủa om lên. Ben vẫn đứng ở rìa khoảng đất trống.
Không biết phải nói gì, Thibault cắn một miếng bánh kẹp.

“Hôm qua cháu cũng thấy chú ra đây,”
Ben nói.

“Vậy sao?”

“Cháu đã đi theo chú.”

“Chú cũng đoán vậy.”

“Nhà cây của cháu ở đằng kia."
Ben chỉ về phía ngôi nhà. “Đó là chỗ trốn bí mật của cháu.”

“Ngôi nhà thật tuyệt.” Thibault nói
rồi chỉ vào một cành cây bên cạnh. “Cháu muốn ngồi không?”

“Cháu không được đến gần chú quá.”

“‘Không được ư?”

“Mẹ cháu bảo chú là người lạ.”

“Nghe lời mẹ là điều khôn ngoan
đấy.”

 

Báo cáo nội dung xấu