Kẻ May Mắn - Chương 07 - Part 01
Chương 7
Beth
Chủ nhật.
Sau khi đi lễ nhà thờ, thời gian còn
lại trong ngày là để cô nghỉ ngơi, hồi phục sức khỏe và nạp lại năng lượng cho
tuần mới. Cô muốn ở bên gia đình, nấu món hầm trong bếp và đi bộ thư giãn dọc
bờ sông. Cũng có thể là nhâm nhi một cốc rượu vang và đọc một cuốn sách yêu
thích, hoặc ngâm mình trong bồn tắm ấm áp sủi bọt.
Việc mà cô không muốn làm là phải
dành cả hốt phân chó trên bãi cỏ chúng tập dượt, dọn chuồng, hay huấn luyện
mười hai con chó tiếp theo, hay chết gí trong cái văn phòng nóng đến toát mồ
hôi chờ người đến nhận chó - trong khi lũ chó lại đang thư giãn trong cũi có
điều hòa mát lạnh. Vậy nhưng, đó lại chính là những việc mà cô phải làm kể từ
lúc từ nhà thờ trở về nhà sáng sớm nay.
Hai con chó đã được đón về, nhưng
theo lịch thì hôm nay còn phải trả bốn con nữa. Bà thật dễ thương khi giao hết
cả đống giấy tờ này cho cô trước khi lui vào trong nhà xem bóng chày trên ti
vi. Lúc này đội Atlanta Braves đang đấu với đội Mets. Bà không chỉ là cổ động
viên cuồng nhiệt của Atlanta Braves, tới mức Beth cảm thấy tức cười, mà bà còn
ghi nhớ tất cả những sự kiện liên quan đến đội này. Điều đó giải thích cho sự
hiện diện của hàng chồng hàng dãy cốc cà phê Atlanta Braves cạnh quầy bar, cờ
phướn Atlanta Braves treo kín tường, lịch bàn Atlanta Braves, và cái đèn
Atlanta Braves đặt gần cửa sổ.
Tuy đã mở cửa song không khí trong
văn phòng vẫn rất ngột ngạt. Đó là một trong những ngày hè nóng ẩm, rất thích
hợp để đi bơi ở sông, còn thì chẳng hợp cho bất kỳ việc gì khác nữa. Áo Beth
ướt sũng mồ hôi, và do đang mặc quần soóc nên đùi cô cứ dính chặt vào mặt chiếc
ghế nhựa. Mỗi khi nhúc nhích hai chân, cô lại được thưởng thức cái âm thanh
giống như lúc người ta tách băng dính ra khỏi hộp các tông, nghe mà gớm ghiếc.
Bà cô thấy nhất thiết phải giữ mát
cho lũ chó, thế nhưng lại chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện bổ sung ống dẫn khí mát
vào phòng làm việc. “Nếu cháu nóng thì cứ việc mở cánh cửa dẫn ra chỗ trại chó
ấy,” bà toàn nói vậy mà lờ đi một sự thật rằng chỉ có bà là không bao giờ thấy
phiền vì tiếng chó sủa ầm ĩ cả ngày, còn hầu hết những người bình thường khác
thì ngược lại. Hơn nữa, hôm nay còn có một cặp song ca bé bỏng nữa: ấy là hai
con chó săn giống Jack Russell sủa không ngừng nghỉ kể từ khi Beth đến. Cô đoán
chắc chúng đã sủa cả đêm qua, vì mấy con khác cũng tỏ ra rất gắt gỏng. Cứ
khoảng một phút, những con khác lại cất tiếng hòa theo làm nên một bản hợp ca
giận dữ, cao vút và dữ dội, cứ như thể con nào cũng muốn bày tỏ sự bất mãn của
mình bằng cách sủa to hơn những con khác vậy. Thế nghĩa là chẳng có cơ hội nào
cho cô mở cái cánh cửa đó ra hứng luồng không khí mát vào phòng cả.
Cứ chực chạy lên nhà để uống một cốc
nước mát, nhưng rồi Beth lại thôi bởi một ý nghĩ kỳ quặc là hễ cô vừa rời khỏi
văn phòng, thế nào chủ của một con chó giống cocker spaniel cũng sẽ xuất hiện.
Họ đã gọi tới văn phòng từ nửa giờ trước để thông báo với cô là đang trên đường
tới - “Mười phút nữa chúng tôi sẽ tới nơi!” - và họ là kiểu người sẵn sàng làm
loạn lên nếu con chó của họ phải ngồi chờ trong cũi lâu thêm một phút nữa, nhất
là khi nó đã phải xa nhà những hai tuần lễ.
Nhưng cuối cùng thì họ tới chưa? Rõ
ràng là chưa.
Mọi việc sẽ dễ hơn nhiều nếu Ben ở
đây. Sáng nay cô đã nhìn thấy nó trong nhà thờ với Keith, và đúng như cô đoán,
trông thằng bé thật ủ rũ. Như thường lệ, ở đó chả có gì vui đối với nó. Đêm
qua, trước lúc đi ngủ, thằng bé gọi điện cho cô kể rằng Keith đã dành phần lớn
buổi tối ngồi một mình ngoài hiên, trong khi nó thì phải lau bếp. Thế là sao
chứ hả? Tại sao anh ta không cảm nhận được niềm vui của chuyện được ở cùng với
con trai mình? Hay chỉ đơn giản là ngồi nói chuyện với nó thôi cũng được vậy?
Ben là đứa trẻ dễ gần nhất thế giới, và cô nói thế không phải là vì cô thiên vị
con mình. Ờ thì đúng, cô thừa nhận là có thể mình cũng hơi thiên vị một chút,
nhưng là một giáo viên, cô đã tiếp xúc với rất nhiều trẻ em, và cô biết mình
đang nói gì. Ben thông minh. Ben hài hước. Ben tốt bụng. Ben lịch thiệp. Ben là
một đứa trẻ tuyệt vời, và cô tức phát điên lên khi thấy Keith quá ngu ngốc đến
độ không nhận ra điều đó.
Cô cứ ước rằng mình đang ở trong nhà
và... làm cái gì đó. Bất cứ cái gì. Kể cả giặt quần áo cũng còn thích hơn là
ngồi đây. Ngồi đây cô có quá nhiều thời gian để nghĩ ngợi. Không chỉ nghĩ về
Ben, mà cả về bà nữa. Cô cũng băn khoăn không biết năm nay mình có thể đi dạy
học hay không. Rồi tình hình yêu đương ảm đạm cũng luôn khiến cô chán nản. Thật
tuyệt vời nếu như gặp được một người đặc biệt, một người để chia sẻ niềm vui,
một người có thể yêu Ben cũng nhiều như cô. Hay ít ra cũng là một người để cùng
đi ăn tối và xem phim. Một người đàn ông bình thường, người không quên trải
khăn ăn lên lòng những lúc ở nhà hàng và thi thoảng mở cửa cho cô. Những việc
đó đâu có gì quá đáng, phải không? Cô không hề nói dối Melody khi cho rằng mình
chẳng có nhiều lựa chọn ở cái thị trấn này, mặc dầu cô cũng phải thừa nhận mình
kén cá chọn canh, nhưng ngoài quãng thời gian ngắn ngủi hẹn hò với Adam thì cô
đã dành hầu như tất cả các ngày nghỉ cuối tuần trong một năm qua để ở nhà. Bốn
mươi chín trong tổng số năm mươi hai đợt nghỉ cuối tuần. Không phải là cô quá
kén chọn, điều này thì cô đảm bảo. Đơn giản Adam là người duy nhất mời cô đi
chơi, và rồi chẳng hiểu vì lý do gì đột nhiên anh ta không gọi điện cho cô nữa.
Đấy, lịch sử tình trường của cô suốt mấy năm qua tóm lại chỉ có thế.
Nhưng cũng chả quan trọng, đúng
không? Dù sao thì đến giờ cô vẫn sống khỏe mà chẳng cần tới chuyện yêu đương,
và cô sẽ tiếp tục phát huy. Với cả, phần lớn thời gian cô cũng không thấy phiền
não gì. Giá mà hôm nay không nóng khủng khiếp thế này thì chắc cô cũng chả bận
tâm tới chuyện đó làm gì. Nhất định phải đi kiếm cho mình thứ gì đó mát mẻ
thôi. Kẻo không cô sẽ lại miên man nghĩ về quá khứ, rồi lại ngồi ì ra ở đây.
Cầm cái cốc rỗng lên, cô quyết định đi lấy nước đá. Tiện thể sẽ lấy luôn một
cái khăn nhỏ để phủ lên ghế mà ngồi.
Khi đứng dậy, cô liếc nhanh về phía
con đường trải sỏi vắng ngắt, rồi viết nguệch ngoạc một dòng thông báo rằng cô
sẽ quay lại sau mười phút và dán lên cửa trước của văn phòng. Bên ngoài, mặt
trời rọi nắng chói chang khiến cô rảo bước về phía bóng râm của cây mộc lan già
rồi đi theo con đường trải sỏi dẫn về ngôi nhà nơi cô đã lớn lên. Nó được xây vào
khoảng năm 1920, na ná kiểu nhà trang trại rộng rãi và thấp, bao quanh là hàng
hiên rộng và các mái chìa chạm nổi mô tả các môn thể thao. Sân sau, được ngăn
cách với khu trại chó và văn phòng bởi những giậu cây cao ngất, nằm dưới bóng
râm của một cây sồi khổng lồ, có bày một dãy bàn ăn ngoài trời. Trước kia hẳn
là nơi này đã rất hoành tráng nguy nga, nhưng cũng như rất nhiều ngôi nhà khác
ở vùng nông thôn quanh Hampton, thời gian và khí hậu đã bào mòn nó. Bây giờ,
mái hiên xệ xuống, sàn kêu cọt kẹt; nếu có gió mạnh, thậm chí giấy tờ cũng có
thể bay tứ tung khỏi bàn kể cả khi cửa sổ đã đóng. Bên trong ngôi nhà, tình
hình cũng không khá hơn: kết cấu rất vững chắc, nhưng cần được gia cố lại, đặc
biệt là phòng bếp và phòng tắm. Bà cũng biết vậy và thỉnh thoảng có nhắc tới
việc sửa sang nhà cửa, song những kế hoạch đó luôn luôn bị trì hoãn. Ngoài ra,
Beth cũng phải công nhận rằng đây là một nơi đặc biệt quyến rũ. Không chỉ vì
sân sau giống hệt như một ốc đảo thực thụ, mà vì cả những thứ bên trong nữa.
Bao năm qua, bà vẫn thường lui tới các cửa hàng đồ cổ, và bà thích tất cả mọi
thứ mang phong cách Pháp thế kỷ mười chín. Bà còn dành phần lớn các ngày nghỉ
cuối tuần để tới những buổi thanh lý đồ cũ tìm kiếm tranh cổ. Bà có sở trường
về tranh vẽ nói chung và đã xây dựng được một số mối quan hệ tốt với các chủ
phòng tranh ở khắp miền Nam này. Hầu như bức tường nào trong nhà cũng có tranh
treo. Nhân một lần cao hứng, Beth đã thử tra cứu tên tuổi một số họa sĩ trên
Google và biết rằng những tác phẩm khác của họ được treo ở Bảo tàng Nghệ thuật
Metropolitan tại New York và Thư viện. Huntington ở San Marino, California. Khi
cô nói về những gì đọc được trên mạng, bà nháy mắt bảo, “Cảm giác giống như khi
nhâm nhi một ly sâm banh, phải không?” Đằng sau lối chọn từ kỳ quặc của bà
thường là bản năng rất sắc bén.
Vừa đến được hiên trước và mở cửa
ra, một luồng gió má vào người khiến Beth thấy thật khoan khoái, cô cứ đứng
nguyên đó mà thưởng thức cái cảm giác dễ chịu này.
“Đóng cửa vào,” bà nói vọng ra.
“Cháu đang làm cho không khí thoát hết ra ngoài đấy.” Rồi bà ngồi xoay lại,
nhìn Beth một lượt. “Cháu có vẻ nóng hả.”
“Rất nóng ạ.”
“Bà nghĩ hôm nay văn phòng chắc là
nóng như cái lò.”
“Bà nghĩ thế ạ?”
“Bà nghĩ đáng lẽ cháu phải mở cái
cửa thông sang chuồng chó như bà dặn ấy. Nhưng chắc chỉ có bà mới vậy. Thôi
nào, vào đây một lúc cho mát đi.”
Beth hướng ánh mắt về phía chiếc ti
vi. “Đội Braves chơi thế nào ạ?”
“Như mớ cà rốt vậy.”
“Vậy là tốt hay không tốt ạ?”
“Cà rốt có chơi bòng chày được
không?”
“Cháu nghĩ là không.”
“Thế là cháu biết câu trả lời rồi
đấy.”
Beth mỉm cười và đi vào trong bếp.
Mỗi khi đội Braves thua, bà thường tỏ ra có đôi chút cáu kỉnh.
Cô lấy khay đá ra khỏi tủ lạnh và
nạy ra vài cục. Sau khi thả chúng vào trong cốc, cô rót nước và khoan khoái
thưởng thức một hơi thật dài. Cảm thấy đói bụng, cô chọn một quả chuối từ khay
đựng hoa quả rồi quay trở lại phòng khách. Ngồi lên tay vịn đi văng, cô cảm
nhận mồ hôi từ cơ thể đang bốc hơi trong không khí mát lạnh của căn phòng, lúc
thì nhìn Nana, lúc thì xem trận đ đang diễn ra trên ti vi. Beth cũng muốn hỏi
xem có bao nhiêu bàn thắng đã được ghi rồi, nhưng cô biết bà không có hứng trả
lời. Tất nhiên là không rồi khi mà đội Braves chơi như một mớ cà rốt. Liếc nhìn
đồng hồ, cô thở dài, biết rằng đã đến lúc phải quay trở lại văn phòng.
“Ghé thăm bà thật là thích.”
“Bà cũng thế, cháu yêu. Nhớ đừng để
bị nóng bức quá nhé.”
“Vâng, cháu sẽ cố.”
Beth sải bước trở lại văn phòng trại
chó, hết sức thất vọng khi chẳng thấy một cái xe nào ở bãi đỗ, có nghĩa là
những người chủ vẫn chưa đến nhận chó về. Tuy nhiên, có một người đàn ông đang
đi bộ trên lối dẫn vào văn phòng, bên cạnh là một con chó béc giê Đức. Từng đám
bụi nhỏ cuộn lên trên mặt đất phía sau anh ta. Đầu con chó rũ xuống, lưỡi thè
ra ngoài. Beth tự hỏi tại sao họ lại ra ngoài dạo chơi trong một ngày nóng nực
thế này. Ngay cả con vật cũng thích được ở trong nhà hơn. Nghĩ lại, cô nhận ra
đây là lần đầu cô thấy có người dắt chó đi bộ đến trại. Không những vậy, dù là
ai đi nữa thì nguời này cũng không gọi điện hẹn trước. Bất cứ ai gửi chó ở đây
đều gọi điện hẹn trước.
Thấy rằng người đàn ông kia sẽ tớí
văn phòng cùng lúc với mình, Beth vẫy tay chào và ngạc nhiên khi thấy anh ta
dừng lại nhìn cô chăm chú. Con chó của anh ta cũng vậy, tai nó dỏng lên, và ý
nghĩ đầu tiênt xuất hiện trong đầu Beth là trông nó thật giống Oliver, con béc
giê Đức mà bà đã mang về nhà khi cô mười ba tuổi. Nó cũng có màu đen pha nâu,
cũng kiểu nghiêng đầu như thế, cũng cái dáng vẻ dọa dẫm ấy khi gặp người lạ.
Nhưng cô không hề sợ nó. Ban ngày Oliver giống chó của Drake hơn là của Beth,
nhưng đến tối thì nó luôn tới ngủ cạnh giường của cô, chờ được vỗ về.
Miên man một lúc với những kỷ niệm
về Drake và Oliver, cô không nhận ra người đàn ông kia vẫn đứng bất động. Anh
ta cũng không nói gì. Lạ thật. Có thể anh ta muốn gặp bà chăng. Vì gương mặt
anh ta bị khuất bóng nên cô không cảm nhận được điều gì hơn nữa, nhưng cũng
chẳng sao. Bước tới cửa, cô gỡ tờ thông báo xuống mở cửa, chắc mẩm anh ta sẽ
vào theo khi đã sẵn sàng. Cô bước vòng qua bàn thu ngân, và khi nhìn thấy chiếc
ghế nhựa, cô nhớ ra là mình không đem theo cái khăn.
Cho rằng cần phải chuẩn bị giấy tờ
để người lạ mặt làm thủ tục gửi chó, Beth rút từ trong tủ hồ sơ ra một tờ khai
gắn vào tấm bìa kẹp. Rồi cô lục khắp bàn tìm một cây bút, sau đó đặt cả hai lên
bàn đúng lúc người lạ mặt và con chó đi vào. Anh ta mỉm cười, và khi ánh mắt họ
gặp nhau, đó là một trong số những lần hiếm hoi trong đời cô cảm thấy thật sự
không thốt được lời nào.
Không hẳn là vì anh ta cứ nhìn cô
chằm chằm, mà do cái cách anh ta nhìn thì đúng hơn. Nghe thì có vẻ điên rồ,
nhưng quả thực anh ta đang nhìn cô như thể nhận ra cô vậy. Mà chắc chắn trước
giờ cô chưa từng thấy anh ta. Nếu gặp rồi thì hẳn cô phải nhớ ngay, bởi vì cái
cách anh ta dường như đang chế ngự bầu không khí trong phòng khiến Beth nhớ đến
Drake. Giống Drake, anh ta cao khoảng một mét tám, hơi gầy, đôi tay rắn chắc,
bờ vai rộng. Dáng vẻ của anh ta toát lên một sức mạnh đầy quyến rũ, lại được
tôn thêm bởi bộ quần jean áo phông đã bạc màu nắng gió.
Nhưng sự giống nhau giữa Drake và
anh ta cũng chỉ có vậy. Trong khi mắt Drake có màu nâu viền vàng thì mắt của
người này màu xanh da trời; trong khi Drake luôn để tóc ngắn thì tóc người này
lại dài hơn, gần như là không cắt tỉa gì. Beth để ý thấy mặc dù phải đi bộ đến
đây, nhưng xem ra anh ta đổ mồ hôi ít hơn cô.
Bỗng dưng Beth cảm thấy lúng túng và
quay mặt đi chỗ khác đúng lúc người lạ mặt tiến một bước về phía bàn thu ngân.
Qua khóe mắt, cô quan sát anh ta khẽ hướng lòng bàn tay mình về phía con chó.
Cô đã nhìn thấy bà làm động tác đó hàng nghìn lần, và con chó hiểu được từng cử
động nhỏ nhất của chủ, lập tức ngồi yên tại chỗ. Con chó này đã được huấn luyện
rất tốt, vậy chắc là anh ta đến để gửi nó.
“Con chó của anh đẹp thật,” cô vừa
nói vừa đẩy cái kẹp hồ sơ về phía anh ta. Tiếng nói của cô đã phá vỡ bầu im
lặng khó xử. “Tôi cũng từng có một con béc giê Đức. Tên nó là gì vậy?”
“Cảm ơn cô. Nó tên Zeus”
“Chào Zeus.”
Zeus nghiêng đầu.
“Tôi cần anh ký vào đây,” cô nói.
“Và nếu anh có bản copy hồ sơ theo dõi của nó thì tốt. Hoặc là thông tin để
liên lạc.”
“Xin lỗi?”
“Hồ sơ theo dõi của con chó. Anh đến
đây để gửi Zeus phải không?”
“Không,” anh ta đáp và chỉ qua vai.
“Thật ra, tôi đã thấy bảng thông báo ở cửa sổ. Tôi đang tìm việc, và tôi đang
tự hỏi là ở đây vẫn cần người chứ?”
“Ồ.” Beth không chờ đợi điều này nên
cô cố gắng định thần lại.
Anh ta nhún vai, “Tôi biết đáng lẽ
tôi phải gọi điện trước, nhưng đằng nào tôi cũng tiện đường qua đây. Tôi nghĩ
hay là cứ rẽ qua xem có thể xin cô một cái đơn xin việc không. Tôi sẽ quay lại
vào ngày mai nếu cô muốn.”
“Không, không phải vậy. Tôi chỉ ngạc
nhiên thôi. Thường thì người ta không đến xin việc vào Chủ nhật.” Thật ra thì
những ngày khác cũng chẳng có ai ghé qua, nhưng cô lờ điều nàv đi. “Ở đây tôi
có một tờ đơn. Xin đợi một chút để tôi tìm nó.” Vừa nói cô vừa quay lại cái tủ
hồ sơ đằng sau, mở ngăn kéo dưới cùng ra và bắt đầu lục lọi tìm kiếm trong tập
hồ sơ. “Tên anh là gì?”
“Logan Thibault.”
“Tên Pháp ư?”
“Đó là quê bố tôi.”
“Tôi chưa gặp anh ở đây bao giờ.”
“Tôi mới đến thị trấn này.”
“Đây rồi, nó đây!” Cô đã tìm được
mẫu đơn.
Cô đặt tờ đơn trước mặt anh cùng một
cây bút. Trong khi anh viết tên, cô quan sát thấy làn da của anh khá thô ráp,
có thể là do đi nắng nhiều. Tới dòng thứ hai của tờ đơn, anh dừng lại và ngẩng
đầu lên, mắt họ gặp nhau lần thứ hai. Beth cảm thấy mặt mình hơi đỏ nên cố giấu
vẻ lúng túng bằng cách giả vờ chỉnh lại áo sơ mi.
“Tôi không biết nên viết gì trong
mục địa chỉ. Tôi cũng nói rồi đấy, tôi mới đến thị trấn và hiện đang ở nhà trọ
Holiday Motor Court. Tôi cũng có thể dùng địa chỉ của mẹ tôi ở Colorado. Cô
muốn thế nào?”
“Colorado ư?”
“Đúng, tôi biết. Nó ở rất xa.”
“Vậy điều gì khiến anh đến Hampton?”
Chính là cô, Thibault nghĩ. Tôi đến
tìm cô. “Có vẻ như đây là một thị trấn xinh đẹp, và tôi quyết định sẽ thử sống
ở đây.”
“Không có gia đình ở đây?”
“Không.”
“Ồ,” cô nói. Dù đẹp trai hay không
thì câu chuyện của anh ta nghe có vẻ không hợp lý, và cô thấy đã tới lúc phải
cảnh giác. Cô còn lấn cấn vì một điều gì đó khác nữa mà tạm thời chưa biết là
cái gì. Phải mất vài giây cô mới nhận ra. Cô lùi một bước khỏi bàn thu ngân,
khiến cho khoảng cách giữa hai người xa hơn một chút. “Nếu chỉ vừa đến thị trấn
này, sao anh biết trại chó muốn thuê người làm? Tuần này tôi không hề đăng tin
tuyển dụng trên báo.”
“Tôi nhìn thấy bảng thông báo ở
đây.”
“Khi nào?" Beth liếc xéo anh,
“Tôi thấy anh đi bộ tới, và anh không thể nào nhìn thấy được cái bảng đó cho
tới tận khi anh vào đến trước cửa văn phòng.”
“Tôi đã nhìn thấy nó từ sángớm nay.
Chúng tôi đang đi dọc con đường thì Zeus nghe thây tiếng chó sủa. Nó chạy về
phía này, và khi đuổi theo tìm nó, tôi nhìn thấy tấm bảng. Lúc đó không có ai ở
đây nên tôi quyết định sẽ quay lại sau.”
Câu chuyện nghe có vẻ hợp lý, nhưng
Beth vẫn cảm thấy anh ta hoặc đang nói dối hoặc đang cố tình bỏ qua chi tiết
nào đó. Và nếu như anh ta đã ở đây từ trước thì điều đó có nghĩa là gì? Nghĩa
là anh ta đang tìm kiếm gì ở đây chăng?
Dường như Thibault đã nhận ra thái
độ không thoải mái ở cô. Anh đặt bút xuống, thò tay vào túi lấy hộ chiếu của
mình và mở nó ra, đẩy nhẹ về phía cô. Cô nhìn vào bức ảnh, rồi nhìn lên mặt
anh. Cả họ tên, cô thấy cũng đúng, tuy nhiên điều đó vẫn không làm vơi đi sự
cảnh giác trong cô. Chẳng ai đi qua Hampton mà lại quyết định ở lại cả.
Charlotte, hay Raleigh, hay Greensboro thì hoàn toàn có thể. Nhưng Hampton? Chả
có lý nào.
“Tôi hiểu,” Beth nói, bỗng dưng muốn
kết thúc cuộc nói chuyện này. “Ta tiếp tục nhé. Anh hãy ghi địa chỉ thư của anh
vào chỗ đó. Và kinh nghiệm làm việc nữa. Tiếp theo, tất cả những gì tôi cần là
một số điện thoại để có thể liên lạc.”
Anh nhìn thẳng vào mắt cô. “Nhưng cô
sẽ không gọi.”
Anh chàng này quả là sắc sảo, Beth
nghĩ. Và thẳng thắn nữa. Quả thực cô cũng định thế. “Đúng.”
Thibault gật đầu. “Đúng, dựa trên
những gì cô đã nghe được cho tới lúc này thì nếu là cô tôi cũng sẽ không gọi
lại. Nhưng trước khi cô rút ra một kết luận nào đó, tôi cổ thể bổ sung vài điều
không?”
“Xin mời.”
Giọng nói của cô rõ là để cho anh
biết rằng dù gì thì cô cũng không tin bất cứ điều gì anh nói.
“Đúng, hiện tôi đang ở tạm tại một
khách sạn nhỏ, nhưng rất cần tìm một chỗ quanh đây để ở. Tôi cũng sẽ tìm một
công việc ở đây.” Anh không hề chớp mắt. “Giờ xin nói một chút về mình. Tôi đã
t năm 2002, cử nhân khoa Nhân loại học. Sau đó tôi gia nhập lính thủy đánh bộ,
rồi được giải ngũ cách đây hai năm. Tôi chưa từng bị bắt hay bị buộc bất cứ tội
danh gì. Chưa từng dính vào ma túy, và chưa từng bị sa thải vì thiếu khả năng.
Tôi sẵn sàng đi xét nghiệm ma túy. Nếu muốn, cô có thể kiểm tra lý lịch của tôi
để chắc chắn về những điều tôi nói. Hoặc đơn giản nhất, cô có thể gọi cho sĩ
quan chỉ huy cũ của tôi, ông ấy sẽ xác nhận những điều tôi nói. Và, mặc dù luật
pháp không bắt buộc tôi phải trả lời một câu hỏi kiểu này, nhưng thật sự là
hiện tôi không phải điều trị bất cứ một loại bệnh nào. Nói một cách khác, tôi
không có vấn đề về tâm thần hay lưỡng cực hay hoang tưởng. Tôi chỉ là một người
cần tìm việc làm. Và chính xác là tôi đã thấy bảng tìm người từ sáng nay.”
Beth cũng không chắc mình mong đợi
Thibault trình bày điều gì, nhưng rõ ràng là anh đã làm cô bất ngờ.
“Tôi hiểu,” cô lại nói, tập trung
vào việc anh đã từng phục vụ trong quân ngũ.
“Liệu tôi có cần điền tiếp vào mẫu
đơn nữa không?”
“Tôi vẫn chưa quyết định.” Trực giác
mách bảo cô rằng lần này anh nói sự thật, nhưng cô vẫn tin anh hẳn còn giấu
điều gì đó nữa. Cô cắn môi. Cô cần một người làm. Nhưng điều gì quan trọng hơn
- tìm hiểu xem anh ta đang giấu giếm điều gì, hay là tìm một nhân viên mới?
Anh đứng thẳng trước mặt cô, vẻ điềm
tĩnh, tạo cảm giác tin tưởng dễ chịu. Tư thế một quân nhân, cô cau mày nhận
xét.
“Tại sao anh lại muốn làm việc ở
đây?” Ngay cả cô còn thấy câu hỏi của mình lộ rõ sự nghi ngờ. “Với bằng cấp như
vậy, anh có thể kiếm được công việc tốt hơn ở một chỗ khác trong thị trấn này.”
Thibault chỉ về phía Zeus. “Tôi
thích chó.”
“Nhưng lương không cao đâu.”
“Tôi không cần nhiều tiền
“Ngày làm việc sẽ dài đấy!”
“Tôi biết sẽ như thế.”
“Trước đây anh đã từng làm việc ở
trại chó nào chưa?”
“Chưa.”
“Tôi hiểu.”